Những góc nhìn Văn hoá

Việt Nam trên bàn cờ địa- chính trị thế giới 1945 -1946

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại của Chủ nghĩa phát xít và thắng lợi hoàn toàn của phe Đồng Minh đã dẫn đến những thay đổi tương quan lực lượng cũng như trật tự thế giới. Toan tính lợi ích của các nước lớn đã tác động, chi phối rất lớn quan hệ quốc tế cũng như tình hình tại Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng. Trong vòng xoáy lợi ích đó, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã nhận định tình hình và xử lí ra sao để giữ vững được chính quyền cách mạng non trẻ, tạo thời gian hòa hoãn cần thiết để chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc, bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc?

Những thay đổi của tình hình địa – chính trị thế giới sau Thế chiến II

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, so sánh lực lượng trong Quan hệ quốc tế (QHQT) đã thay đổi căn bản.

Trong khi các nước châu Âu đều bị chiến tranh làm suy yếu thì Mỹ không những không bị chiến tranh tàn phá mà còn thu lợi lớn nhờ buôn bán vũ khí, hỗ trợ tài chính, kinh tế cho các nước châu Âu và cả Liên Xô. Vì thế, Mỹ nổi lên là quốc gia mạnh nhất về kinh tế, quân sự trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và nuôi tham vọng trở thành người lãnh đạo thế giới. Trong khi đó Anh, Pháp sau chiến tranh lại bị suy yếu.

Đối với Liên Xô, thắng lợi trong cuộc chiến chống lại Phát xít đã giúp nước này ngày càng có tiếng nói quan trọng trong việc xử lí các vấn đề chung của quốc tế và uy tín quốc gia ngày được nâng cao.

Sau chiến tranh, các nước lớn đã ngồi lại với nhau phân chia phạm vi ảnh hưởng thông qua hai hội nghị Yalta và Potsdam. Những thỏa thuận cho thấy thế giới bắt đầu bước vào một thời kỳ có sự phân chia rõ ràng thành trạng thái hai cực giữa một bên là Liên Xô và một bên là Mỹ, Anh, Pháp (do Mỹ đứng đầu). Cụ thể, ở châu Âu, Liên Xô đóng quân trên lãnh thổ Đông Đức, Đông Berlin, các quốc gia vùng Trung – Đông Âu; Mỹ, Anh, Pháp kiểm soát Tây Đức, Tây Berlin, các quốc gia Tây – Nam Âu. Tại châu Á, Mông Cổ được để nguyên trạng; Nam đảo Sakharin và quần đảo Curin được trao trả lại cho Nga; Đài Loan và đảo Bành Hổ được trả lại cho Trung Quốc;  Quân đội Xô – Mỹ sẽ rút quân khỏi Trung Quốc. Đông Nam Á và Nam Á được duy trì trong phạm vi ảnh hưởng của Anh, Pháp.

Một xu hướng khác cũng tác động mạnh mẽ đến tình hình địa – chính trị thế giới đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á và châu Phi. Tại Đông Nam Á ,khi phát xít Nhật phải đầu hàng vô điều kiện, nhân dân Lào, Thái Lan nhanh chóng chớp thời cơ giành lại chính quyền. Trong khi đó, tại Cambodia, Anh và Pháp đã nhanh chóng kéo vào khi Nhật đầu hàng. Quốc vương Cambodia phải thỏa hiệp với Pháp về quy chế tự trị của Cambodia trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Điều này đã làm dấy lên phong trào đấu tranh chống thực dân mạnh mẽ của nhân dân. 

Ở Trung – Đông Âu ghi nhận sự ra đời của một loạt Nhà nước dân chủ nhân dân. Tình thế này dường như đang khiến cho cục diện trở nên có lợi hơn cho Liên Xô và phong trào cách mạng trên thế giới. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa từ đây bắt đầu hình thành trên phạm vi toàn cầu. Sự lớn mạnh và vai trò quan trọng của Liên Xô đe dọa tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ, khiến nước này quan ngại. Vì thế, chính sách đối ngoại của Mỹ sau Thế chiến II tập trung vào hai mục tiêu là: ngăn chặn sự lớn mạnh của Liên Xô và tích cực xác lập vai trò chi phối của Mỹ ở châu Á. Trong khi đó Liên Xô lại tập trung vào hai nhiệm vụ là đấu tranh giữ vững hòa bình và ủng hộ, giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới.

Như vậy, dù chưa xuất hiện tình trạng đối đầu gay gắt nhưng những năm 1945 – 1946, trật tự thế giới đã bắt đầu chứng kiến sự phân dần về hai cực với một bên là Tư bản chủ nghĩa và một bên là xã hội chủ nghĩa mà kết cục là dẫn đến cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài nhiều thập kỷ.

Việt Nam giữa vòng xoáy toan tính lợi ích của các nước lớn

Có thể khẳng định, tình hình Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng thời kỳ này chịu tác động, chi phối sâu sắc của các nước lớn. Để có được bước đi đúng đắn đòi hỏi người hoạch định chính sách phải nhận định rõ tình hình, nhạy bén với những biến chuyển và nhanh chóng nắm bắt thời cơ.

Trong một thời gian ngắn, tính toán lợi ích của các nước lớn đã có những thay đổi rõ nét đối với vấn đề Đông Dương cũng như Việt Nam.

Với Mỹ, nếu như trước đó Mỹ chủ trương sau chiến tranh sẽ cho Đông Dương được hưởng chế độ thác quản quốc tế trong 10 đến 30 năm rồi tiến hành trao trả độc lập thì khi Truman lên nắm quyền, nước này lại nghiêng về thỏa hiệp với Anh. Mặc dù tuyên bố trung lập nhưng thực tế nước này đã làm ngơ để Pháp trở lại Đông Dương hòng lôi kéo đồng minh. Truman tuyên bố “Dù thế nào, về vấn đề Đông Dương, chính phủ tôi không phản đói uy quyền và quân đội Pháp trở lại xứ này.”[1] Mỹ ra sức dùng ảnh hưởng của mình để dàn xếp các xung đột tại Đông Dương, tránh để tình hình diễn ra theo chiều hướng có lợi cho Liên Xô. Ngày 2/10/1945, John Carte Vincent tuyên bố chủ trương của Mỹ đối với Đông Dương: “Chúng ta không muốn áp đặt một sự kiểm soát nào nhưng chúng ta sẵn sàng giúp đỡ họ nếu họ cần nhằm đi đến một Hiệp định hòa bình cho vùng rối loạn này.”[2]

Với, Liên Xô, thay vì thác quản quốc tế, quốc gia này muốn trao trả độc lập cho các nước Đông Dương. Stalin tuyên bố Pháp không thể trở lại Đông Dương.

Trong khi đó Anh lại tích cực ủng hộ Pháp quay lại Đông Dương, kể cả bằng biện pháp vũ lực. Từ cuối năm 1945, Anh ngày càng lo sợ tình hình rối loạn ở Đông Dương sẽ tạo gánh nặng cho nước này nên nhanh chóng tiến hành rút quân đội về nước và nôn nóng trao Đông Dương lại cho Pháp. Anh cũng tích cực kêu gọi chính quyền Trùng Khánh tạo điều kiện thuận lợi cho sự trở lại của Pháp ở khu vực này.

Pháp chủ trương sử dụng biện pháp vũ lực để tái chiếm Đông Dương. Khi tình hình chính trị nội bộ có biến chuyển biến bất lợi cho kế hoạch, Pháp đã nhanh chóng tìm đến thỏa thuận với Trung Hoa. Ngày 28/02/1946, Trung Hoa và Pháp ký hiệp ước Hoa – Pháp, thỏa thuận “ thay thế quân đội Trung Hoa bằng quân đội Pháp” trên đất Việt. Đó là một sự xâm phạm trắng trợn đến chủ quyền quốc gia chúng ta.

Với những toan tính đó, giữa tháng 9/1945, quân Anh kéo vào miền Nam Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Quân Pháp đã trà trộn, núp bóng lực lượng này để hòng nuôi ý đồ chiếm lại nước ta một lần nữa. Sau đó Pháp không ngừng gây hấn, mở rộng phạm vi bình định ở khu vực Nam Bộ, Tây Nguyên.  Phía Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa cũng kéo vào nước ta cùng với ý đồ đưa bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách về chiếm chính quyền. Như vậy trên đất nước Việt Nam những năm 1945 – 1946  hiện diện 4 thế lực quân sự lớn chiếm đóng: Nhật, Anh, Pháp, Tưởng và có sự dính líu lợi ích của cả 5 nước lớn.  Những tính toán và thay đổi chính sách của các nước lớn đặt Việt Nam vào một tình thế hết sức khó khăn. Trong khi đó chính quyền cách mạng vừa thành lập, chưa được quốc gia nào trên thế giới chính thức công nhận; trong nước thì giặc đói, giặc dốt hoành hành, ngân khố quốc gia kiệt quệ,..

Trước bối cảnh địa – chính trị hết sức phức tạp ấy, chúng ta đã nhận định rõ tình hình để xác định nhiệm vụ trọng tâm và tiến hành bước đi phù hợp. Có thể khẳng định việc tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám và thành lập nước VNDCCH là một mẫu mực về sự nắm bắt nhanh nhạy tình hình, chớp lấy thời cơ của ta. Sự ra đời của Nhà nước VNDCCH đã khiến cho kế hoạch trở lại Đông Dương thống trị của Pháp không còn dễ dàng như dự kiến. Sự kiện này cũng đã giáng một đòn mạnh vào những toan tính của các nước lớn đặt ra sau Hội nghị Potsdam. Sau khi thành lập Nhà nước VNDCCH,  mục tiêu của chúng ta là phải làm sao để ngày càng được nhiều quốc gia công nhận, ủng hộ mình bởi một khi thừa nhận sự tồn tại này thì các nước lớn sẽ phải xem xét lại quyết định đưa ra trong HN Potsdam đối với việc phân chia ảnh hưởng tại Đông Dương. Mong muốn đó được nhấn mạnh trong bản tuyên ngôn độc lập: “Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhanh chóng gửi thư, điện đến các vị nguyên thủ Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Hoa, ngoại trưởng các cường quốc và Liên Hợp Quốc để nói về diễn biến tình hình ở Đông Dương, tố cáo Anh tạo điều kiện cho Pháp trở lại gây hấn ở Đông Dương; kêu gọi sư công nhận và hợp tác của Hoa Kỳ, khẳng định mong muốn gia nhập Liên Hợp Quốc.

Ngày 03/10/1945, Việt Nam cũng đã công bố cụ thể chính sách đối với từng đối tượng.

-          Với các nước lớn, các nước Đồng minh: “Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng và tương ái”.

-          Với Pháp: Đối với các kiều dâ Pháp, nếu họ yên tĩnh làm ăn và tôn trọng sự độc lập Việt Nam thì sinh mệnh và tài sản của họ được bảo vệ theo luật quốc tế.” Kiến quyết chống lại chính phủ De Gaulle chủ trương thống trị Việt Nam.

-          Với các nước láng giềng: chủ trương thành thật hợp tác trên tinh thần bình đẳng với Trung Hoa; chủ trương giúp đỡ Lào, Miên trên tinh thần dân tộc tự quyết.

-          Với các nước nhược tiểu: sãn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và giữ vững nền độc lập.

Như vậy có thể thấy ngay trong khó khăn, Đảng và Chính phủ cách mạng lâm thời đã nhận định rất rõ tình hình, xác định rõ bạn – thù để đưa ra đối sách với từng đối tượng. Tuyên bố này không những có ý nghĩa quan trọng đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa những ngày đầu thành lập mà nó đã trở thành định hướng cơ bản cho Ngoại giao Việt Nam hiện đại.

 Khi thế giới đang đứng trước những chuyển biến theo hướng phân thành 2 cực với những quan hệ hết sức phức tạp, căn cứ tình hình trong nước, chúng ta đã đi đến quyết định táo bạo: giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương vào tháng 11/1945 và lui vào hoạt động bí mật dưới cái tên “Nhóm nghiên cứu Mác – xít”. Mặc dù còn có những ý kiến trái chiều về quyết định này và thực tế, quyết định này cũng đã khiến cho chúng ta khó khăn hơn trong việc “bắt sóng” với phong trào Cộng sản quốc tế, Liên Xô cũng tỏ ra nghi ngại và chưa đưa vấn đề Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc nhưng xét bối cảnh lúc đó có thể thấy đó là một quyết định khôn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đất nước đang đối mặt với vòng vây lợi ích của các nước lớn. Quyết định này giúp chúng ta tránh đối đầu trực tiếp với các nước chống lại chủ nghĩa cộng sản và tranh thủ được sự ủng hộ của đông đảo tầng lớp nhân dân trong nước cho cuộc kháng chiến.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính quyền cách mạng đã nhận định rõ tình hình, âm mưu của từng bên để có từng bước hòa hoãn hợp lý nhằm kéo dài thời gian hòa bình để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho một cuộc chiến mà chúng ta biết sẽ khó tránh khỏi với thực dân Pháp để bảo vệ độc lập. Chúng ta khi thì hòa hoãn với Tưởng để đối phó với thực dân Pháp, khi lại hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng ra khỏi đất nước, tránh một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với đồng chí Nguyễn Lương Bằng: “Chính sách của ta hiện nay phải là chính sách Câu Tiễn. Nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục.

Sự nhanh nhạy trong nắm bắt tình hình và lợi dụng mâu thuẫn của các lực lượng được thể hiện rõ qua những thỏa thuận ta đạt được thời gian này. Hiệp định Sơ bộ ký kết ngày 6/3/1946 đã giúp biến các hiệp định tay đôi (Anh – Pháp, Hoa – Pháp) thành thỏa thuận tay ba với sự tham gia của ta, từ đó tạo tiền đề để Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế. Việc Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có chính phủ, nghị viện, tài chính, quân đội đã chính thức khẳng định Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, khẳng định sự tồn tại của một Nhà nước Việt Nam độc lập. Sự hiện diện của đại diện các cường quốc Đồng minh trong lễ ký Hiệp định Sơ bộ cũng đã nâng vị thế chính trị của Việt Nam. Các hãng thông tấn báo chí nhiều quốc gia đã đưa tin về sự kiện như: hãng TASS của Liên Xô, tờ L’Économiste, hãng AFP,...Như vậy ngoài ý nghĩa hòa hoãn để giúp chuẩn bị lực lượng thì sự kiện này đã giúp ta thu hút được sự chú ý của quốc tế, mở ra con đường để quốc tế thừa nhận ta, mở đường cho chuyến thăm chính thức sang Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đoàn Đại biểu Việt Nam cũng như hội nghị Fontainebleau, từ đó từng bước khẳng định vị thế của ta trên trường quốc tế.

Trong tình thế gần như bị cô lập và phải đối mặt với rất nhiều toan tính của các nước lớn, Việt Nam DCCH – một nước nhỏ lại vừa mới giành độc lập, đối mặt với muôn vàn khó khăn trong nước đã có những bước đi tài tình để giữ được độc lập dân tộc, tranh thủ thời gian hõa hoãn cần thiết cho kháng chiến. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình chính trị thế giới cũng đang diễn ra hết sức phức tạp, khó lường; thời cơ và thách thức đan xen. Việt Nam đang phải đối mặt với một Trung Quốc luôn có âm mưu bành trướng, độc chiếm biển Đông và tình thế khó đoán định trước các toan tính lợi ích của các nước lớn tại đây. Chúng ta một lần nữa phải đứng trước nhiều lựa chọn và bài học của giai đoạn 1945 – 1946 vẫn còn nguyên giá trị. Đó là phải luôn nhận định rõ tình hình để không bỏ lỡ bất kỳ thời cơ nào đồng thời để xác định đâu là bạn, đâu là thù nhằm có đối sách phù hợp. Đặc biệt nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định lập trường, mềm dẻo và linh hoạt trong biện pháp phải luôn được ghi nhớ.

Ngày nay, Việt Nam đã ngày càng khẳng định vị thế của mình và có tiếng nói trên trường quốc tế tuy nhiên chúng ta vẫn phải nỗ lực để chủ động hơn trong từng nước đi trên ván cờ địa – chính trị đầy phức tạp. Hơn 15 tháng đấu tranh ngoại giao của những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa dạy cho chúng ta rằng mọi khó khăn đều sẽ được đẩy lùi nếu chúng ta biết giữ vững ý chí và đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Những nước đi trong ngày đầu khó khăn ấy dạy cho chúng ta rằng dù là một nước nhỏ thì trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ tâm thế đàng hoàng, bình đẳng; không nhu nhược; không khuất phục; không nhẫn nhục.



[1] Tuyên bố của Tổng thống Truman khi tiếp tướng De Gaulle tại Nhà Trắng ngày 24/8/1945

[2] Nguyễn Phúc Luân (Chủ biên), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 – 1975), NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2001, Tr. 48.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578945

Hôm nay

2152

Hôm qua

2318

Tuần này

22144

Tháng này

226002

Tháng qua

130677

Tất cả

114578945