- nói về phụ nữ
- viết bởi phụ nữ
- hướng tới công chúng nữ
- được nữ giới đọc (ở đây chỉ một bộ phận lớn nữ giới)
- phục vụ cho một ý kiến hay lý lẽ nào đó của phụ nữ
Các dạng văn học này không tồn tại riêng lẻ mà giao thoa với nhau trong các văn bản văn học, thể hiện tính đa dạng của văn học nữ. Khác với văn học thiếu nhi được viết bởi người lớn, văn học nữ chủ yếu do nữ giới viết.
Văn học viết bởi phụ nữ được công nhận trong nền văn học chung của văn học Pháp với những thành công đáng kể ghi dấu các tên tuổi như Marguerite de Navarre, bà de Staël, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras… nhưng cùng với văn học quần chúng văn học nữ vẫn chỉ bị xếp loại trong văn học bàng tuyến đối lập với văn học chính thống hay văn học bác học của nam giới. Điều này không có nghĩa là văn học do phụ nữ viết chỉ là một hạt cát trong biển cát văn học Pháp nói chung, nó giống như văn học dân gian Việt Nam luôn tồn tại song hành với văn học bác học bằng chữ Hán của các bậc nho gia với số lượng tác phẩm lớn nhưng vẫn chỉ là văn học bàng tuyến.
Việc sáng tác của phụ nữ chỉ được cho là thứ văn chương đi tìm bản sắc, nghiên cứu tìm tòi về các điều kiện nữ giới, mang tính tự suy ngẫm như nhận định sau đây : « Văn học nữ chủ yếu mang tính tự ngã (từ Louise Labé đến Simone de Beauvoir) và chỉ được diễn đạt dễ dãi trong thể loại hồi ký (từ Sei Shônagon đến Violette Leduc và Kathleen Raine »[1]. Ở những thế kỷ trước, văn học nữ bị đánh giá là sự suy đồi của cả một nền văn học Pháp vốn được coi là một nền văn học đồ sộ và tiêu biểu của châu Âu. Người ta lo sợ rằng sự tham gia của người phụ nữ vào lĩnh vực văn chương sẽ làm mất đi giá trị chung của những người cầm bút và sự mất giá này rồi sẽ lây lan đến những ngành khác. Các nữ nhà văn bị ám chỉ bằng từ « bas-bleu » có nghĩa là « nữ văn sĩ rởm ». Theo cuốn
Những nữ văn sĩ của chúng ta (Jean de Bonnefon, Emile Faguet, tử tước de Broc, Paul Flat – 1908), phái nữ viết văn được xem như trái với quy luật, trái với tự nhiên và là mầm mống của sự thoái hoá trong xã hội và trong văn đàn. Baudelaire khi nói về George Sand viết rằng : « Người đàn bà Sand là một kẻ trung thực vô đạo đức. Bà ta luôn luôn giáo huấn đạo đức. Nhưng những điều bà ta làm trước kia toàn là phi đạo đức. Hơn nữa bà ta chưa bao giờ là một người nghệ sĩ. Bà ta có phong cách viết trôi chảy của giới tư sản. Bà ta ngu ngốc, bà ta thô kệch, bà ta ba hoa ; bà ta « có đạo đức » trong những tư tưởng đạo đức, lý luận của bà sâu sắc và tình cảm của bà ta chỉ tinh tế như là một bà giữ cửa hay như những cô gái bao. […] Nếu có một vài người đàn ông phải lòng cái hố tiêu này, thì đây đúng là một minh chứng cho sự xuống cấp của nam giới thế kỉ này » (
Trái tim để trần, 1887).
Đàn ông được xem như độc quyền về tri thức, lý trí. Những tác phẩm của họ mang tầm vóc của cả một thời đại và có giá trị vĩnh hằng. Trong khi đó, khái niệm văn học nữ lại chỉ quan hệ mật thiết với chủ đề tình yêu, đến hình ảnh người đàn bà đang yêu trong thể loại văn chương tôn giáo (như Madeleine và Catherine des Roches, Pernette du Guillet, Louise Labé thế kỉ XVI-XVII) và văn chương quần chúng. Các tác phẩm mang một đặc điểm chung là phân tích mối quan hệ giữa hai giới thể hiện qua việc khẳng định quyền tự chủ của phụ nữ hoặc qua việc hư cấu hóa các vai trò truyền thống của phụ nữ trong các tiểu thuyết tình cảm. Khuynh hướng tình cảm bị chỉ trích là khuyết điểm lớn nhất trong các tác phẩm văn học nữ. Người ta cho rằng nó ngăn cản mọi dụng ý về tư tưởng và nghệ thuật, khiến cho các tác phẩm của phụ nữ phần nhiều mang tính ngây thơ, tự phát. Mặt khác, các nhà văn nữ thường không tránh khỏi chủ đề về tình dục, giới tính. Họ dường như viết để quyến rũ chứ không phải vì bất kì một dự định văn học lớn lao nào. Về luận điểm này, Barbey d’Aurevilly nhận định : « một người phụ nữ có chỉ có thể có tài năng khi nghe theo những cảm xúc cá nhân, có thể viết chúng ra nhưng rất hiếm khi có khả năng viết nên một cuốn sách vượt ra ngoài những tình cảm ấy » (Tác phẩm và con người, 1887). Ngoài chủ đề tình yêu, văn học nữ còn có mối liên hệ mật thiết với văn học thiếu nhi. Phụ nữ là những người đầu tiên viết văn học về tuổi thơ và văn học dành cho trẻ em. Thể loại này còn có thể được gọi là văn học nữ về thiếu nhi, nó thể hiện những rung cảm của phụ nữ về tuổi thơ, chức năng giáo dục, cái nhìn cá nhân của trẻ nhỏ…
Khác với văn học nữ,
văn học nữ quyền xuất hiện như một dòng văn học phản kháng, văn học dấn thân. Dòng văn học này chỉ được viết bởi phụ nữ. Khái niệm văn học nữ quyền đánh dấu sự xuất hiện của một loạt những câu hỏi mới trong diễn ngôn về khoa học văn học : khái niệm về văn học như một cơ cấu trật tự xã hội phụ quyền, định nghĩa và chức năng của tính nữ như một hiệu chỉnh cho cơ cấu trật tự xã hội đó… Evelyne Gauthier nhận xét : không tồn tại một dòng văn học nào gọi là « văn học nam giới » đối lập với văn học nữ cũng như văn học nữ quyền với một số đặc thù riêng. Quả vậy, văn học do đàn ông viết từ xưa đến nay hiển nhiên được công nhận là văn học chính thống, văn học phổ quát của nhân loại. Cũng chính vì lý do này một số nhà văn nữ đương đại phủ nhận sự tồn tại của văn học nữ cũng như văn học nữ quyền bởi họ cho rằng khi nào còn khẳng định sự tồn tại của dòng văn học này là còn phủ định vai trò bình đẳng của phụ nữ so với đàn ông trong việc sáng tác văn chương. Mặt khác, nghiên cứu về giới (gender study, études du genre) dựa trên cơ sở các tác phẩm nữ quyền luận không những bàn về các vấn đề tường minh về quan hệ và bình đẳng giữa hai giới mà còn hàm ẩn một ý nghĩa xâu xa hơn về mặt lý luận văn học. Nó làm sáng tỏ lập luận của Michel Foucault về vấn đề thiết trị hoá và giải thiết trị. Chân lý không tự nhiên mà có, nó được một thế lực hay quyền hạn sơ khai nào đó chuyển hoá từ một nhận thức của con người. Phê bình (critique) là một hình thức giải thiết trị, đặt lại câu hỏi về những giá trị tưởng như đã thành luật, thành chân lý
[2]. Theo cách đó văn học nữ quyền là một hình thức giải thiết trị cái chân lý về vai trò tối thượng của đàn ông, về những vai trò truyền thống của phụ nữ từ xưa đến nay vẫn được coi là thuộc về « quy luật tự nhiên », là « thiên chức của người phụ nữ ». Nghiên cứu về giới ở phạm vi rộng hơn góp phần khẳng định tính lịch sử tương đối của chân lý.
Văn học nữ quyền không tồn tại tách biệt với văn học nữ, nó nằm bên trong mảng văn học nữ nhưng với một ý đồ đấu tranh bình đẳng giới rõ rệt hơn. Văn học nữ quyền cùng với phong trào bình đẳng giới là điều kiện để văn học nữ nói chung phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng.
Văn học nữ cũng như văn học nữ quyền Pháp càng ngày càng phát triển nhờ những tiến bộ trong các điều luật xã hội và phong trào nữ quyền. Vào các thế kỉ trước, các nữ văn sĩ chủ yếu thuộc tầng lớp quý tộc hay tư sản. Chỉ từ sau bộ luật Ferry (1881) về miễn phí giảng dạy ở bậc tiểu học, văn chương mới bắt đầu mở rộng đến những tầng lớp xã hội khác. Bổ sung cho luật Guizot (luật về giáo dục tiểu học – 1833) buộc mọi xã có dân số 500 dân phải có một trường học nam sinh, luật Falloux (1850) buộc phải có một trường nữ sinh cho mỗi xã có dân số 800 dân. Đến năm 1925, học sinh nam và nữ được hưởng cùng một chế độ và nội dung giáo dục như nhau. Những kiến thức ngang bằng với nam giới cũng tạo điều kiện cho nhiều phụ nữ sáng tác các tác phẩm có chất lượng hơn. Năm 1907, phụ nữ có quyền tự do sử dụng tiền lương của mình. Và đặc biệt vào ngày 21 tháng tư năm 1944, trước làn sóng đấu tranh biểu tình của phụ nữ tại Pháp và trên toàn châu Âu, chính phủ Pháp đã thông qua việc phụ nữ cũng có quyền và nghĩa vụ bầu cử như nam giới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phải đến thế kỷ XXI phụ nữ mới có vị trí tương đối ngang hàng với đàn ông trong các hoạt động chính trị. Nếu như đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ về mặt pháp lý đã khó thì công cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng lại càng khó khăn dai dẳng hơn. Chính vì vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ II và việc thông qua quyền bầu cử của phụ nữ, phong trào nữ quyền diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực tư tưởng với nhiều cây bút sắc bén như Renée Vivien, Germaine Beaumont, Simone de Beauvoir, Nathalie Sarraute, Monique Wittig, Marguerite Duras…
Phong trào nữ quyền tại Pháp bắt đầu xuất hiện từ thế kỉ thứ XV, thế kỷ XVII-XIX với những gương mặt tiêu biểu như bà Staël, George Sand, Rachilde và thế kỉ XX đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng giới. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ giới hạn trong văn học nữ quyền thế kỷ XX, cụ thể là làn sóng nữ quyền thứ hai (làn sóng nữ quyền thứ nhất : từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX chủ yếu diễn ra ở Anh và Mỹ, làn sóng thứ hai : đầu thập niên 60 đến những năm 70, làn sóng thứ ba : từ những 90 đến nay) với một vài xu hướng tiêu biểu. Văn học nữ quyền Pháp thế kỷ XX được định nghĩa như một thể loại sáng tác văn chương với một chủ thể-khách thể năng động : người phụ nữ trong quá trình giải phóng mang tính lịch sử. Sự tồn tại của dòng văn học này nằm trong tổng thể các dòng văn học đấu tranh, thậm chí là các dòng văn học chính trị, các dòng văn học cách mạng trong chừng mực nó nhắm tới một sự biến đổi căn bản của các mối quan hệ xã hội.
2. Một vài xu hướng văn học nữ quyền Pháp thế kỉ XX
Xu hướng trung hoà
Năm 1949, tác phẩm Giới thứ hai của Beauvoir ra mắt công chúng như một quả bom phát nổ. Ở Việt Nam, tác phẩm này đã được giới thiệu khác chi tiết trong bài viết « Giới thứ hai của Simone de Beauvoir và vấn đề nữ quyền » (Bùi Thị Tỉnh, Tạp chí thông tin KHXH, số 7/2005). Về bản dịch của tác phẩm hiện chúng tôi chưa xác minh được đã có bản dịch sang tiếng Việt hay chưa. Trong bài viết này chúng tôi chỉ xin điểm qua một số luận điểm khái quát về nữ quyền luận mà bà nêu ra trong tác phẩm.
Simone de Beauvoir (1908-1986) là một nhà lý luận tiên phong của chủ nghĩa nữ quyền luận Pháp, gương mặt tiêu biểu cho làn sóng nữ quyền thứ hai. Tác phẩm Giới thứ hai được coi là tác phẩm lý luận dẫn đường cho phong trào phụ nữ hiện đại Pháp. Lần đầu tiên những vấn đề về cơ thể, sinh lý, những cụm từ như « dữ liệu sinh học », « đồng tính » được nhắc đến đã gây nên một cú sốc trong công chúng và giới báo chí nhất là khi bộ môn giáo dục giới tính vẫn còn chưa được biết đến. Đây là một công trình mang tính khoa học, xã hội và lịch sử xoay quanh nhận định : « Thế giới này luôn luôn thuộc về phái mạnh ». Những cơ sở vật chất và tư tưởng dựa trên đó duy trì sự thống trị về mặt xã hội của đàn ông đối với phụ nữ được đưa ra phân tích. Trước tiên, bà mổ xẻ những dữ liệu sinh học để cho thấy sự khác biệt giữa con cái và con đực trong tự nhiên và những thiệt thòi của con cái so với con đực cùng loài. Tương tự như vậy, ở loài người phụ nữ sinh ra nhỏ bé yếu đuối hơn đàn ông, vì vậy nam giới có vị trí cao hơn trước hết vì họ có sức mạnh. Bà khẳng định rằng : « Mọi lịch sử của phụ nữ đều do đàn ông tạo nên. […] ngay từ đầu với sức mạnh về thể chất họ cũng có luôn uy thế về tinh thần, họ đã tạo ra những giá trị, những tập quán, những tôn giáo ; và không bao giờ người phụ nữ cãi lại đế chế đó ». Để chứng minh điều đó, Beauvoir đã tổng kết các điều kiện sống về mọi mặt kể cả đời sống tâm lý, tình cảm của người phụ nữ qua các huyền thoại truyền thuyết, qua từng thời kì lịch sử từ thời cổ đại đến hiện đại, đưa ra nền tảng lịch sử xã hội hình thành một người phụ nữ : những xuyên tạc, áp bức đối với trẻ em gái, quan niệm về hôn nhân và sự phục tùng, về thiên chức làm mẹ….
Bà kết luận rằng vấn đề bất bình đẳng nam nữ không do tự nhiên quyết định mà là một vấn đề về văn hoá : « Không phải với cơ thể sinh học, mà với cơ thể sinh học gắn chặt với những điều cấm kị, những luật lệ mà chủ thể ý thức về bản thân và tự hoàn thiện : chính dựa trên những giá trị mà cá nhân nâng cao phẩm cách. » vì vậy mà « Người ta sinh ra không phải là phụ nữ mà trở thành phụ nữ » (câu nói này đã trở thành một tuyên ngôn bất hủ của bà đối với chủ nghĩa nữ quyền luận Pháp). Thực tế, người phụ nữ là một thực thể xã hội được cấu thành bởi những đặc trưng về tâm lý, không phải về sinh lý. Từ đó bà nhận định nếu như bất bình đẳng nam nữ không do tự nhiên quy định thì việc giải phóng phụ nữ dẫn đến bình đẳng giữa nam và nữ là hoàn toàn có thể.
Beauvoir phân biệt hai loại phụ nữ : « phụ nữ bị cưỡng chế » và « phụ nữ độc lập ». Người phụ nữ bị cưỡng chế chỉ có thể có độc lập khi đi làm : « chính khi đi làm người phụ nữ mới có nhiều khả năng vượt qua khoảng cách với nam giới ; chỉ có công việc mới đảm bảo một sự tự do cụ thể ». Tuy nhiên, hai loại phụ nữ này dù sao vẫn có một đặc điểm chung là « bị chia đôi giữa mong muốn nghề nghiệp và lo âu về khuynh hướng giới tính ». Bà hướng tới hình mẫu một người « phụ nữ tự do », tức là người phụ nữ không bị ép buộc phải hy sinh khuynh hướng phụ nữ của mình để đạt được vị trí cao trong đời sống chính trị xã hội. Điều này chỉ có thể được thực hiện trong một xã hội mà chính nó cũng được giải phóng, đó là một xã hội không có giai cấp vì vấn đề bất bình đẳng nam nữ bắt nguồn chính trong lòng một xã hội có giai cấp.
Theo quan điểm trung hoà về giới, Beauvoir đấu tranh chống lại mọi tư tưởng về sự khác biệt giữa nam và nữ. Bà cho rằng nhân loại bao gồm có đàn ông và phụ nữ là như nhau, đó là một sự ngang hàng của tạo hoá. Thực tế cho thấy ngay cả khi có những thay đổi về mặt thiết chế, luật lệ thì người phụ nữ vẫn chỉ « đội lốt đàn ông » nhưng bản thân bên trong vẫn chỉ là giống cái chịu thua kém giống kia. Để có sự bình đẳng tuyệt đối, « họ [phụ nữ] phải thay da đổi thịt và giành lấy bộ cánh của chính mình », tức là « phụ nữ [phải] là một người đàn ông như những người khác ».Tuy nhiên, để đạt tới sự trung hoà về giới này, một số giá trị của người phụ nữ được đề cao ngang hàng với nam giới nhưng ngược lại những đặc trưng nữ tính cũng sẽ bị phủ nhận. Vì vậy, phong trào phụ nữ những năm 70 theo khuynh hướng này bị đánh giá là đã không chú trọng đến những thế mạnh riêng chỉ có ở phái nữ. Mặc dù vậy, tác phẩm Giới thứ hai của Simone de Beauvoir vẫn được đánh giá là một tác phẩm có vai trò quan trọng. Với tác phẩm này, Beauvoir được coi là người phụ nữ trí thức của thời đại, « nữ triết gia đầu tiên xuất hiện trong lịch sử của đàn ông » (trang nhất số 20 báo Paris Match ).
Simone de Beauvoir tiếp tục cuộc đấu tranh với các hoạt động tích cực như việc kí vào Kiến nghị 343 (Kiến nghị in trên tạp chí Pháp
Le Nouvel Observateur ngày 5 tháng tư năm 1971) được kí bởi 343 phụ nữ khẳng định họ đã từng phá thai và sẵn sàng chịu những truy cứu hình sự ngay kể cả hình phạt bỏ tù, tham gia vào MLF
[3], cho ra mắt trên tạp chí
Temps Modernes mục « chủ nghĩa giới tính tầm thường »…
Về mặt văn học, tác phẩm
Giới thứ hai trở thành tác phẩm mở đường, cuốn « Kinh thánh » của nhiều thế hệ nhà văn. Nó đã có tầm ảnh hưởng rất lớn đến dòng « văn học giải phóng » sau đó. Nhiều phụ nữ tự cho phép mình sáng tác vì Simone de Beauvoir đã là điều đó. Vào thập niên 50 xuất hiện những nữ tiểu thuyết gia tập trung viết về nhu cầu giải phóng phụ nữ và về những áp bức đối với người phụ nữ. Những nhà văn nữ thuộc dòng văn học này có thể chia làm hai nhóm : nhóm thứ nhất gồm Colette Audry, Christine Rochefort, Claire Etcherelli, chịu ảnh hưởng rất lớn từ Simone de Beauvoir ; nhóm thứ hai gồm những người như Benoîte Groult, Marie Cardinal, Françoise Mallet Joris, Françoise d’Eaubonne… Nhìn chung, dòng văn học này lên án hình mẫu gia đình truyền thống - bố đi làm, mẹ ở nhà. Trong tác phẩm
Những vần thơ gửi tới Sophie của Christiane Rochefort, nhân vật Céline chán chồng, rời bỏ chồng và tìm hạnh phúc bên người bạn gái. Cuốn tiểu thuyết không những phủ định tính vững chắc của nền tảng gia đình truyền thống mà còn tôn thờ ý niệm chạy trốn : người phụ nữ một khi chán nản cuộc sống gia đình thì chạy trốn là giải pháp duy nhất. Mặt khác xu hướng này còn đề cao vai trò của trình độ học vấn và việc làm trong quá trình giải phóng của người phụ nữ. Lấy Annie Ernaux làm ví dụ : bản thân bà đạt đến trình độ thạc sĩ văn chương
[4] ; tác phẩm
Vị trí của bà mô tả việc nghiên cứu học tập giúp người phụ nữ tự giải phóng mình khỏi những gò bó của nguyên tắc xã hội và đạt tới vị trí một người phụ nữ tri thức như thế nào. Ngoài ra, dòng « văn học giải phóng » còn nêu lên những mong muốn bình đẳng giới của người phụ nữ cũng như những vấn đề về giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản. Có thể kể đến, chẳng hạn, tác phẩm
Người phụ nữ mệt nhoài của Beauvoir đi đầu với dự đoán về một sự tìm kiếm chủ nghĩa nữ quyền ngay trong lòng cuộc sống thường nhật, hay Marie Cardinal đi sâu vào chủ đề giáo dục giới tính trong cuốn
Những từ để nói lên điều đó và vấn đề phá thai được phân tích trong
Sự kiện của Annie Ernaux…
Xu hướng khác biệt
Từ năm 1970 ở Pháp hình thành phong trào nữ quyền mới (nouveau mouvement féministe) kế thừa thành công của phong trào nữ quyền ở Mỹ (của Phong trào quyền lợi của phụ nữ (Women’s Rights Movement) vào những năm 60 tiếp diễn vào năm 1968 với Phong trào giải phóng phụ nữ (Women’s Liberation Movement) với quy mô cấp tiến hơn). Thời kỳ này tại Pháp xuất hiện một xu hướng văn học mới là « xu hướng khác biệt ». Đây là xu hướng đề cao sự khác biệt về giới như một cách để nâng cao giá trị của người phụ nữ. Hai gương mặt tiêu biểu của xu hướng này là Antoinette Fouque và Hélène Cixous.
Antoinette Fouque (1936), nhà phân tâm học, chính trị gia, nhà biên tập được đánh giá là gương mặt tiêu biểu trong phong trào phụ nữ cuối thế kỉ XX. Bà khẳng định khuynh hướng khác biệt của mình với tác phẩm Có hai giới tính : lý luận về khoa học phụ nữ (1989-1995) nói về những điều kiện của phụ nữ và vị trí của họ trong xã hội. Tác phẩm trước hết là một định đề về sự tồn tại của hai giới : « Có hai giới. Đó là một sự thật mà lịch sử cần phải coi đó là nguyên tắc thứ tư, bên cạnh nguyên tắc tự do, bình đẳng và bác ái ». Fouque nhấn mạnh rằng phần lớn các quan điểm triết học đều khẳng định sự khác nhau cơ bản mang tính tự nhiên giữa nam và nữ. Nhân loại gồm hai giới phân biệt trong đó một giới đã bị lãng quên. Cũng giống như S. de Beauvoir, Fouque cho rằng coi thường phụ nữ là một vấn đề lịch sử phổ quát. Vị trí thấp kém của người phụ nữ do xã hội quy định, không phải là một quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa Beauvoir và Fouque là ở chỗ theo Fouque, người ta có thể đạt đến sự bình đẳng bằng cách đưa ra những khác biệt của phụ nữ so với đàn ông. Bà đặc biệt nhấn mạnh đến tính từ « cái » (femelle) để bày tỏ quan điểm tạo hoá ban tặng cho người phụ nữ những thiên chức đặc biệt mà người đàn ông không thể nào có, trong đó có thiên chức làm mẹ. Bà khẳng định : « Cơ thể người mẹ, bộ phận tử cung là môi trường đầu tiên của một con người. Dù sinh ra là con gái hay con trai thì người đàn bà vẫn là nguồn thương yêu đầu tiên. » Coi phụ nữ như một người đàn ông là đã « làm khô cằn người phụ nữ, làm nghèo đi một phần của nhân loại ». Lần đầu tiên khoa học phụ nữ, ngành phụ khoa được nêu lên nhằm giúp đỡ những người phụ nữ đảm bảo những đặc trưng nữ tính của mình. Đồng thời, Fouque lên án mạnh mẽ thuyết phân tâm học của Freud trong đó ông nhìn người phụ nữ như loại người thứ hai sau đàn ông. Lý thuyết của ông tôn thờ biểu tượng dương vật, biểu tượng của mọi sức mạnh. Theo ông, một con người sinh ra đầu tiên đã cơ bản hình thành là nam ; một số cơ thể phát triển đầy đủ với bộ phận dương vật. Số còn lại không hình thành dương vật sẽ là nữ. Như vậy, phụ nữ chỉ là một người đàn ông bị thiến không có dương vật. Họ bị xem như một sinh thể thiếu hụt, không đầy đủ và vì thế luôn có tâm lý « thèm muốn dương vật ». Bộ phận sinh dục nam hướng ra phía ngoài bản thân đã mang theo sự độc lập chủ động, ngược lại phần sinh dục nữ hướng nội vì vậy nên bị động và luôn phải phụ thuộc vào nam giới. Phủ nhận ý kiến trên, Fouque khẳng định phụ nữ cũng là một con người hoàn chỉnh như đàn ông bằng cách nhấn mạnh đến những bộ phận sinh dục nữ như dạ con, tử cung và tâm lý « thèm muốn tử cung » của đàn ông. Cơ thể đàn bà không những là đối tượng gây khoái cảm cho đàn ông mà mặt khác còn là nơi chứa đựng và nuôi dưỡng sinh thể con người : « Việc đàn bà mang thai và sinh nở không phải là việc hướng về « phía sau », họ lao động, mang theo, họ ở cùng và đón nhận một cơ thể sắp ra đời. Như vậy, họ không hướng về phía bên trong cơ thể mà thu nhận một cơ thể ban đầu vào cơ thể mình, để rồi đưa nó ra phía trước và ra bên ngoài bằng việc sinh ra nó ». Tác phẩm Có hai giới tính : lý luận về khoa học phụ nữ còn là nền tảng cho phụ nữ luận bởi tính chính trị xã hội của nó. Tác phẩm lên án tình trạng bạo lực đối với người phụ nữ. Ở Pháp, trung bình mỗi năm có một người phụ nữ bị giết và 4000 phụ nữ bị cưỡng hiếp. Tác phẩm lên án ngày làm việc đúp của người phụ nữ : làm việc ở cơ quan và nội trợ trong gia đình ; tố cáo tình trạng chênh lệch tiền lương giữa nam và nữ… Sự xuất hiện của tác phẩm này cũng kéo theo sự ra đời của hàng loạt các cơ quan vì mục đích bảo về quyền lợi của phụ nữ : tổ chức Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ - MLF (1968), Nhà xuất bản Phụ Nữ (1974) cùng với sự ra đời cùa những tủ sách Phụ Nữ, Thời Đại của Phụ Nữ… ở các nhà xuất bản Paris. Về vấn đề bình đẳng giới, Fouque cho rằng điều quan trọng không phải là hoán vị vai trò của nam và nữ mà cần phải có sự trao đổi, chia sẻ giữa hai giới. Đề cao phụ nữ, nhưng bà không có cái nhìn thù hằn với đàn ông, bà vẫn nhận ra được những chức năng và vai trò của đàn ông trong quan hệ giữa nam và nữ. Tuy nhiên, nhận định ấy vẫn còn hạn chế vì khuynh hướng chính của Fouque vẫn là tôn thờ hình tượng đàn bà, cho rằng đây mới chính là tuyệt tác của tạo hoá.
Gương mặt quan trọng thứ hai của xu hướng khác biệt là Hélène Cixous (1937). Sự nghiệp sáng tác mới bắt đầu cách đây bốn mươi năm, Cixous đã có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với khoảng năm mươi đầu sách chủ yếu được xuất bản ở các nhà xuất bản lớn như Grasset, Gallimard, Des femmes và Galilée. Bà còn là nhà soạn kịch với những tác phẩm đã được dàn dựng và trình diễn tại Nhà hát Mặt trời. Bà có 26 sáng tác, 10 tiểu luận và 9 vở kịch cùngnhiều bài báo có giá trị ảnh hưởng lớn. Cixous được coi là nhà văn, nhà phê bình lý luận lớn nhất hiện còn sống trong làng văn học Pháp. Với những tác phẩm văn học giàu tính trí tuệ tiêu biểu là bài viết Tiếng cười của nữ thần Medusa trênL’Arc số 45 năm 1975, Hélène Cixous khẳng định một tính cách phụ nữ điển hình. Bà phê phán những luận điểm của Simone de Beauvoir. Với quan điểm trung hoà, người phụ nữ không tồn tại vì « phụ nữ là một người đàn ông như bao người khác » (Beauvoir, Giới thứ hai, 1949). Như vậy cũng có nghĩa là giá trị của nữ giới đã bị hạ thấp. Ảnh hưởng bởi thuyết phân tâm học, những tác phẩm văn học của bà đồng thời cũng là những nghiên cứu về sự khác biệt giới tính, đề cao những đặc trưng nữ tính. Phong cách rất chau chuốt, đầy bất ngờ xoay quanh đời sống thể xác nhạy cảm của người phụ nữ và mô tả nó như một hình ảnh huyền bí. Bà nhấn mạnh xu hướng văn học thể xác của mình khi khẳng định : « Thể xác này là của bạn, hãy nắm lấy nó » (Tiếng cười của nữ thần Medusa, 1975). Văn chương xuất phát từ thể xác và phụ nữ viết bằng thể xác của mình : « phụ nữ là những thể xác. Không còn thể xác thì không còn văn chương ». Bà đi ngược lại văn học lý lẽ bởi lý lẽ là một quyền lực điển hình của đàn ông mà họ dùng để đàn áp phụ nữ. Không theo một chuẩn mực, quy định nào về lý lẽ, Cixous thể hiện quan điểm bằng lối viết hóm hỉnh với nghệ thuật chơi chữ phong phú. Mặt khác bà còn bày tỏ những suy nghĩ về ý nghĩa và khó khăn khi người phụ nữ viết, một trong những hoạt động mà bà coi là góp phần to lớn cho phong trào đấu tranh giải phóng phụ nữ. Bà lên án những quan niệm cuối thế kỉ XIX về văn học nữ quyền như là một sự quá đà, một dòng văn học què quặt. Bà khẳng định khả năng nghiên cứu, sáng tạo của người phụ nữ, đề cao giá trị thẩm mĩ của văn học nữ và kết luận rằng phụ nữ không phải là nhà văn loại hai sau đàn ông. Hélène Cixous quan niệm viết văn là một hoạt động nghệ thuật mở mang tính xã hội sâu sắc, phụ nữ cần phải viết về phụ nữ để khuyến khích những người phụ nữ khác viết : « Tôi viết về phụ nữ : phụ nữ cần phải viết về phụ nữ như đàn ông đã viết về đàn ông » (Tiếng cười của nữ thần Medusa, 1975). Văn chương cũng là một vũ khí quan trọng trong công cuộc giải phóng phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ phải dùng cây bút để đấu tranh tư tưởng, giải phóng chính mình và giải phóng cho nữ giới nói chung.
Duras giữa xu hướng khác biệt và thuyết đàn ông lý tưởng
Marguerite Duras là bút danh của nhà văn, nhà biên kịch Marguerite Germaine Marie Donnadieu (1914-1996). Sự nghiệp của bà nổi tiếng bởi sự phong phú trong các loại hình sáng tác nghệ thuật. Bà có những đổi mới trong thể loại tiểu thuyết, hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh, sân khấu kịch với vai trò là người viết lời thoại, nhà biên kịch, đạo diễn.
Có nhiều ý kiến tranh cãi giữa việc xếp Marguerite Duras vào dòng văn học nữ hay văn học nữ quyền bởi bề ngoài có vẻ như tính chiến luận trong các tác phẩm của bà không rõ ràng. Tuy nhiên những quan điểm theo chủ nghĩa phụ nữ luận, những phê phán về sự khinh miệt phụ nữ được thể hiện một cách hàm ẩn, tinh tế trong các tác phẩm của bà. Chủ nghĩa nữ quyền được diễn đạt gián tiếp qua các sáng tác chứ không trực tiếp là các tiểu luận sắc bén như một số các tác giả nữ khác.
Duras vẫn giữ nguyên hình ảnh phụ nữ truyền thống, đó là người phụ nữ ở nhà, chăm sóc con cái. Các nhân vật nữ chính kết hôn mà không hề có tình yêu, phải chịu một nhịp sống đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác đến mức chán nản, tuyệt vọng. Và ngoại tình được xem như là biểu hiện duy nhất của sự phản kháng, sự trả thù của họ. Tuy nhiên những mối tình vụng trộm ấy cũng chỉ giới hạn trong cuộc sống riêng tư của người phụ nữ, không được nhấn mạnh với giá trị phê phán có phạm vi trên toàn xã hội. Bên cạnh hình ảnh người vợ trong gia đình, nhân vật người đàn bà ăn mày cũng được khắc hoạ khá rõ nét trong một số tác phẩm của Duras đặc biệt là trong cuốn Ngài phó lãnh sự. Hình ảnh người mẹ luôn bị phê phán bởi theo bà chính người mẹ cũng có một phần trách nhiệm trong bi kịch của cuộc đời người con gái, người đàn bà điên ăn mày. Người mẹ giáo dục con gái phải tuân theo những thiết chế cố hữu của xã hội như cái gọi là chân lý về vị trí thấp kém của phụ nữ so với đàn ông, về cái gọi là phẩm hạnh giam hãm người đàn bà… Cũng chỉ vì cái khung của phẩm hạnh và các giá trị đạo đức mà xã hội áp đặt cho phụ nữ mà người mẹ sẵn sàng đuổi con gái mình đi vì tội chửa hoang, đẩy người con gái đó vào cuộc sống khốn cùng của kẻ ăn mày. Người đàn bà ăn mày đó sinh ra một đứa bé gái, cái đói đã khiến bà ta phải bỏ rơi đứa bé sau khi nghĩ cả đến việc giết đứa con của chính mình. Đến lượt chính bà lại gây nên bất hạnh cho con gái mình. Như vậy, không chỉ có người đàn ông phải chịu trách nhiệm cho nỗi khốn cùng ấy mà cũng có phần của người mẹ. Nói cách khác, nỗi khổ của người phụ nữ cũng chính là do người phụ nữ tạo nên từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khuynh hướng khác biệt của Duras thể hiện ở những quan niệm về thân xác của các nhân vật nam và nữ. Phần lớn các nhân vật nữ đều là những người mẹ bởi họ đang thực hiện thiên chức cơ bản của đàn bà. Duras ca ngợi sự sinh nở, cơ thể người phụ nữ cũng chính là một nơi chốn mà không bao giờ có ở đàn ông. Về mặt trí tuệ, Duras khẳng định sự khác biệt trong lối viết văn của hai giới. Nếu như đàn ông viết theo lý thuyết, theo chuẩn mực thì đàn bà viết bằng lòng ham muốn : « Đàn ông là con cừu, đàn bà là kẻ điên » (Những người đàn bà ba hoa, 1974). Phụ nữ luôn có xu hướng bứt phá, điên loạn. Từ đó, bà hướng tới một luận điểm mang tính chính trị : tương lai là của phụ nữ, nam tính chỉ là một thứ bệnh tật, đàn ông như một loài đang dần tuyệt chủng cho phụ nữ lên ngôi. Điều này giải thích vì sao các nhân vật nam trong tác phẩm của Duras đều phần lớn mang những đặc điểm nữ tính. Tuy nhiên, khuynh hướng khác biệt này không đi đến tận cùng với sự thù ghét đàn ông, bà khẳng định : « Chúng ta yêu cái phần ngược lại của chúng ta, yêu phương thuốc của chúng ta, yêu địa ngục của chúng ta » (Suzanna Andler, 1982). Văn học của Duras còn là một sự kiếm tìm hình mẫu người đàn ông lý tưởng. Hình mẫu ấy chỉ thực sự xuất hiện qua hình ảnh nhân vật Joseph trong Đập ngăn Thái Bình Dương, một người đàn ông đẹp, khoẻ mạnh, rắn rỏi, dũng cảm, khéo léo, hiên ngang, không chịu khuất phục đến mức xấc xược. Đó là một người thợ săn hung bạo trong rừng, khi săn các con thú nhưng cũng là người đàn ông dịu dàng biết chinh phục và yêu thương phụ nữ. Nhưng hình ảnh người đàn ông ấy chỉ xuất hiện duy nhất một lần. Những nhân vật nam khác trong các tác phẩm của Duras sau này đều thiếu hụt. Hoặc đó là người đàn ông thô bạo, trịch thượng, luôn ở tư thế của kẻ sở hữu trong mối quan hệ với phụ nữ và trong quan hệ tình dục họ luôn là kẻ chủ động. Hoặc đó là người đàn ông mang một phần nữ tính về tính cách và ngoại hình : dáng vẻ yếu ớt, tinh thần mỏng manh, bất lực trước sự ngoại tình của vợ thậm chí rơi nước mắt trước những tình huống khó khăn… Bằng cách đó, Duras muốn xoá mờ biên giới giữa hai giới nam và nữ. Nhưng những hình ảnh đàn ông không hoàn hảo ấy đồng thời cũng thể hiện một khát khao tìm kiếm người đàn ông lý tưởng của Duras.
Đi cùng với lịch sử phát triển của chủ nghĩa phụ nữ luận, văn học nữ quyền cũng phát triển và là một vũ khí tư tưởng quan trọng của công cuộc giải phóng phụ nữ hướng tới sự bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của người phụ nữ và vấn đề bình đẳng nam nữ nhưng tất cả các tác phẩm, nghiên cứu trên đều góp phần lật đổ những quan niệm nam quyền ấu trĩ, khẳng định vị trí của phụ nữ trong xã hội đương thời. Về lĩnh vực văn chương, bản thân những tác giả nữ cũng khẳng định trí tuệ, khả năng sáng tạo của họ. Đó cũng là những minh chứng thật nhất về tài năng của người phụ nữ trong văn học và trong các lĩnh vực.
Tài liệu tham khảo :
Barbey d’Aurevilly, Jules Amédée. 2006. Oeuvre critique. II, Les oeuvres et les hommes. Paris : Les Belles lettres. Trang 166-167.
Baudelaire, Charles. 1996. Fusées ; Mon coeur mis à nu ; La Belgique déshabillée. Paris : Gallimard. Trang 99.
Beauvoir, Simone de. 2004. Le Deuxième sexe 1. Paris : H. Champion. Trang 78, 111, 222.
Beauvoir, Simone de. 2004. Le Deuxième sexe 2. Paris : H. Champion. Trang 587, 608, 645.
Duras, Marguerite. 1974. Les parleuses. Paris : Éditions de Minuit. Trang 64.
Duras, Marguerite. 1982. Suzanne Andler ; Des journées entières dans les arbres ; Yes, peut-être ; Le Shaga ; Un homme est venu me voir. Paris : Gallimard. Trang 85.
Fouque, Antoinette. 2004. ll y a deux sexes : essais de féminologie. Paris: Gallimard. Trang I, XXI, 60, 292.
L’Arc. Le rire de la méduse. No 45. 1975.
[1] Từ điển các văn học, Paris : Larousse, 1985, tr.563.
[2] Về vấn đề này, chúng tôi xin tham khảo bài viết : « Dịch và lý thuyết dịch như một hệ hình lý luận, phê bình mới » _ Phạm Quốc Lộc, Lê Nguyên Long in Tạp chí nghiên cứu văn học, số tháng 12/2009.
[3] MLF – Mouvement de Libération des Femmes (phong trào giải phóng phụ nữ)
[4] Agrégée de lettres modernes