Những góc nhìn Văn hoá

Ánh sáng Thiền trong cung vua thời Trần không bao giờ tắt

Với người học Thiền bình thường, đa phần cứ nghĩ: Thiền phải ở nơi rừng thẳm, hang vắng, bởi họ tưởng tượng theo danh từ "Thiền Lâm", là rừng Thiền thì phải ở trong rừng.

Hoặc có người cho rằng, Thiền chỉ có trong thiên đường, thiền viện với những bồ đoàn, toạ cụ.v.v. Nếu nghĩ về Thiền như thế thì Thiền hoá ra cục bộ, chưa phải Thiền tròn khắp, chỉ có chỗ này, mà không có chỗ kia, nếu thế thì thành sinh-diệt mất. Sự thật, Thiền là ở ngay trong lòng người, không ở nơi cảnh, nơi này, nơi kia. Tâm đã ngộ Thiền thì bất kỳ chỗ nào cũng có Thiền. Thiền như thế mới là Thiền trong sự sống, Thiền sáng ngời không gián đoạn, dù tăng, dù tục, dù nơi vắng vẽ hay ồn ào đều có phần, nếu mở được con mắt Thiền. Nhìn về xa xưa, thời các vị vua Nhà Trần (TK XII-XIII) chúng ta thấy rất rõ điều này. Điểm qua ba nét (ba đề mục mà chúng tôi tự đúc kết) chúng ta sẽ thấy ánh sáng Thiền tràn ngập trong cung vua Trần.

Đó là những đề mục như sau:
 
I- Kinh nghiệm Thiền trong cung vua Trần.
Với Thiền, đòi hỏi phải có sự thể nghiệm chân thật, phải chứng nghiệm qua, chứ không thể nói suông hay bàn cãi trên lý thuyết. Vua Trần Thái Tông lúc đang làm vua, với bao công việc triều chính, bộn bề, vẫn để thời gian tham cứu, Thiền và đã từng kinh nghiệm ngay chính bản thân mình. Trong lời tựa Thiền Tông Chỉ Nam: "Trẩm từng đọc Kinh Kim Cang đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kì Tâm", trong khoảnh khắc để quyển kinh xuống trầm ngâm, hốt nhiên tự ngộ. Liền đem chỗ ngộ này viết thành bài ca "Thiền Tông Chỉ Nam". Vua Trần Thái Tông đã trực tiếp lãnh ngộ Thiền ngay từ tâm mình, không chỉ nghiên cứu trên lý thuyết, sách vở. Từ kinh nghiệm trực tiếp, vua có một sức sống Thiền chân thật ngay nơi ngai vàng.
Trần Thánh Tông là vị vua kế ngôi (thứ hai), cũng là một ông vua sống trong cung vàng, điện ngọc mà vẫn thể nghiệm được Thiền. Vua nhận được ý chỉ nơi Quốc sư Đại Đăng, tự lấy hiệu là Vô Nhị Thượng Nhân. Vua tự thuật trong một bài kệ.
            Tự tùng quán giác nhập Thiền lưu.
                        Đã ngoã toản quy một ngoại cầu
            Nhận đắc bản lai chân diện mục,
                        Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu.
                                                               -2-
 
Tạm dịch:  Từ khi bé bỏng đã vào Thiền
                        Đập ngói, xoi rùa ngoại cầu quên
                        Nhận được xưa nay mày mặt thật
                        Cuối cùng đâu chẳng chỗ an nhiên.
Nghĩa là vua đã vào Thiền, đã cảm đến Thiền lúc còn nhỏ. Do biết có Thiền nên mọi chuyện hư dối tìm kiếm bên ngoài đều quên dứt, không còn chạy lăng xăng. Vua đã nhận ra mặt mày chân thật xưa nay rồi, đây là nguồn sống vô biên còn gì quý hơn. Nhận ra lẽ thật đó, thì đâu đâu cũng là lẽ sống an nhiên, không lo lắng, không bơ vơ, đã có chỗ nương tựa vững chắc. Kinh nghiệm này được thể hiện qua bài kệ rất sâu sắc:
                        Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm,
                        Nhàn môn vô sự khả quan tâm
                        Cá trung khúc phá vô nhân hội
                        Duy hữu tùng phong hoạ thử âm.
Tạm dịch: Chiếc đàn không điệu gẫy suốt ngày,
                        Cửa vắng việc không chẳng bận rày
                        Bản nhạc trong kia không kẻ biết,
                        Riêng có gió tùng hoạ âm này.
Suốt ngày gãy mãi cây đàn không điệu. Vậy, gãy để làm gì ? Đó là làm mà vô tâm, gãy mà vô tác, nên tuy làm tất cả mà vô sự, không dấu vết lưu lại "Cửa vắng việc không chẳng bận rầy", giống như làm mà không có AI làm, không có cái TA xem vào. Vì vậy, bản nhạc đó mấy ai biết được ? Đem lỗ tai đầy ráy mà nghe là không bao giờ nghe tới. Bởi vậy, khó có người hoạ được, chỉ có gió tùng hoà theo. Tức vô tâm mới hoà điệu được, mới cảm thông được. Đây là một kinh nghiệm Thiền không thể diễn tả hết bằng lời.
Kinh nghiệm của vua Trần Nhân Tông được Ngài thuật lại trong bài hành trạng của Tuệ Trung Thượng Sỹ: " Tôi biết môn phong của Thượng Sỹ cao vót. Một hôm tôi xin hỏi Ngài về "Tông Chỉ bổn phận", Thượng sỹ đáp: "Soi sáng lại minh là việc bổn phận, chẳng từ nơi khác mà được". Nghe xong tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy.
Hỏi về tông chỉ bổn phận, tức yếu chỉ Thiền chứ không gì khác, yếu chỉ đó, chính ở ngay nơi mình, đây là gốc chân thật, ngoài đó ra không còn việc gì khác nữa ! Đây là tinh yếu của toàn bộ giáo lý Phật nói chung, Thiền Tông nói riêng, dù Phật Tổ có dùng vô lượng phương tiện sai khác để dắt dẫn, nhưng cũng không rời việc soi lại chính mình là gốc. Nếu tách rời chính mình để tu, để học đạo, là lệch lạc, trái ý chỉ. Thiền sư Tuệ Hải gọi "Ngoài tâm cầu Phật ma". Bởi ngoài tâm mà có Phật, có đạo thì không phải là ma, cũng chỉ là sách vở, chữ nghĩa.
Ba vị vua Trần đã có kinh nghiệm Thiền rõ ràng ngay trong cung vua, đâu phải tìm chỗ nào khác. Kinh nghiệm được thể hiện qua sức sống chân thật của các Ngài.
II/- Sức sống Thiền của các vua Trần
Kinh nghiệm Thiền của ba vị vua Trần đã ứng dụng thành sức sống chân thật.
Vua Trần Thái Tông, lúc bệnh sắp qua đời, Quốc sư Đại Đăng vào thăm hỏi:
- Bệ hạ bệnh chăng?.
Vua đáp.
- Tứ đại bệnh, cái ấy xưa nay sinh tử còn không can hệ mà dính dáng gì đến "Cái ấy", thì chính mình chẳng có bệnh gì đâu? Người tu bình thường chưa có đạo lực, tới lúc đó tinh thần hoảng hốt, sợ hãi, thì làm sao mà sánh được.
Rồi khoảng mấy ngày sau, Thái Tông lặng thinh không nói, đuổi hết kẻ hầu hạ, đem việc nước dặn dò Thánh Tông, Thánh Tông muốn nhờ hai quốc sư Phù Vân (Đạo Viên) và Đại Đăng nói pháp xuất thế cho Thái Tông nghe. Thái Tông gằn giọng bảo: "Nếu bớt một mảy tơ trên thịt khoét thành thương tích thêm một mảy tơ như trong mắt để bụi. Ba đời chư Phật, bốn mắt nhìn nhau, sáu đời tổ sư thối thân có phần. Dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu, đều là lời thừa, có ích gì đối với cái này". Nói xong vua lặng lẽ tịch.
Một ông vua sống giữa cảnh vàng son, cung tần, mỹ nữ, việc nước bộn bề, mà đến lúc sắp mất vẫn sáng suốt tĩnh táo, vững vàng. Nếu hàng ngày không có sức sống chân thật, thì làm sao trong giây phút vô thường đó có thể làm chủ được.
Khi Trần Nhân Tông gần qua đời, vẫn sống rất có đạo lý như một Thiền sư:
Những ngày vua bệnh, Tuệ Trung Thượng Sỹ gởi thơ đến thăm, vua viết vào cuối trang đáp lại:
            Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẫm.
                        Chiếc khố mẹ sinh vẫn ráo khô.
                        (Viêm viêm thử khí hãn thông thân
                        Hà Tằng hoán đắc nương thân khổ ?"
Đến lúc bệnh nặng, vua thường lấy ngón tay gõ vào gối như có sở đắc điều gì. Chốc lát vua đòi bút viết kệ:
                        Sinh như mặc áo
                        Chết tựa cởi trần
                        Từ xưa đến nay
                        Không đường nào khác.
                                                                 -4-
 
Nguyên văn: (Sinh như trước sam,
                        Tử như thoát khố
                        Tự cổ cập kim
                        Cánh vô dị lộ).
Xong đuổi hết kẻ hầu hạ, giữ lại một mình Nhân Tông. Nhân Tông thưa:
- Bệ hạ còn nhớ lời của Ngài Vĩnh Gia chăng?.
                        Rành rành thấy không một vật
                        Cũng không người chừ cũng không Phật
                        Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi
                        Tất cả thánh hiền như điện chớp
                        Dẫu cho vành sắt trên đầu chuyển,
                        Định Tuệ sáng tròn vẫn không mất.
Vua nghe xong, bất chợt cười to, rồi gõ gối tụng:
                        Rành rành thấy, không một vật
                        Cũng không người chừ cũng không Phật.
                        Cõi cõi đại thiên bột nổi trôii
                        Tất cả thánh hiền như điện chớp.
Chiều hôm đó vua băng.
Bệnh sắp mất, mà vẫn thấy không dính dáng gì.
Hơi nóng hừng hực, mồ hoi ướt đẫm là nói tình trạng bệnh đang phủ trùm lên chiếc thân vô thường này nhưng vẫn không dính dáng gì đến thân chân thật. Nghĩa là vua vẫn có chỗ sống của mình. Vua xem sinh tử như mặc áo, cởi áo vậy thôi, không có gì quan trọng, không bận tâm lo sợ, không vất vả khổ sở, mà còn hét lên một tiếng hét sư tử sống đối diện với sinh tử.
                        Chữ bát mở toang đã trao phó
                        Còn đâu việc nữa đáng trình anh.
Vua ra đi như một Thiền sư trong hình thức cư sỹ. Ánh sáng Thiền sáng bừng lên trong cung vua, nhưng nào ai biết trước được, nếu không nhận trọn vẹn Thiền chỉ, ý chỉ như Ngài.
Đến vua Trần Nhân Tông còn vượt xa hơn hai vua trước. Sau hai lần chiến thắng quân Nguyên, Vinh quang lên tột đỉnh, song sau đó Ngài xả bỏ hết để xuất gia, sống đời khổ hạnh đầu đà, đem ánh sáng chân thật soi rọi cho mọi người. Có cái gì đặc biệt mà Ngài dám bỏ tất cả như thế?. Hẳn phải có một sức sống tuyệt diệu, vượt lên trên cả đời sống vàng son, mới khiến Ngài trân quý và sẵn sàng đổi lấy. Sức sống làm chủ được sinh từ không phải ai cũng đạt được.
Ngày mùng 1 tháng 11 năm Mậu Thân 1308, nửa đêm sau trời sáng đỏ, Điều Ngự hỏi Sát:
- Hiện giờ là giờ gì?.
Bảo Sát thưa:
- Giờ Tí.
Điều Ngự đưa tay mở cánh cửa sổ, nhìn ra nói:
- Chính là giờ ta đi.
Bảo Sát hỏi:
- Tôn đức đi đâu ?.
Điều Ngự đáp:
                        Tất cả pháp chẳng sinh
                        Tất cả pháp chẳng diệt
                        Nếu hay hiểu như thế
                        Chư Phật thường hiện tiền.
                       Nào có đến đi gì ?.
Bảo Sát thưa:
 - Chỉ như khi chẳng sinhi chẳng diệt thì thế nào?.
Điều Ngự liền vả ngay vào miệng Bảo Sát, bảo:
- Chớ nói mớ !
Nói xong, Ngài nằm theo thế sư tử, lặng lẽ mà tịch. Ngài ra đi tự tại. Đi mà cũng không thấy có đi đâu, vì chưa đừng có đến. Nhưng cái gì là cái không đến đi?. Việc đó người ngoài cuộc làm sao biết được?. Sức sống này quả không thể lý luận bằng lời. Nếu không phải là người đã thật hằng sống trong đó, đừng mong gì mộng thấy. Song muốn có được sức sống như thế, hiển nhiên các Ngài phải có một trí tuệ thiền không tầm thường.
 
III- Trí tuệ Thiền của các vua.
Đọc KHOÁ HƯ LỤC chúng ta thấy rõ trí tuệ Thiền của vua Trần Thái Tông thật sâu sắc, đem tâm thức này để hiểu, quả là không thể hiểu hết. Chỗ thấy đó không khác các thiền sư Trung Hoa như Tổ Lâm Tế có đoạn nhân duyên nói về vô vị chân nhân:
"Sư thường dường bảo: "Trên cục thịt đỏ có vị chân nhân không ngôi thứ, thường ra vào ngay trên mặt các ông, người chưa chứng cứ hãy xem! Xem!.
Có vị tăng bước vào hỏi:
- Thế nào là vị chân nhân không ngôi thứ?.
Sư bước xuống giường thiền, nắm đứng vị ấy vào:
Nói ! Nói !.
Vị tăng nghĩ ngợi, sư gạt ra bảo:
- Vị chân nhân không ngôi thứ là cái gì ? Que cứt khô! (tức cái que chống rèm mà các sư thường lấy để gom rác bẩn, nay kết lại như một que cứt
khô
 - Đấy là sư chỉ sự hiện tiền của vật chất, của sự việc chẳng che dấu ý gì). Vua Trần Thái Tông trong bài kệ tổng kết phần "Nói rộng về sắc thân" đã hiểu bày:
                        Vô vị chân nhân thịt đỏ au
                        Hồng hồng, trắng trắng chớ lầm nhau
                        Ai hay mây cuốn trời trong vắt,
                        Ven trời xanh biếc núi một màu.
Ngài đã thấy ngay trong cục thịt đỏ au, tức sắc thân bốn đại này, có một con người chân thật không thứ lớp giai cấp. Song không ai thấy được, chớ vội nghe vậy mà lầm nhận nó với tướng hồng hồng của máu me, tướng trắng của da thịt, thì vẫn bị hai tròng mắt này dòm thấy. Thực tế nó vẫn thuộc tướng sinh diệt vô thường. "Ai hay mây cuốn trời trong vắt", tức là ai đó sạch hết mây mờ, vọng tưởng, còn lại một trời tâm trong vắt không vết mây, thì mới rõ "Ven trời sương biếc núi một màu". Trước mắt hiện bày một thế NHƯ NHƯ , tâm cảnh không hai, không chia cách đó, đây. Chân thật hiện tiền. Đó là cái thấy hiếm hoi, chỉ có được ở những ai thấu đạt ý chỉ Thiền.
Ở một lúc khác, Đức Thành một vị tăng ở chùa Chân Giáo hỏi vua:
- Bệ hạ có nhận là riêng thế đắc đạo chăng?.
Vua đáp:
- Mưa xuân không cao thấp, cành hoa có ngắn dài.
Mưa xuân chỉ là mưa thôi, không có tầm cao thấp phân biệt, nhưng nói cánh hoa tiếp nhận thì có ngắn, có dài. Ngắn dài là tự ở cành hoa, không phải tự mưa có phân chia. Cũng vậy, chính Thế tôn là Thế tôn thôi, không nói đắc đạo hoặc chẳng đắc đạo, không nhận, có hay không có, chỉ do tâm người phân biệt mà thành hoặc có hoặc không. Vậy thì làm sao nói cố định là thực có hay không?. Đó là dứt trừ cái thấy đối đãi phân biệt, bặt niệm "Có không?" hai bên ngoài CON MẮT TUỆ.
Khi Thái hậu qua đời, Đức Thánh Tông làm lễ trai tăng ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, Đức Thánh Tông thỉnh những vị danh đức các nơi về theo thứ lớp, mỗi vị thuật một bài kệ ngắn để trình kiến giải. Kết quả thảy đều chưa có chỗ tỏ ngộ. Đức Thánh Tông lấy một tập đưa cho Tuệ Trung Thượng Sỹ. Thượng Sỹ viết:
                        Kiến giải trình kiến giải
                        Tựa ấn mắt thấy quái
                        Ấn mắt thấy quái rồi
                        Rõ ràng thường tự tại.
Nghĩa là đem kiến giải trình ra cho người, thì khác gì ấn mắt nhìn thấy hoa đốm lăng xăng, có gì là phải, có gì là trái. Nếu cái ấn mắt thành hoa đốm
lăng xăng qua rồi, mới rõ ràng thành tự tại sáng ngời, có gì phải nhọc trình, khoe?.
Đức Thánh Tông đọc xong, phê tiếp:
                        Rõ ràng thương tự tại
                        Cũng ấn mắt thành quái
                        Thấy quái chẳng thấy quái
                        Quái ấy ắt tự tại.
Dù nói rõ ràng thường tự tại, cũng là ấn mắt thành quái lăng xăng thôi. Vì sao? Vì cũng là ngôn ngữ văn tự. Nếu người thật mắt sáng, thì thấy quái lăng xăng, chẳng lầm theo, chẳng bị quái làm mờ, liền đó quái tự hoại, tự mất. Chỗ bí hiểm ấy, làm sao trình ra cho người hiểu. Nếu trình cho người hiểu được, tức cũng thành quái mất rồi !.
Trí tuệ Thiền của vua Thánh Tông quả là thậm sâu, ánh sáng Thiền vẫn sáng ngời trong cung cấm, tìm ở đâu?.
Đến Trần Nhân Tông thì trí tuệ Thiền thật là siêu tuyệt.
Có vị tăng hỏi Ngài:
- Khi muôn dặm mây tan thì thế nào ?.
Ngài đáp:
- Mưa tầm tả.
Sao lạ vậy ?. Đem tĩnh thức để hiểu, hiểu được chăng ? Đã muôn dặm mây tan sao còn chẳng sáng tỏ mà còn đi hỏi, không phải là mưa tầm tả hay sao? Câu trả lời của vua đánh thẳng vào ông tăng đang tự mê. Trường hợp này, hay nói rõ hơn là trong ngôn ngữ Thiền đương đại, có những lời nói như vừa ẩn, vừa thách đố, ý vượt ngoài lời.
Ông tăng lại hỏi tiếp:
- Khi muôn dặm mây phủ kín thì thế nào?.
Ngài đáp: - Trăng sáng ngời.
Dễ hiểu được chăng? - Đã là muôn dặm mây phủ kín, thì còn ai đang hỏi nữa?. Cái hóc hiểm của ngôn ngữ Thiền thời đó là như vậy !.
Thực ra đó là một câu đáp xuyên thẳng vào thực thể hiện tiền mà ông tăng ngủ mớ. Bấy nhiêu đủ thấy trí tuệ Thiền của Ngài vượt xa mọi thời gian.
Thế nhưng ông tăng lại hỏi tiếp:
- Rốt ráo là thế nào ?.
Ngài đáp: - Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy. Trong ý chỉ hoặc có thể nói là tuyên ngôn của Thiền tông: "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, kiến tính thành Phật". Từ ý chỉ đó mà thời bấy giờ sự truyền tâm ấn giữa thầy với học trò, không diễn giải dài dòng, nói một cách vừa ởm ờ, ẩn dụ, nếu học trò sáng, thực có tâm cầu đạo thì thấy (kiến) tâm chưa sáng, chưa
trong thì, thầy phải hét lên, hoặc có khi dùng tát tai hoặc đánh bằng gậy. Ngài có bài kệ:
                        Câu có câu không
                        Bìm khô cây ngã
                        Bao kẻ nạp tăng
                        Đụng đầu chạm não...
Trí tuệ Ngài vượt quá ý niệm có - không, chẳng dừng trong đối đãi. Nếu không có con mắt Thiền đâu dễ thấy.
Tóm kết lại, từ những minh dẫn trên, chúng ta thấy rằng - Các vị vua Trần này đã sống một đời sống Thiền rất đáng khâm phục.
Loay hoay, lăng xăng tìm Thiền ở đẩu, ở đâu?. Tại gia, xuất gia đều có phần. Hãy biết tự tin, đừng để khuất lấp.
Hãy biết nhận rõ, chỉ một thể chân thật, vốn không hai, do căn cơ trình độ mà thành ra sai khác. Hãy tính thức, tự dọn mình mà trở về gốc không hai. Hãy biết can đảm buông, buông sạch không chỗ bám, thì ngay đây sờ sờ "Người không cùng muôn pháp làm bạn"!.
Dòng Thiền Trúc Lâm phát xuất từ non thiêng Yên Tử - Một dòng Thiền mang đậm bản sắc dân tộc và từng làm một bước đột phá trên lịch sử Phật giáo Việt Nam. Hiền Quang khơi nguồn, Điều Ngự dựng gậy, Pháp Loa nổi lửa, Huyền Quang tiếp hương.... một mạch chảy dài đến tận ngày nay. Sức sống ấy, chữ nghĩa làm sao đủ để ghi lại./.
 
                                               
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513074

Hôm nay

2175

Hôm qua

2436

Tuần này

21011

Tháng này

219947

Tháng qua

121356

Tất cả

114513074