Ấy thế mà trong tôi lúc này (5-2017), lại thấy bao nhiêu điều lạ.
Lạ là, Hồ Chí Minh xa nhà đến những 50 năm trời. Sao mà lâu vậy? Tháng 1 năm 1941 khi vượt Cột mốc 108 ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc (tại tỉnh Cao Bằng) về Tổ quốc rồi mà Hồ Chí Minh mãi vẫn chưa về thăm quê. Nơi ấy có mộ người mẹ kính yêu mà từ năm 1942 đã được bí mật di từ Huế về quê rồi được mai táng trên núi Động Tranh thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn. Nơi ấy có người chị gái Nguyễn Thị Thanh và có người anh trai Nguyễn Sinh Khiêm bặt tin tức đã lâu. Rồi khi anh trai qua đời năm 1950 và chị gái qua đời năm 1954 mà Hồ Chí Minh cũng không về lo cho hai đám tang ấy được. Toàn quốc kháng chiến nổ ra cuối năm 1946, khi cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở lại Việt Bắc thì Hồ Chí Minh tranh thủ đi đường núi đến thăm đồng bào Thanh Hóa. Từ phố thị của xứ Thanh về tới Kim Liên còn bao xa đâu, độ khoảng 150 cây số là cùng. Mà đường đất cũng thuận tiện cho việc đi lại. Thanh - Nghệ - Tĩnh lúc này là “vùng tự do” của ta chứ không phải là vùng tề bị thế lực thực dân-phong kiến chiếm đóng và cai quản.
Mãi đến ngày 9-11-1950, khi anh trai của mình là Nguyễn Sinh Khiêm qua đời hơn một tháng thì Hồ Chí Minh mới nhận được tin. Không thể về quê được, Hồ Chí Minh đau như dứt từng khúc ruột, Người liền lấy bút tuôn ra mấy dòng chữ gói vào một bức điện gửi họ Nguyễn Sinh: “Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi xin chịu tội bất đễ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”.
Chắc chắn là tự nghiêm khắc với bản thân mình và sòng phẳng lắm trong cái thế ứng xử ở đời, thì Hồ Chí Minh mới “xin nhận tội bất đễ” trước linh hồn của người anh. Tội bất đễ là tội lớn của một con người, có thể ngang với tội bất hiếu, bất trung, nhưng Hồ Chí Minh đành phải chịu tội vì “việc nước” nặng hơn rất nhiều. Hồ Chí Minh biết đặt cái cá nhân của mình vào cái khôn cùng của việc nước và biết đem cái nào hy sinh cho cái nào. Cũng như sau này, ngày 14-7-1969, lúc bấy giờ chỉ còn hơn một tháng nữa là về Trời, khi tiếp và trả lời phỏng vấn của nữ phóng viên báo Granma (Cuba), Hồ Chí Minh nói như là tổng kết cả cuộc đời của mình: “Tôi hiến cuộc đời tôi cho dân tộc tôi”.
Lạ là, sao về quê mà Hồ Chí Minh ở lại ít thời gian vậy?
Lạ là, về quê mà Hồ Chí Minh không lên viếng mộ mẹ mình là cụ Hoàng Thị Loan và đến viếng nghĩa trang họ nội – ngoại?
Lạ là, tại sao khi tỉnh nhà, xã nhà còn nghèo, Hồ Chí Minh không dùng cái uy của mình kích hoạt Trung ương đầu tư cho tỉnh nhà, cho quê nhà giàu mạnh lên? Thôi, thì tôi lạm dụng cái tư duy chụp giựt của tôi hiện tại mà suy, hơi tiêu cực đấy. Giả sử Hồ Chí Minh lúc này mà nêu vấn đề này ra thì cũng được, có làm sao đâu. Chớ sao! Tỷ như, có thể đề nghị Trung ương làm con đường này, con đường nọ cho tỉnh; bảo ngành này ngành nọ đầu tư ưu ái cho công trình này công trình khác cho tỉnh, như sau này một số kẻ hay làm. Không ưu ái cho tỉnh nhà thì thôi, cớ làm sao mà tại buổi nói chuyện với hơn 3 nghìn đại biểu cán bộ và nhân dân tỉnh Nghệ An tại Vinh trong cái buổi chiều gió nóng, ngày 14-6-1957, trên cái chỗ đứng xấp xửng, bình dị giữa biển người, Hồ Chí Minh lại nói về “ưu điểm của cán bộ, cán bộ trong Đảng, cán bộ ngoài Đảng, cán bộ và chiến sĩ trong quân đội và cán bộ đoàn viên thanh niên lao động” thì ít, trong khi lại nói về khuyết thì dài và kỹ thế, lại dẫn ra cả thí dụ rất chi tiết nữa chứ?
Lạ là, …
Thấy nhiều điều lạ lắm.
Rồi ngẫm suy, tôi thấy những cái lạ có thể chỉ là những điều tiểu tiết. Tôi thấy đọng lại là tấm lòng son của một người con quê hương sau những biến cố trong biển cả của cuộc đời. Ra đi từ khi mái đầu còn xanh. Nay, sau nửa thế kỷ, về quê thì mái tóc pha sương phất phơ trước những cơn gió nóng. Chẳng có gì lạ cả. Sau những lời từ gan ruột:
Chúng ta đoàn kết một nhà,
Ấy là nghĩa trọng, ấy là tình sâu.
hoặc:
Quê hương nghĩa trọng tình sâu,
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình?
là những lời từ tận tâm can của Người đau đáu mong quê hương tiến bộ.
Đó là, Hồ Chí Minh nhìn thấy cán bộ và nhân dân tỉnh nhà đã đoàn kết trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; khi hòa bình được lập lại, cán bộ đã tích cực cùng nhân dân thực hiện kế hoạch năm 1956; sau cải cách ruộng đất đã cố gắng sửa sai.
Nhưng, cán bộ của tỉnh nhà còn mắc nhiều khuyết điểm. Cần nói thêm ở đây cái cảm nghĩ của tôi là: thường thì thấy trong các báo cáo, các bài nói chuyện của không ít cán bộ lãnh đạo thì có nêu lên thành tích, khen ngợi chiếm phần lớn, nhưng đến phần chê, phần nêu khuyết điểm thì có vẻ ít đi, ngắn gọn thôi; thậm chí khi nêu nguyên nhân sinh ra những khuyết điểm ấy thì còn nêu nặng từ nguyên nhân khách quan. Ngôn ngữ Việt Nam phong phú lắm, người dùng ngôn ngữ cũng khá uyển chuyển. Có khi người ta làm nhạt đi cái xấu, cái kém cỏi, cái khuyết điểm bằng những từ vô hồn như “hạn chế”, “tồn tại”. Sao không gọi thẳng đó là sai lầm, yếu kém, khuyết điểm (như Hồ Chí Minh dùng trong buổi nói chuyện này. “Khuyết điểm” là “điểm còn thiếu sót”). Hồ Chí Minh đâu có nói những lời có cánh khi nói với cán bộ và nhân dân tỉnh nhà sau từng ấy năm xa quê! Nghiệt ngã quá chăng? Không đâu. Chính vì quá yêu mến cán bộ quê hương cho nên Hồ Chí Minh mới chỉ ra bảy khuyết điểm sau đây:
Một, có nhiều thiếu sót trong đoàn kết nội bộ, tức là đoàn kết giữa đảng viên mới và đảng viên cũ; giữa cán bộ cũ và cán bộ mới; giữa cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng; giữa cấp trên với cấp dưới và giữa cấp dưới với cấp trên.
Hai, khuyết điểm “suy bì đãi ngộ và địa vị”. Hồ Chí Minh nói rằng, suy bì tức là so sánh. Phải biết so sánh. Nên so sánh với những đồng chí, những cán bộ có đạo đức cách mạng hơn mình, lập trường tư tưởng vững hơn mình, tác phong dân chủ và tinh thần trách nhiệm hơn mình. So sánh như thế để mà học, mà tiến bộ. Còn so sánh về vật chất thì ngược lại nên so sánh với những đồng chí cố nông, bần nông, với đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu so sánh không đúng thì sẽ sinh ra kèn cựa địa vị, như thế là không tốt, không nên.
Ba, “có cán bộ, đảng viên ngồi lo không biết tiền đồ của mình như thế nào…tách riêng tiền đồ của mình ra khỏi tiền đồ của dân tộc”. Hồ Chí Minh lấy thí dụ: “Chuyến xe lửa, trong xe tất cả mọi người đều muốn đi mau. Tiền đồ mỗi một người trong xe lửa nằm trong tiền đồ chung của chuyến xe lửa. Nếu chuyến xe lửa đi nhanh thì tất cả mọi người được đi nhanh. Nếu chuyến xe lửa đi chậm thì tất cả mọi người phải đi chậm. Nếu một người muốn đi nhanh hơn mọi người rồi nhảy ra ngoài xe để chạy nhanh hơn xe thì người ấy sẽ như thế nào?”
Bốn, một khuyết điểm nữa là “cái gì cũng sợ khó”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Khó mà quyết tâm thì nhất định làm được…Nếu việc gì cũng dễ thì không cần đến Đảng, cũng không cần đến đảng viên, không cần đến cán bộ. Người cách mạng phải thấy khó…để khắc phục, chứ không phải thấy khó mà nản lòng”.
Năm, khuyết điểm “công thần”. Hồ Chí Minh nói rằng, chúng ta có truyền thống cách mạng vẻ vang, có nhiệm vụ sửa đổi xã hội, đó là điều chúng ta có quyền tự hào, chứ không “lên mặt công thần”; “Lấy cá nhân chúng ta mà so với những anh hùng, liệt sĩ cách mạng, chưa nói trên quốc tế, chỉ nói trong nước ta, công trạng của chúng ta đã thấm vào đâu. Phải thấy công trạng ấy là công trạng của toàn dân, của toàn Đảng chứ không phải công trạng một người. Ai tự cho mình có công trạng mà tự kiêu, tự đại là không đúng”. Bệnh công thần sinh ra nhiều cái thiếu: thiếu tính tổ chức kỷ luật, mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa.
Sáu, khuyết điểm “một số đảng viên, cán bộ đang còn xa xỉ, tham ô, lãng phí, không biết tiếc, không biết tôn trọng của công, không biết thương tiếc của cải do mồ hôi nước mắt đồng bào làm ra. Do đó mà đẻ ra xa xỉ”. Vẫn với phong cách tỷ mỉ, cụ thể, dân giã, Hồ Chí Minh nhấn nhá: “Lương bổng Chính phủ cấp cho chúng ta có hạn mà ta xa xỉ thì lấy tiền đâu? Đã có cái áo rồi còn muốn hai ba cái như thế là lãng phí. Lại muốn mua thứ này thứ khác, mà thiếu tiền sinh ra tham ô. Thiếu tinh thần lao động. Thiếu kỷ luật lao động”.
Bảy, khuyết điểm “mê tín”. Có đảng viên cũng ngồi đồng, để bùa, có đảng viên cũng rước kiệu”.
Điều này càng thấm khi liên hệ tới tình hình hiện nay. Mê tín quá. Lòng tin. Nhưng, tin không có cơ sở chắc chắn, niềm tin sai lệch thì đâm ra tin là mê! Trong số những người đi lễ đền chùa rồi găm những đồng tiền vào tay tượng danh nhân, tượng Phật kia hiện nay, tôi khẳng định chắc chắn có rất nhiều cán bộ, đảng viên. Họ mê tín đến mức phản văn hóa, phản Phật mà cứ trơ trơ như không có chuyện gì xảy ra.
Tôi có quen một chuyên gia về văn hóa dân gian, là một người quan trọng trong việc chuẩn bị những luận chứng để trình UNESCO xét công nhận “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt”. Tôi cũng đã nói với chuyên gia này rằng, UNESCO công nhận thì tốt thô nhưng nên có những cố gắng tiếp theo để ngăn chặn và khắc phục những cái biến tướng, thực ra làm hỏng giá trị của Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, sau khi UNESCO công nhận. Chẳng hạn, người ta rất dễ biến sinh hoạt thờ Mẫu Tam Phủ thành sân khấu hóa; biến sinh hoạt văn hóa này thành nơi kiếm tiền, và như thế rất ô nhiễm, ô uế; biến sinh hoạt rất tuyệt vời này thành chỗ tác oai tác quái của mê tín.
Nay, tôi thấy rồi, không biết đã có những hành động nào bảo vệ và phát huy di sản này chưa, nhưng đã có những hư hỏng đến tệ hại. Tràn lan lên đồng. Các lễ lạt tốn kém và đầy ma khí, đầy tà khí của kim tiền xướng lên, có khi mỗi lần lên đồng tốn kém đến hàng trăm triệu đồng. Có rồi. Múa Mẫu Tam Phủ vào khai mạc Hội Đền Cờn – nơi vốn là thờ Tứ vị Thánh nương...
Trong buổi chiều quê hương hôm ấy, Hồ Chí Minh giao rất nhiều nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ, đảng viên tỉnh Nghệ An, mà Người cho đó là “những nhiệm vụ khó khăn”, và đề nghị cán bộ, đảng viên của tỉnh phải “QUYẾT TÂM LÀM CHO TỈNH NGHỆ AN THÀNH MỘT TỈNH GƯƠNG MẪU”. Nhiều bạn đồng nghiệp của tôi có dịp đã lần giở những bài phát biểu của Hồ Chí Minh trong 15 tập của bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập để xem xem Người chúc, Người mong như thế nào khi về thăm và làm việc ở các tỉnh. Họ cho biết rằng, có tỉnh thì Hồ Chí Minh chúc tỉnh đó thành tỉnh GIÀU CÓ, có tỉnh thì Hồ Chí Minh chúc tỉnh đó thành tỉnh KIỂU MẪU, tỉnh GƯƠNG MẪU.
Không rõ lắm cái cụ thể “gương mẫu” theo ý của Hồ Chí Minh là gồm những tiêu chí cụ thể nào. Tôi thì chắc rằng, dù là tiêu chí gì đi nữa, thì Nghệ An phải là tỉnh làm gương sáng cho cả nước về tất cả các mặt để xứng đáng tỉnh này là QUÊ HƯƠNG Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là người con của quê hương Kim Liên, người con của quê hương Nghệ An. Nhưng, Hồ Chí Minh cũng là một “Nhân vật kiệt xuất” trong không gian UNESCO. Hồ Chí Minh là con người của các giá trị văn hóa của dân tộc và cũng là là một danh nhân văn hóa của thế giới. Hồ Chí Minh làm sáng rõ thêm cốt cách dân tộc trong trường văn hóa thế giới .
Cũng chính vì thế mà tôi cho rằng, Hồ Chí Minh - con người không có tuổi, con người của mọi vùng văn hóa. Hai chữ “tỉnh nhà” là hai chữ Hồ Chí Minh thường dùng cho nhiều tỉnh khi nói chuyện hoặc viết thư gửi cho đồng bào ở tỉnh đó, thành thử có người hiểu rằng quê Hồ Chí Minh cũng ở tỉnh đó! Hồ Chí Minh có một quê hương Nghệ An thật, có một quê hương Kim Liên, Nam Đàn thật, nhưng Hồ Chí Minh không có nhóm, không có cục bộ. Do vậy, Hồ Chí Minh - cuộc đời và sự nghiệp của Người - có trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước và nhân loại tiến bộ.
Hồ Chí Minh, cuộc đời, sự nghiệp của Người, như suối nguồn trong trẻo, mát lành, không bao giờ cạn và luôn chảy ra sông dài, hòa vào cái mênh mông của biển cả.
Nước là dấu hiệu của mọi sự sống!
Nác sông Lam nỏ khi mô cạn, như tấm lòng của Hồ Chí Minh đối với quê hương Nghệ An, cũng như tấm lòng của đồng bào quê hương Nghệ An đối với Hồ Chí Minh.