Những góc nhìn Văn hoá

"Tiếng súng Bắc Sơn" - Một cái nhìn của các học giả nước ngoài

 “Tiếng súng Bắc Sơn” còn vang vọng

“Không hẳn là những thời cơ xảy đến ngẫu nhiên, mà chính là cách mà những nhà cách mạng khai thác các tình huống như thế là then chốt” để nhận thức về cách mạng Việt Nam, học giả phương Tây nhấn mạnh. Đã ba phần tư thế kỷ trôi qua, vẫn không phai sắc chàm pha gió của đổi thay vận nước, thổi khắp nơi cùng “tiếng súng Bắc Sơn”.

 Nhật Pháp bắn nhau

Tờ tin của Hiệp hội những cựu sinh viên và bạn bè của Đông Dương (L'Association Nationale des Anciens et Amis de l'Indochine) của Pháp số ra quý III, 1995, đăng bài Lính bộ binh thuộc địa Đông Dương ở châu Á trong chiến tranh thế giới thứ hai (Les tirailleurs indochinois en asie pendant la deuxieme guerre mondiale). Bài có ý trách cứ các lính người thiểu số bản địa trong việc quân Pháp nhanh chóng vỡ trận.  “Ngày 22/9/1940, sư đoàn 5 quân Nhật từ Trung Quốc đột ngột tràn qua biên giới, chiếm Lạng Sơn. Các đơn vị bộ binh tại chỗ chủ yếu gồm lính người Tày - Nùng, và với một tỷ lệ cao quân dự bị. Vì thế khi cuộc đụng độ này xảy ra, đã có 2287 lính bộ binh thuộc địa rã ngũ, bỏ chạy tản mát trong các làng bản…”

Tuy nhiên, sách Việt Nam 1945: Cuộc giành chính quyền (Vietnam 1945: The Quest for Power, tác giả David Marr, xuất bản 1997 tại Mỹ, tr. 158) làm bật lên điều tương phản, dù vẫn logic. Chính vào lúc đó, người bản địa miền “phên dậu” có dịp bộc lộ một tinh thần phản kháng quyết liệt đối với ách thồng trị ngoại bang. Theo sách Việt Nam 1945: Cuộc giành chính quyền, cuối tháng 9, khi bộ binh thuộc địa của Pháp rút chạy qua Lạng Sơn, những người dân miền núi thuộc dân tộc Tày, Nùng, Dao đã tước vũ khí của một số tàn binh, vận động các toán lính khác bỏ ngũ, và thu thập hàng trăm vũ khí vứt bỏ trên các con quốc lộ, tỉnh lộ, và trên đường rừng. Cùng lúc, một nhóm Đảng viên cộng sản thoát khỏi nhà ngục Lạng Sơn nhờ lộn xộn gây bởi cuộc Nhật tiến công Pháp, đã bắt liên lạc được với một chi bộ đảng, và họ quyết định dấy lên một cuộc nổi dậy. Đêm 27 tháng Chín, khoảng 600 người trang bị súng tước được của Pháp, súng hỏa mai, và mã tấu, gậy gộc đã tiến về chiếm huyện lỵ Bắc Sơn, tác giả Marr viết tiếp.

Vùng đất giàu truyền thống

Do vị trí chiến lược của quê cha đất tổ nằm dọc hai bên đường giao thông chính giữa miền Nam Trung quốc và vùng đồng bằng sông Hồng, các dân tộc Tày – Nùng – Dao đã đóng vai trò không thể phủ định trong suốt 20 thế kỷ Việt Nam đấu tranh chống lại các thế lực phương Bắc để duy trì quyền tự chủ của dân tộc mình. Như các vùng khác nằm trên biên giới Việt – Trung, quê hương của các dân tộc thiểu số Tày – Nùng – Dao đã vừa là chiến trường, vừa là vùng đệm, học giả phương Tây đánh giá.

Nghiên cứu vùng đất sản sinh ra Khởi nghĩa Bắc Sơn, các học giả quốc tế đã đi sâu tìm hiểu ý thức chống đối chế độ thực dân mạnh mẽ của các tộc thiểu số tại Việt Bắc. Các học giả dẫn cuốn Việt Nam (Le Vietnam, histoire et civilisation, Paris; 1955) của Le Thanh Khoi, cho hay trong thế ký 17, triều đình nhà Mạc chống đối chính quyền Trung ương Việt Nam, với sự hiệp trợ của nhà Minh, đã cát cứ vùng này.

Học giả phương Tây dẫn luận án tiến sĩ của Gerald Hickey thuộc đại học Chicago, Mỹ (nhan đề Hệ thống xã hội của Bắc Việt Nam/Social Systems of North Viet Nam, 1958) để đề cập chương trình dài hạn của chính quyền Trung ương Việt Nam tại “Xứ Thổ”(các tỉnh địa đầu phía Bắc) nhằm cố kết hơn nữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, củng cố nơi địa đầu tổ quốc. Trong đó có nỗ lực xây dựng một tầng lớp tinh hoa có văn hóa và trình độ cai trị địa phương gần với văn hóa chung của toàn dân tộc. Các nguồn đề cập một đại diện của giới tinh hoa vùng này, Chu Văn Tấn, bí thư Đảng bộ Bắc Sơn, lúc đó đã nhanh chóng liên hệ với Xứ ủy Bắc Kỳ, kết quả là một cuộc nổi dậy tự phát đã biến chuyển thành màn đầu đấu tranh vũ trang của Đảng.

Tới mùa thu 1941, Cứu quốc quân – một lực lượng du kích, đã kiện toàn được 2 trung đội, và Chu Văn Tấn chỉ huy một trung đội đóng tại một vùng thuộc tỉnh Thái Nguyên, cận kề với vùng đồng bằng sông Hồng. Một trung đội khác hoạt động tại vùng phía bắc dưới sự chỉ huy của Phùng Chí Kiên, cho tới khi bị rơi vào ổ phục kích của đối phương và bị thiệt hại nặng… Tới tháng 2/1942, sau 8 tháng tác chiến liên tục, các khó khăn về đảm bảo vũ khí, đạn dược đã khiến Cứu quốc quân phải phân tán thành từng nhóm nhỏ, vận động cách mạng trong vùng các dân tộc thiểu số…

Từ tự phát đến tự giác

Trong Việt Nam: Những cội nguồn của cuộc cách mạng (Vietnam: The Origins of Revolution, xuất bản tại Mỹ, 1969), tác giả McAlister giành nhiều trang nói về vai trò Khởi nghĩa Bắc Sơn. Ông viết:

“Nhờ kiến tạo Mặt trận Việt Minh , Đảng Cộng sản đã tận dụng được hiệu ứng của cuộc Nhật đánh Pháp, chiếm Đông Dương (1941). Sự kiện này đã làm cho người Việt Nam nhận rõ được những mặt yếu của ách cai trị của Pháp, trước cả khi Nhật gạt bỏ chính quyền thực dân của Pháp vào tháng 3/1945. Cảm thấy gió đang đổi chiều, những người dân Việt, vốn là những người chấp nhận mạo hiểm trong cuộc chơi với số phận, cho rằng họ cần suy đoán ngọn gió đổi thay sẽ mang lại cái gì. Bằng cách tham gia Việt Minh, họ có thể tỏ đồng lòng với sự nghiệp độc lập dân tộc mà không nhất thiết phải thực thi mọi chức trách của một thành viên của tổ chức Đảng, lúc đó còn bí mật. Tuy nhiên, những thành viên mới của Việt Minh sẽ nhanh chóng nhận thấy rằng, thành quả đầy mong đợi là nền độc lập phụ thuộc vào sự đóng góp của từng người trong sẵn sàng khai thác những yếu kém ngày một lộ rõ của nền cai trị thực dân. Vì thế, nhiều người dân gia nhập Việt Minh đã dấn bước vào hàng ngũ của Đảng, và vào lực lượng Cứu quốc quân đang hình thành tại vùng căn cứ Bắc Sơn”.

Một lực lượng vũ trang cách mạng ngày càng phát triển, và một tổ chức cách mạng mới - là liên minh của các đoàn thể quần chúng trong Việt Minh, đã cung cấp những tác nhân kích thích và động cơ cho sự tham gia của dân cư vào đời sống chính trị ở Việt Nam, theo McAlister.

Từ ‘vốn’ quân sự đầu tiên

Cùng kỳ, công cuộc động quần chúng đã kiến tạo các chân đứng chính trị - quân sự trên một vùng rộng lớn trùm lên bốn tỉnh giáp biên giới với Trung Quốc. Tới đầu 1943, đã thành lập được hơn 19 đội, bao gồm hơn một trăm cán bộ tuyên truyền, cho phép đẩy mạnh công việc kiến thiết cơ cấu (chính quyền) cách mạng. Tới khi người Nhật thủ tiêu chính quyền của Pháp (tháng 3/1945), những người cộng sản đã hoàn thiện một mạng lưới các căn cứ trong rừng núi. Nhờ đó, đã tiến hành tiếp nhận viện trợ về vũ khí và trang bị của Đồng minh vào giữa 1945, hỗ trợ chính quy hóa lực lượng vũ trang cách mạng tiến lên đóng vai trò then chốt trong cách mạng tháng Tám, McAlister nhận định. Ông viết:

“Cuộc nổi dậy bắt nguồn từ khởi nghĩa Bắc Sơn về cơ bản là kinh nghiệm đầu tiên của những người cộng sản Việt Nam về chiến tranh du kích, dù còn là ở dạng sơ đẳng nhất. Bài học này cho thấy kiên trì tiến hành chiến tranh du kích có thể làm mất sức chiến đấu của một kẻ thù mạnh hơn, nhưng cần có các an toàn khu để cung ứng, bồi dưỡng sinh lực cho các đơn vị du kích. Trong hình thái này của đấu tranh vũ trang, một bài học xương máu là sự thiếu vắng một phong trào chính trị rộng khắp sẽ là hạn chế lớn nhất cho việc phát triển chiến tranh du kích. Những người cộng sản Việt Nam cũng nhận thấy du kích cần liên tục tăng trưởng về số lượng, đảm bảo tính cơ động cực kỳ cao, và thường xuyên thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh mới của chiến tranh”.

Đến căn cứ địa

Sách Việt Nam: Những cội nguồn của cuộc cách mạng viết tiếp:

“Mặc dù những người cộng sản luôn có một tiếp cận có hệ thống trong nhiệm vụ tiến hành chiến tranh cách mạng, lợi thế của Đảng lại đến từ một tập hợp những cơ hội nảy sinh ra khởi nghĩa Bắc Sơn. Cơ hội này đã tạo nên thời cơ để Đảng kịp thời nắm vai trò lãnh đạo một cuộc chống đối cục bộ dấy lên bởi những người thiểu số vùng cao, và nhờ đó mà giành được chỗ đứng chân chiến lược tại Việt Nam…

Những nỗ lực đầu tiên này được thực hiện tại những vùng nơi sự kiểm tỏa của người Pháp yếu, không nhất thiết phải là những nơi sự chống đối các luật lệ thuộc địa phải là đáng kể nhất.

Chỉ trong cuộc cuối của các các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ - khởi nghĩa Bắc Sơn, những người cách mạng mới thành công trong việc thiết lập một cấu trúc chính trị tồn tại đủ dài, kiểm soát một phần của lãnh thổ Việt Nam, tạo nên một ‘chiến khu’… Không giống như các cuộc nổi dậy ở vùng đồng bằng Nghệ - Tĩnh và vùng châu thổ sông Mekong, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn xảy ra ở vùng rừng núi xa xôi, và ngay cả trong trường hợp thuận lợi nhất, người Pháp, đã khó mà thiết lập được sự kiểm soát tuyệt đối do phải đương đầu với cách chống đối lợi hại như vậy (đánh du kích trên địa hình rừng núi)…”

Bắc Sơn – một đánh giá

“… Không hẳn là những thời cơ xảy đến ngẫu nhiên, mà chính là cách mà những nhà cách mạng khai thác các tình huống như thế là then chốt đối với các sự kiện ở Việt Nam. Sự kiện Đảng giành được một địa bàn (căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai) đem lại một hình dung về tính chính danh, vì không có một đảng phái chính trị nào khác ở Việt Nam lúc đó có thể đạt được điều này”, McAlister nhận định

Georges Bouldarel viết trong Lời tựa sách “Ngọn cờ chiến tranh nhân dân và đường lối quân sự của Đảng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bản tiếng Anh do NXB PRAEGER phát hành 1970) nhấn mạnh quan hệ giữa căn cứ địa đối với nổi dậy ở thành thị:

“…Việc giành chính quyền ở thành thị không thể đạt được nếu không có sức hút mạnh mẽ và cảm hứng cách mạng truyền đến từ khu căn cứ địa”.

                                                                                                 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578877

Hôm nay

284

Hôm qua

2318

Tuần này

22076

Tháng này

225934

Tháng qua

130677

Tất cả

114578877