Những góc nhìn Văn hoá

Việc dạy nghề ở Sài Gòn và các tỉnh thời thuộc Pháp

Theo nhận định của nhiều tác giả Pháp vào thế kỷ XIX, tại nhiều nơi trên đất nước ta, kể cả những làng mạc xa xôi, hẻo lánh nhất, hầu hết việc kinh doanh và phát triển công nghiệp thường nằm trong tay người Tàu. Sự kiện này không chỉ xuất phát từ thói lười nhác cố hữu của phần đông người Việt, mà do họ không có khả năng huy động những nguồn tiền đầu tư lớn và thiếu hẳn tay nghề cần thiết cho hoạt động công nghiệp. Vì thế mà lúc bấy giờ, tại nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, nhiều xí nghiệp sản xuất sử dụng phần lớn thợ là người Tàu, do họ có tay nghề đáp ứng được yêu cầu làm ra sản phẩm cần thiết.

 Nhận thức được điều đó, từ những thập niên cuối thế kỷ XIX, chính quyền thực dân Pháp bắt đầu vạch ra kế hoạch đào tạo tay nghề cho người Việt, xóa bỏ dần khoảng cách giữa người nước ta và người nước khác ngay trên chính quê hương mình

Chỉ hơn 2 năm sau khi hòa ước Nhâm Tuất được ký kết ngày 5.6.1862, công nhận quyền chiếm đóng của thực dân Pháp tại ba tỉnh miền đông Nam kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường), vào ngày 16-7-1864, Thống đốc Nam kỳ De Lagrandière ban hành quyết định thành lập các trường tiểu học tại những vùng đông dân cư của thuộc địa Nam kỳ, mở đầu một thời kỳ giáo dục mới ở nước ta, lấy chữ gốc Latinh làm căn bản. Đến năm 1866 đã có 24 trường tiểu học, thu nhận 684 học sinh và không đầy hai thập niên sau - năm 1884 - tổng số trường học ở 21 hạt thuộc toàn Nam kỳ là 531 trường với 18.056 học sinh. Các trường này được chia làm ba cấp: tiểu học, cấp một và cấp hai. Đầu thập niên 1880, việc dạy nghề được đặt ra như một trong những hướng bổ sung cho chế độ giáo dục đương thời. Trường dạy nghề có thể đào tạo các công nhân ngành rèn, thợ khóa, thợ nguội, thợ mộc, thợ tiện... cung ứng cho nền công nghiệp phôi thai của thuộc địa. 
Ngày 28.12.1881, Hội đồng quản hạt Nam kỳ đưa ra một quyết nghị về việc thành lập tại mỗi trường trung học một phân ban đặc biệt chuyên dạy nghề. Nhưng phải đợi đến một, hai thập niên sau ngày thực dân Pháp thôn tính toàn bộ Việt Nam (1884), vấn đề mới được nghiên cứu kỹ và thực hiện trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam). Lúc bấy giờ, các nghề điêu khắc, khảm, thêu, sơn mài, đúc... đã khá phổ biến, nhưng đó không phải là mục tiêu chính của người dân bản xứ trong việc học nghề. Họ muốn làm việc tại các xưởng mộc, xưởng làm đồ sắt xây dựng, xưởng làm nề - những lĩnh vực đang có một sức thu hút lớn trong cộng đồng dân cư.

 

 

* CÁC TRƯỜNG DẠY NGHỀ ĐẦU TIÊN 


Tính đến đầu thế kỷ XX, các trường dạy nghề trên toàn cõi Đông Dương xuất phát từ ba nguồn chính: sáng kiến của tư nhân, sáng kiến của chính quyền địa phương hoặc sự khởi xướng của Tổng Nha Giáo dục. 
* Ở Bắc kỳ có hai trường dạy nghề chính: Trường dạy nghề Hà Nội và Trường dạy nghề Cao Bằng. Trường Hà Nội thành lập theo sáng kiến của Phòng Thương mại Hà Nội nhằm đào tạo thợ đáp ứng yêu cầu của các kiều dân, các kỹ nghệ gia và thầu khoán. Tính đến cuối thập niên 1900, trường này có tất cả 180 học sinh; xưởng làm đồ sắt do chính hiệu trưởng trông coi, còn xưởng làm sơn mài và đúc do hai giáo viên người Nhật đảm trách, nhằm đào tạo những giáo viên mới có thể thay thế họ trong việc giảng dạy tại đây. Trường Cao Bằng mới được thiết lập khoảng năm 1909, theo sáng kiến của thiếu tá Martin Panescorce, chỉ huy quân sự Cao Bằng và chỉ có 15 học sinh. Họ được dạy cách sử dụng các dụng cụ thông thường cùng các ý niệm cần cho việc hành nghề đã chọn. Giáo viên dạy nghề tại tỉnh lỵ xa xôi này là lính của thiếu tá Panescorce. 
* Tại Trung kỳ, chỉ có một trường dạy nghề ở Huế thành lập theo sáng kiến của Khâm sứ Boulloche, chi phí do ngân sách của triều đình Huế đài thọ. Trường có 100 học sinh, hiệu trưởng là một tham tá công chánh và cũng chia ra nhiều xưởng khác nhau, ngoài các nghề mộc, tiện, điêu khắc, nề, họa... trường còn dạy cả nghề nông, do vị trí của trường ở gần Sở Canh nông, thuận tiện cho việc thực hành. Theo báo cáo của hiệu trưởng trường này vào năm 1909, sau 3 năm học tập, học sinh được cấp chứng chỉ tốt nghiệp và dễ dàng tìm được việc làm tại các công trường và xí nghiệp ở Huế. Cũng tại Huế, Boulloche thành lập một trường dạy nghề canh nông dành cho con cái các quan lại. Song các cậu ấm này không cảm thấy thú vị gì đối với ngành nghề dành cho họ trong tương lai, lại không biết tiếng Pháp nên cuối cùng trường này chẳng bao giờ vận hành được. Bù lại, chương trình canh nông được bổ sung vào trường dạy nghề đang hoạt động tại Huế.
Tại Vinh, chính quyền Pháp mở trung tâm công nghiệp gỗ, dạy nghề đóng bàn ghế và các đồ gia dụng bằng gỗ khác. Tại Thanh Hóa, họ mở trường dạy nghề đá, vì địa phương này có nhiều núi đá và đá cẩm thạch là một trong những nguyên liệu rất được ưa chuộng.
* Đất Nam kỳ, thuộc địa đầu tiên của thực dân Pháp, ngoài các trường dạy nghề ở Sài Gòn do chính quyền thiết lập, còn có 5 trường dạy nghề ở các tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Sa Đéc, Hà Tiên, Cần Thơ. Trường Sài Gòn trực thuộc Sở Giáo dục Nam kỳ và hiệu trưởng chính là giám đốc của sở này. Trường có 70 học sinh học trong hai xưởng: sắt và gỗ. Họ cũng được dạy cả tiếng Pháp, toán pháp cùng hình học. Ở các tỉnh, mỗi trường có những nét đặc thù riêng, tùy điều kiện địa lý và kinh tế của mỗi địa phương. Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) chú trọng nghề thợ nguội, nghề rèn, nghề đúc..., có lớp dành cho học sinh nữ học các môn may, thêu, làm thảm, đọc và viết chữ Quốc ngữ, làm các phép tính. Thủ Dầu Một (nay thuộc tỉnh Bình Dương) nghiêng về nghề khảm, sơn mài, điêu khắc. Trường dạy nghề Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) nổi tiếng với xưởng của một bậc thầy về nghề kim hoàn tên là Vinh. Ông vang danh cả Đông Dương với những đồ bạc khảm men huyền đầy nét tinh tế và tao nhã, đoạt nhiều giải thưởng trong các cuộc triển lãm ở địa phương cũng như ở Paris và Marseille (Pháp). Trường Hà Tiên được xây dựng nhắm vào một đặc sản quan trọng của địa phương, đó là vảy đồi mồi dùng làm hộp đựng đồ trang sức, quạt, lược... Trường mới thành lập năm 1909 và bước đầu chỉ có... 3 học sinh. Cũng trong năm 1909, trường dạy nghề Cần Thơ ra đời, song bước đầu chưa đạt được bao nhiêu thành quả. Trong cuộc trưng bày mỹ nghệ Nam kỳ, trường này chỉ giới thiệu được mấy sản phẩm thêu đan chưa hoàn chỉnh. Tại Gò Công, trường dạy nghề từng được thành lập trước năm 1909, song vùng này rất giàu về lúa gạo, phần đông dân chúng sống thoải mái, nhiều xưởng thợ của người Tàu đã có mặt từ lâu, nên việc cho con cái đi học nghề bị người dân lơ là. 
Đầu thế kỷ XX, chi phí xây dựng và điều hành một trường dạy nghề không quá cao, nằm trong khả năng ngân sách, có thể kể như sau:
- Chi phí xây dựng: 2.000 đ
- Lương hàng năm của mỗi trưởng xưởng người bản xứ: 360 đ
- Dụng cụ cho mỗi xưởng: 400 đ
Mỗi học sinh trường dạy nghề được cấp học bổng từ 3 đến 4 đồng/tháng

 

* MỘT TRƯỜNG DẠY NGHỀ TIÊU BIỂU 

Điển hình cho chế độ giáo dục hướng nghiệp đầu thế kỷ 20 có lẽ là Trường thực nghiệp cơ khí châu Á - Sài Gòn (Ecole pratique des mécaniciens asiatiques de Saigon). Trường được Thống đốc Nam kỳ Rodier thành lập năm 1906 với mục đích đáp ứng các yêu cầu của ngành hải quân, ngành cai trị thuộc địa, ngành thương mại và kỹ nghệ địa phương... Những thống đốc kế nhiệm Rodier như de Lalande-Calan, Bonhoure, Outray, Gourbeil tiếp tục duy trì chương trình hoạt động của trường này và cung cấp nhiều phương tiện học tập cần thiết như: máy móc, nồi hơi và nhiều loại thiết bị khác. 
Kể từ năm thành lập, Trường thực nghiệp cơ khí châu Á - Sài Gòn đã có những bước tiến đáng kể. Năm 1910, Ban điện học thực hành và kỹ thuật ôtô ra đời, mang đến cho việc giáo dục hướng nghiệp một sắc thái mới mẻ hơn. Điều kiện đầu tiên để được thu nhận vào trường là các thanh thiếu niên ở tuổi 16 trở lên, trải qua một kỳ thi về tiếng Pháp và thao tác trên các đồ kim khí. Thời gian học tập kéo dài ba năm gồm hai năm cho máy hơi nước và một năm cho nghề điện cùng kỹ thuật máy nổ. Cuối mỗi niên khóa, các học sinh trải qua một kỳ sát hạch về những điều đã học do Hội đồng hoàn thiện giáo dục chủ trì. Hội đồng này do một Tham biện hạng nhất (Administrateur de première classe) làm chủ tịch; hội viên gồm một sĩ quan cao cấp ngành hải quân, một nghị viên Hội đồng quản hạt, hiệu trưởng trường, một sĩ quan ngành cơ khí... Khi ra trường, học sinh được bổ làm việc trong ngành hải quân trong thời hạn hai năm, với tư cách là thợ cơ khí hạng nhất. 
Có thể thấy cung cách dạy nghề của Trường thực nghiệp cơ khí châu Á - Sài Gòn không đi theo lối mòn cũ của những nghề truyền thống ở Việt Nam như nghề mộc, nghề nề... Nó đột phá vào những lĩnh vực còn rất mới mẻ trong đời sống của người dân thuộc địa như điện, máy nổ... Trường thu nhận hàng trăm học sinh, khi ra trường, khoảng 50% trở về đời sống dân sự sau hai năm ở quân ngũ và đảm nhận công việc của những đốc công, cơ khí trưởng trong ngành công nghiệp ở địa phương, trong lĩnh vực đường sắt, trên những chiếc sà-lúp hay thương thuyền... 
Hơn 20 năm sau, năm 1930, hệ thống giáo dục hướng nghiệp đã có tổng cộng 1.680 học sinh, phân bố trên 11 trường chuyên biệt (không kể các xưởng dạy nghề ở nông thôn), cung cấp cho đời sống công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp những người thợ có tay nghề cao, làm hạt nhân giúp đào tạo tại chỗ những thế hệ công nhân ngày càng đông đảo, góp phần thỏa mãn những nhu cầu ngày càng phức tạp của một chính quyền thuộc địa đang suy yếu do các phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao.

..........................................
(Trích trong “Thành cổ Sài Gòn và sinh hoạt của người Sài Gòn xưa” sẽ được DT Books ấn hành trong quý 4/2017)

 

 

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578538

Hôm nay

263

Hôm qua

2293

Tuần này

21737

Tháng này

225595

Tháng qua

130677

Tất cả

114578538