Những góc nhìn Văn hoá

Khái lược về kinh tế học di sản

Di sản có nhiều giá trị, bao gồm các giá trị văn hoá, giáo dục, thẩm mỹ, môi trường, xã hội, biểu tượng, chính trị, lịch sử, và nhiềulĩnh vực khác nữa. Trong dài hạn, tất cả các giá trị này có lẽ đều quan trọng hơn giá trị kinh tế. Nhưng như nhà kinh tế vĩ đại người Anh John Maynard Keynes đã từng nói, “Về lâu dài, tất cả chúng ta đều đã chết.” (Keynes, John Maynard 1923: 80).Thực tế là những người có khả năng ảnh hưởng đến những gì xảy ra với các di sản nhưcác chủ sở hữu tài sản, các quan chức chính phủ, các chủngân hàng, các nhà phát triển, các nhà đầu tư, và những người khác nữa,vẫn luônxem xét các hệquả ngắn hạn và, quan tâm một cách hợp thứcđến những phân nhánh kinh tế liên quan. Điều này đúng không chỉ ở các nền kinh tế thị trường đầy đủ như Nhật Bản và Hàn Quốc mà còn ở các nền kinh tế thị trường đangnổi như Ấn Độ và các nền kinh tế cận-thị trường như Trung Quốc và Việt Nam. Vì vậy, khắp nơi ủng hộ bảo tồn di sản nói chung, và một yêu cầu đang trở thành xu hướng là người đứng đầu các thành phố cần phải am hiểu về ngôn ngữ, công cụ, và các phép đo lường của kinh tế học di sản (Rypkema,Donovan 2009).

1. Khái niệm kinh tế học di sản

Kinh tế học di sản nghiên cứu những lợi ích hoặc giá trị mà nó tạo ra và thường được chia thành các giá trị “sử dụng”và giá trị “không sử dụng”. Giá trị sử dụng là những lợi ích thu được từ việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp một di sản. Chúng có thể bao gồm: i) lợi ích tài chính; ii) các đặc trưngthẩm mỹ; iii) cải thiện hình ảnh cộng đồng; iv) cơ hội sử dụng địa điểm di sảncho các mục đích sinh sống, thương mại, du lịch, giải trí hoặc các mục đích xã hội. Các giá trị phi sử dụng là những lợi ích vô hình liên quan đến việc bảo tồn di sản. Đó là: i) Giá trị tồntại: lợi ích liên quan đến tri​​thức màmột địa điểm di sản đã được bảo tồn, ngay cả khi người tiêu dùng không tự mình đến thăm; ii) Giá trịlựachọn: những lợi ích thu được từ việc có quyền lựa chọn vào thăm một địa điểm di sản trong tương lai; iii) Giá trị thừa kế: giá trị thu được từ việc biết rằng một địa điểm di sản có thể được thừa kế cho các thế hệ tương lai (Pagiola, S. 1996); Bennett, J. 2001).Việc can thiệp của chính phủ vào kinh tế di sản nằm trong bản chất lợi ích tổng thể củacộng đồng. Ví dụ, chất lượng thẩm mỹ của mặt tiền di sản của tòa nhà sẽ có giá trị đối với người qua đường cũng như cho chủ sở hữu tòa nhà. Về mặt kinh tế, những lợi ích này là những ngoại ứng dương, tích cực,hay hàng hoá công. Các ngoại ứnglà những hiệu ứng“lan tỏa”từ một giao dịch thị trường ảnh hưởng đến phúc lợi của người khác. Nếu một hiệu ứng lan tỏa mangtính chất lợi ích, chẳng hạn như sự hưởng thụ thẩm mỹ của cộng đồng đối với một tài sản di sản tư nhân sở hữu, thì nó được coilà một ngoạiứng dương. Hàng hoá công cộng là những lợi ích của cộng đồng mà không thể loại trừvà không mang tính kình địch. Điều này có nghĩa là không ai có thể bị loại trừ khỏi việc tiêu dùng và việc tiêu dùngcủangười này sẽ không làm giảm đi việctiêu dùng của người khác. Các giá trịtồn tại, lựa chọn và giá trị thừa kế của di sản mangđặc trưng hàng hóa công cộng.Nan đềđược thể hiệnbởi hàng hóa có ngoại ứng dươnghoặc các đặc trưng hàng hóacông cộng làở chỗnhững ngườicó quyền lợi được hưởng lợi thì lại không được chi trả. Nói cách khác, các nhà cung cấp không có cách nào để khôi phục toàn bộ chi phí cần thiết để cung cấp sản phẩm tốt ở mức tối ưu về mặt xã hội. Khi chi phí và lợi ích cá nhân không phản ánh được các chi phí và lợi ích xã hội, sẽ có sự thất bại của thị trường. Những hàm ý của điều này có thể là tình trạngcung cấp hàng hóa không đầy đủ. Ví dụ, chủ sở hữu bất động sản có thể phá hủy tòa nhà di sản nếu chi phí liên quan đến thời gian bảo trì vượt quá lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, quyết định này không tính đến những lợi ích xã hội rộng lớn hơn,có được từ việc xây dựng di sản. Trong trường hợp đó, cần phải có sự can thiệp của chính phủ (Mourato, S. & Mazzanti, M. 2002).

 

Các di sản xây dựng có nguy cơ lớn nhất trong hai trường hợp: 1) khi không có tiền; và 2) khi có rất nhiều tiền. Cả hai tình huống thường kết thúc bằng việc mất nguồn tài nguyên di sản hoặc mất đi đặc trưngthiết yếu, chất lượng và tính xác thực của các nguồn lực di sản còn lại. Khi không có tiền thì hạng mục ngân sách đầu tiên bị cắt giảm (cho dù tài sản di sản nằm trong tay của khu vực công hay tư nhân) là bảo trì (Pereira Roders, A., 2010). Rắc rối với việc duy trì bảo dưỡng là nó làm tăng chi phí phục hồi di sản về phương diện vật chất. Và các khoản chi phí cao này thường đặt các hoạt động phục hồi vào danh mục “không khả thi”đối với cả khu vực tư nhân cũng nhưkhu vực công. Những hậu quả trực tiếp nhất của việc thiếu bảo trì là giảm giá thăm nom, thuê mướnvà tăng số lượng chỗ trống (hoặc cư chiếm bởi những người không phải trả tiền thuê). Giá thăm nom, thuê mướnthấp hơn và gia tăng vị trí bỏ trống góp phầnlàm giảm giá trị tài sản. Khi các giá trị rơi xuống một cấp độ nhất định thì đơn giản là tài sản di sản sẽ bị bỏ rơi. Tài sản bị bỏ rơi đồng nghĩa với việckhông có thu nhập thuế cho chính quyền địa phương, không đủ điều kiện cho các khoản vay được đảm bảo bằng tài sản và có ảnh hưởng xấu đếngiá trị của các công trìnhgần kề. Các tài sản bị bỏ rơi thường làm tăng thêm tính chất phức tạpvề quyền vàquyền sở hữu tài sản, và làm giảm đi mốiquan tâm củachủ sở hữu tiềm năng khác trong việcquản lý, phục hồi và tái sử dụng di sản. Hơn nữa, các tài sản bị bỏ rơi thường tạo ra cácmối đe dọa an toàn công cộng với các tình trạngsụp đổ các công trình kiến trúc, cháy, tội phạm, và các vấn đề sức khỏe cộng đồng.(Pereira Roders, A. and Van Oers, R., 2012).Vì vậy, phải đối mặt với một vấn đề disản được xem là một sự phiền toái công mà nếu không có giá trị kinh tế, thì disản cuối cùng bị phá hủy, thường là do bỏ bê, mất đi tính toàn vẹn của kiến ​​trúc và công trìnhcho đến khi không gì có thể cứu vãn được. Trong các trường hợp khác, thành phố, cơ quan hoặc chủ sở hữu khác có các tòa kiến trúc đã bị hủy hoại sẽ cắt giảm chi phí lưu giữ, giảm trách nhiệm tiềm tàng và rủi ro cho di sản tăng lên. Trong cả hai trường hợp đó thì thành phố hoặc địa phương sẽ chỉ còn lại những bộ phận công trình di sản rất ít giá trị. Ở các thành phố châu Á khác (cũng như các thành phố trên toàn cầu) vẫn tồn tại tình hình ngược lại. Vì khicó sự gia tăng mức độ thịnh vượng trong nước và / hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài, các thành phố di sản sẽ trở thành khốinam châm thu hút các khoản đầu tư lớn. Thông thường các khoản đầu tư này làtừ khu vực tư nhân, cũng như từ các tổ chức khác đang phát triển mạnh như các đại học và các cơ sở y tế (Turner, M., Pereira Roders, A. & Patry, M., 2012).


2. Định giá lợi ích


Chỉ có sự thất bại của thị trường mới không thể biện minh cho sự can thiệp của chính phủ. Chi phí can thiệp của chính phủ không được vượt quá các lợi ích xã hội gia tăngmà họ muốn tạo ra. Phân tích chi phí - lợi ích của các lựa chọn chính sách đòi hỏi phải xác định và định lượng các chi phí và lợi ích. Bản chất phi vật thể của nhiều lợi ích liên quan đến di sản hàm nghĩakhông thể để thị trường chiếm đoạt các lợi ích đó. Kết quả là chúng không thể được định giá bằng các kỹ thuật định giá thị trường thôngthường. Để đáp ứng tình trạng tiến thoái lưỡng nan tương tự trên thị trường hàng hoá môi trường, các nhà kinh tế học đã phát triển các kỹ thuật định giá phi thị trường để định lượng những hàng hóa tồn tại bên ngoài thị trường. Các kỹ thuật này nhằm mục đích thể hiện giá trị của hàng hoá phi thị trường theo nguyện vọngsẵn sàng chi trả của người tiêu dùng (WTP - willingness to pay) để được cung cấp các sản phẩm tốt. Các kỹ thuật định giá phi thị trường có thể được phân loại thành các kỹ thuật sở thíchbộclộ(revealed preference techniques) và các kỹ thuật sở thíchtuyên bố (stated preference techniques) (Productivity Commission, 2006).

 

2.1. Các kỹ thuật sở thích bộc lộ

 

Lý thuyết sở thíchbộclộ (revealed preference theory) được Paul Samuelson, nhà kinh tế học Mỹ đưa ra vào năm 1938, cho rằng những sở thích (hoặc ưu tiên)của người tiêu dùng có thể được bộclộ bằng những gì họ mua trong các hoàn cảnh khác nhau, đặc biệt là ởcác mức thu nhập và giá cả khác nhau. Lý thuyết này cho rằngnếu một người tiêu dùng mua một góihàng hoá cụ thể, thì gói đó được gọi là “bộc lộ sở thích”, căn cứ vàomức thu nhập và giá cả ổn định, cho bất kỳ gói hàng nào khác mà người tiêu dùng có thể mua được. Bằng cách thay đổi thu nhập hoặc giá cả hoặc cả hai, người quan sát có thể suy ra một mô hình đại diện cho các sở thích của người tiêu dùng (Samuelson, P. 1938).Các kỹ thuật sở thíchbộclộ gợi ýgiá trị của một hàng hóa phi thị trường bằng cách kiểm tra hành vi trong quá khứ đối với các hàng hóa thị trườngcó liên quan. Hai kỹ thuật sở thíchbộc lộ phổ biến nhất là định giá hưởng thụchi phí đi lại.Địnhgiá hưởng thụdựa trên ý tưởng cho rằng giá trị của một hàng hóa thị trường tốt sẽ được đóng góp bởi một số thuộc tính có thể bao gồm các hàng hoá phi thị trường. Việc định giá nhà là loại thị trường ủy nhiệmđược sử dụng phổ biến nhất cho phương pháp này, thường được sử dụng để tính toángiá trị của hàng hoá môi trường liên quan chẳng hạn như công viên và các khu dự trữ sinh quyển. Giá nhà cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tài sản di sản lân cận. Một mô hình đơn giản của loại kỹ thuật này có thể được ấn địnhnhư sau:Giá = kích cỡ+ tuổi + vị trí + các thuộc tínhdi sản. Bằng cách giữ cho các biến sốkhác không đổi, thì có thể ước tính được sựđóng góp của di sản gần đó đối vớigiá nhà. Đây là giá ẩn, hoặc đo lường bằng nguyện vọng sẵn sàng chi trả (WTP)cho di sản. Rõ ràng, phương pháp này đòi hỏi các dữ liệu chi tiết về việc định giá nhà và các thuộc tính liên quan của nó và do đó có thể mấtnhiều thời gian và chi phí tốn kém. Hơn nữa, nó chỉ giữlại những giá trị di sản thể hiện trong giá nhà. Phương pháp này loại trừ các giá trị không sử dụng và giá trị thăm quan.Phương pháp tính chi phí đi lại, thường được sử dụng để đánh giá các địa điểmdu lịch, xuất phát từnguyện vọng sẵn sàng chi trả của khách hàng chochi phí đi lại để thăm quan một địa điểm nhất định. Chi phí đi lại không phải là giá WTP, nhưng lại được kết hợp với dữ liệu về số lượt thămquan bình quân đầu người để tạo đường cầu cho các chuyến viếng thăm địa điểm, để căn cứ vàođó có thể ước tính thặng dư tiêu dùng, hoặc WTP. Phương pháp này dựa trên giả định rằng địa điểmnày đáng để khách đến thăm quanvà việc đi lại được thực hiện với mục đích duy nhất là thăm quan nơi đó. Do đó, việc ứng dụng phương pháp nàyvào các địa điểmdi sản chỉ giới hạn ở những địa điểmthường xuyên tiếp đón khách thăm. Tuy nhiên, ngay cả đối với cáctrường hợp ấy, thì phương pháp này cũng chỉ thu thập được các giá trị vềkhách thăm. Mặc dù các kỹ thuật sở thíchbộc lộ có lợi ích dựa trên dữ liệu từ các thị trường thực tế, nhưng tính ứng dụng của nóđối với di sản lạirất hạn chế (Wong,Stanley1978; Driml, S. 2002).


2.2. Các kỹ thuật sở thích tuyên bố

Các thí nghiệm sử dụng sự lựa chọn giả thuyết đã được sử dụng trong nửa đầu của thế kỷ này nhằm nâng caosự hiểu biết về lý thuyết tiện ích. Tuy nhiên, cho đến đầu những năm 1970, phương pháp thay thế để quan sát sở thích người tiêu dùng trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường, cho mục đích thương mại vẫn chưađược phát triển. Ví dụ đầu tiên của các thí nghiệm sử dụng những giả thuyết này đãđược Davidson (1973) và Louviere, J., Meyer, R., Stetzer, F., & Beavers, L. (1973)tìm ra. Năm 1978, định nghĩa chính thức về các loại kỹ thuật đánh giá này đã được đề xuất: “Bất kỳ phương pháp phân tíchnào ước tính cấu trúc sở thíchcủa một người tiêu dùng...dựa vào sự đánh giátổng thể về một tập hợp các lựa chọn thay thế được xác định trước về mức độ của các thuộc tính khác nhau”. Từ đầu những năm 1980, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực vận tải đã sử dụng phương pháp này, và ở châu Âu phương pháp này được gọi là “các kỹ thuật sở thích tuyên bố”(Green, Paul E and V. Srinivasan 1978).Kỹ thuật này đã trở thành một thuật ngữ phổ biến, chủ yếu là vì sự tương phản rõ ràng mà nó mô tả so với các “kỹ thuật sở thíchbộclộ”. Steer &Willumsen (1981) và Sheldon &Steer (1982) đã xuất bảnmột số ấn phẩm đầu tiên giới thiệu việc sử dụng kỹ thuật này trong ngành giao thông.

 

Trước năm 1983, điểm nhấn của các kỹ thuậtsở thích tuyên bốlà các nhiệm vụ đánh giá, trong đó người trả lời được yêu cầu xếp hạng hoặc đánh giá một số thuộc tính hỗn hợp liên quan đến bốicảnh lựa chọn cụ thể. Tuy nhiên, chỉ đến khi tiểu luậncủa Louviere &Hensher (1983) đượccông bố thìcác kỹ thuật sở thích tuyên bốmới trở nên có tiếng tăm. Bài viếtcủa Louviere và Hensher đã nhấn mạnh việc sử dụng các thựcnghiệmsở thích tuyên bố, kết hợp với các thựcnghiệm lựa chọn.Dữ liệu được tạo ra từ loại khảo sát này chứng tỏ rất dễ dàngphân tích và cho phép dự đoán được thị phần lớn hơn.Các kỹ thuật sở thích tuyên bốđã được phát triển để đáp ứng với những hạn chế của kỹ thuật sở thíchbộclộ. Các kỹ thuật này giả địnhhành vi tiêu dùng tương lai đối với bản thân hàng hóa phi thị trường bằng cách khảo sát sở thích của người tiêu dùng. Hai kỹ thuật sở thích tuyên bốphổ biến nhất là định giá ngẫu nhiênmô hìnhhóalựa chọn. Các khảo sát định giá ngẫu nhiên yêucầu người tiêu dùng tuyên bốWTP của họ để cung cấp một loại hàng hóacông cộng. Các kịch bản giả địnhđược xuất trình bao gồm bản mô tả về hàng hoá được cung cấp và phương tiện thanh toán. Việc đánh giá ngẫu nhiên rất linh hoạt đối với loại hàng hoá mà nó có thể được sử dụng để đánh giá, nhưng độ tin cậy lạiphụ thuộc vào việc thiết kế khảo sát có cơ sở vững chắc.Trước hết, mặt hàng cần định giá, đối với người tiêu dùng, đòi hỏi phải dễ nhận ra và phải dễ hiểu. Cần phải rõ ràng về việc hàng hóa sẽ được cung cấp như thế nào và ai cung cấp. Thứ hai, khi xác định phương tiện thanh toán, cơ chế loại trừ là rất quan trọng, theo đó mức cunghàng hoá di sản liên quan đến việc thanh toán của cá nhân như thuế hoặc phí vào cửa (Navrud & Ready 2002, tr.22). Nếu không có liên kết như vậy, thì sẽ không có sự đánh đổigiữa sự thịnh vượngcá nhân và mức độ tiêu thụ hàng hóa có thể được quan sát thấy. Hành vi hiến tặng, chẳng hạn, không bộclộ những sở thích thực sự khi người tiêu dùng có thể chọn “hưởng thụ miễn phí”các khoản thanh toán của người khác. Thứ ba, cuộc khảo sát phải được xây dựng theo cách giảm thiểu khả năng phản ứng thiên vị. Ví dụ, nếu người trả lời tin rằng họ thực sự sẽ phải thanh toán tiền mua hàng thì họ có thể tuyên bố dưới mứcWTP của mình. Ngược lại, nếu tin rằng mìnhsẽ không phải trả tiền, thì họ có thể tuyên bố trênmức WTP của mình.Các nghiên cứu mô hình hóa lựa chọn yêu cầu người tiêu dùng lựa chọn giữa các mô tả giả thuyết khác nhau vềhàng hoá. Mỗi mô tả hoặc “bộ lựa chọn”được phân biệt bởi các thuộc tính và cấp độ của nó. Một ví dụ đơn giản về các bộ lựa chọn trong một cuộc khảo sát mô hình lựa chọn có thể như dưới đây:

 

 

Lựa chọn A

 

Lựa chọn B

Số địa điểm được bảo tồn

Cao

Trung bình

Điều kiện bảo tồn các địa điểm

Trung bình

Cao

Tiền thuế hàng năm

$10

$20

 

Vì vậy, những người được hỏi phải thực hiện việc đánh đổi giữa các thuộc tính khác nhau - trong trường hợp này là số lượng và chất lượng của các di sản. Bằng cách bao gồm một thuộc tính tiền tệ, cũng có thểsuy racác giá trị.Lựa chọn mô hình hóa cũng phải đối mặt với cùng một kỹ thuật khảo sát khó khăn như định giá ngẫu nhiên và các bộ lựa chọn có thể đặc biệt phức tạp cho người trả lời hiểu được. Tuy nhiên, nó loại bỏ tiềm năng thiên vị vốn có trong việc trực tiếp tạo ra WTP. Việc sử dụng các kịch bản đa tính năng mang lại dữ liệu phong phú hơn và tiết kiệm chi phí hơn bằng cách cung cấp không chỉ một ước tính giá trị mà còn là một mối quan hệ chức năng giữa các cấp độ thuộc tính. Do đó, mô hình lựa chọn có thể được sử dụng để ước tính các sở thích của người tiêu dùng theo các kịch bản chính sách phức tạp và thực tế hơn. Một cuộc điều tra năm 2005 cho thấy chỉ có 33 nghiên cứu, hầu hết sử dụng định giá ngẫu nhiên (Economics for the Environment Consultancy, 2005). Đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực kinh tế môi trường thông qua phép thử - sai liên tục trong việc ứng dụng thực tế của các kỹ thuật này. Cần có các nghiên cứu sâu hơn về những cách thức ứngdụng vàobối cảnh di sản.

 

3. Nhận thức về chi phí

 

Các phương pháp hiện tại để xác định địa điểm di sản lịch sử cho việc liệt kêtheo luật định tập trung vào những lợi ích mà cộng đồng mong muốn. Thông thường, người ta ítxem xét các chi phí được áp đặt đối với chủ sở hữu hoặc cộng đồng nói chung (Productivity Commission (2006). Việc phân tích chi phí - lợi ích của các lựa chọn ra quyết định liên quan đến di sản sẽ đòi hỏi không chỉ phép định lượng các lợi ích vô hình, mà còn phải xem xét các chi phí nữa. Chi phí quản lý của chính phủ khá dễ xác định. Các chi phí tuân thủ không rõ ràng, và thường liên quan đến việc sử dụng các công cụ chính sách điều tiết (chẳng hạn như liệt kê theo luật định) và cũng có thể là các khoản chi phí minh bạchhoặc chi phí cơ hội không minh bạch. Các chi phí minh bạchphải tuân thủbởi danh sách di sản có thể bao gồm yêu cầu thực hiện công việc bảo dưỡng bổ sung với sự trợ giúp của các nhà phục chếvà các nhà khảo cổ, cũng như gánh nặng hành chính lớn hơn. Chi phí cơ hội là những cơ hội (thường là những phát triển tiềm năng của disản) buộc phải bỏ quađể giữ tài sản di sản ở dạng hiện tại của nó. Cộng đồng cũng như các chủ sở hữu tư nhân phải gánh các chi phí này bởi nhữngcơ hội bị bỏ qua có thểcónhững lợi ích xã hội lớn hơn - ví dụ như, một công trìnhdi sản được chuyển thành một khu thương mạichẳng hạn (Rypkema, D. 2006).Về vấn đề xác định các chi phí, Throsby (1997:23) ghi nhận rằng rất khó để xác định liệu các khoản chi tiêu riêngcó thể được thực hiệnbất chấpcác yêu cầu pháp lý hay không. Các công trình di sảnlâu đờihơn thường đòi hỏi chi phí phải bảo dưỡng cao hơn so với những công trìnhít lâu đời hơn, bất kể vị thế di sản của chúng. Khi kiểm tra chi phí cơ hội, Rypkema (2006:13) lưu ý rằng chỉ vì một chủ sở hữu di sản không thể đạt được “lợi nhuậntối đa”trên tài sản của họ, không có nghĩa là họ không thể đạt được khoản “lợi nhuận hợp lý”. Do đó, khó khăn là ở chỗ xác định mức “chi phí”nào có thể thích hợp với một địa điểm di sản nhất định. Cần phải có hiểu biết tốt hơn về chi phí do các công cụ chính sách khác nhau đòi hỏitrước khi có thể phân tích chi phí-lợi ích chính xác.


4. Lồng ghép phân tích chi phí - lợi ích vào việc ra quyết định


Một mục tiêu rõ ràng cho vấn đề kinh tế học di sản là việc chọn lọc kỹ càngcác phương pháp được sử dụng để đo lường chi phí và lợi ích của việc bảo tồndi sản. Đặc biệt, chúng có thể được áp dụng như thế nào đối với các kịch bản chính sách cụ thể và cách thứccó thể đáp ứng nhiều yêucầu khác nhaucủa các cơ quan trung ương. Một cản trở chính đối với việc áp dụng các cách tiếp cậnlà thiếu các bộ dữ liệu toàn diện và nhất quán về di sản. Trong việc xem xét các phương pháp luận, mục tiêu thứ hai có thể là xác định những dữ liệu nào cần cho việcphân tích chi phí lợi ích của di sản và cách thức thu thập các dữ liệu đó. Mục tiêu cuối cùng là xác định cách phân tích chi phí lợi ích có thể được lồng ghép vào quá trình ra quyết định. Khi nào thì cần phải sử dụng cách tiếp cận định lượng phù hợp và khi nào thì nên kết hợp với các đánh giá định tính? Vì hầu hết các di sản đều nằm trong phạm vi quản lýcủa các chính quyền địa phương, nêncần phải chú ý đặc biệt đến tính khả thi của việc phân tích chi phí - lợi ích ở cấp địa phương. Các kỹ thuật định giá được thảo luận có thể đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn là thực tế giải trình cho mỗi quyết định. Một giải pháp được xem xéttrong lĩnh vực kinh tế môi trường là chuyển giao lợi ích, theo đó các giá trị của một hàng hóaphi thị trường được “chuyển giao”sang loại hàng hoá khác có cùng các thuộctính. Các nhà tư vấn kinh tế học môi trường cho rằng phạm vi hạn chế đối vớikỹ thuật này trong việc ra quyết định liên quan đến di sản hiện nay là do thiếu các nghiên cứu định giá di sản hiện tồn(Economics for the Environment Consultancy, 2005: 9). Một lần nữa, điều này cho thấy sự cần thiết phải áp dụng thêm các kỹ thuật định giá phi thị trường đối với các di sản.

 

5. Kết luận

 

Phân tích kinh tế về di sản cung cấp một số hiểu biết có giá trị về bảo tồn di sản nói chung. Việc nhận thức về sự thất bại của thị trường đối với lĩnh vực di sản không chỉ đòi hỏi phảităng thêm sự can thiệp của chính phủ vào việc bảo tồn di sản, mà còn có thể giúp cho việc can thiệp có thể đạt được cácmục tiêu tốt hơn. Đòi hỏi tiếp theo đối với kinh tế học di sản là phát triển các công cụ để hiện thực hóacácnhận thứcnày. Việc tiến hành phân tích chi phí – lợi íchcủa các lựa chọn chính sách để bảo tồn di sản có thể giúp đảm bảo rằng các di sản đạt được lợi ích ròng bằng cách giải quyết các nguyên nhân cụ thể của sự thất bại thị trường trong lĩnh vực này (Bennett 2000;Mourato & Mazzanti 2002). Điều đóđòi hỏi phải phát triển và áp dụng thêm các kỹ thuật định giá phithị trường, cũng như thông tin tốt hơn liên quan đến cácchi phí di sản, kể cảđối với khu vực tư nhân. Việc đánh giá toàn diện về chi phí và lợi ích của di sản có thể góp phần làm cho hệ thống bảo tồn di sản trở nên hiệu quả hơn.

_________________________________

 

Tài liệu tham khảo

Bennett, J. (2001).Natural Heritage Valuation Methods: Applications to CulturalHeritage’ in Heritage Economics: Challenges for Heritage Conservation and Sustainable Development in the 21st Century, Australian Heritage Commission,Australia.

Davidson J.D., (1973). Forecasting traffic on STOL. Operations Research Quarterly 24: 561-9.

Driml, S. (2002).Travel Cost Analysis of Recreation Value in the Wet Tropics World Heritage Area, In Economic Analysis and Policy, 32(2), pp. 11-26.

Economics for the Environment Consultancy (2005).Valuation of the Historic Environment – the scope for using results ofvaluation studies in the appraisal and assessment of heritage-related projects andprogrammes, Report to English Heritage, the Heritage Lottery Fund, the Department for Culture, Media and Sport and the Department for Transport, United Kingdom.

Green, Paul Eand V. Srinivasan(1978).Conjoint Analysis in Consumer Research: Issues and Outlook. Journal of Consumer Research, 1978, vol. 5, issue 2, pages 103-23.

Keynes, John Maynard (1923). ATract on Money In Reformation. MacMillan and Co., Limited St Martins’ Street, London 1924, pp.80-82.

Louviere, J., Meyer, R., Stetzer, F., and Beavers, L. (1973).Theory, methodology andfindings in mode choice behaviour, Worling Paper No 11, The Institute of Urban andRegional Research, University of Iowa.

Louviere, J. & Hensher, D. (1983). Using discrete choice models with experimental design data to forecast consumer demand for a unique cultural event, Journal ofConsumer Research, 10.

Mourato, S. & Mazzanti, M. (2002).Economic Valuation of Cultural Heritage: Evidence and Prospects.In Assessing the Values of Cultural Heritage, The GettyConservation Institute, Los Angeles.

Navrud, S. & Ready, R. eds.,(2002).Valuing Cultural Heritage: Applying Environmental Valuation Techniques to Historic Buildings, Monuments and Artefacts,Edward Elgar, United Kingdom.

Pagiola, S. (1996).Economic Analysis of Investments in Cultural Heritage: Insightsfrom Environmental Economics, World Bank Staff Paper, Washington DC.

Pereira Roders, A (2010). Revealing the level of tension between cultural heritage and

development in World Heritage cities – part 1”, Proceedings of the IV International Congress oncultural heritage and development co-operation: Cultural Heritage in the new scenarios of progress.Seville: Fundación de las Tres Culturas, pp. 343-351.

Pereira Roders, A. and Van Oers, R. (2012). Editorial: guidance on heritage impact assessments: learning from its application on World Heritage site management. Journal of Cultural Heritage Management andSustainable Development,2(2):1, pp. 104-114.

Productivity Commission (2006).Conservation of Australia’s Historic Heritage Places, Report No. 37, Canberra.

Rypkema, Donovan(2006).Submission to the Draft Report of the Productivity Commission Inquiry into the Conservation of Australia’s Historic Heritage Places, SubmissionDR233, Canberra.

Rypkema, Donovan (2009).The Economics of Heritage, http://www.unescobkk.org/

Samuelson, P. (1938). A Note on the Pure Theory of Consumers' Behaviour.InEconomica,5 (17): 61–71.

Sheldon, R. and Steer, J.K. (1982).The use of conjoint analysis in transport research. Paper presented to the PTRC Summer Annual Conference, London, September, 1982.

SteerJ.K. and L. Willumsen (1981).An Investigation of Passenger Preference Structures. Planning and Transportation Research and Computation Summer Annual Meeting.

Throsby, T. (1997).Seven Questions in the Economics of Cultural Heritage.In Hutter, M. and Rizzo, I. (eds) Economic Perspectives on Cultural Heritage, MacMillan Press,London.

Turner, M., Pereira Roders, A. & Patry, M. (2012). Revealing the level of tension between cultural heritage and development in World Heritage cities – part 2. In Measuring Heritage Conservation Performance, (pp. 124-133). Olinda and Rome: CECI and ICCROM.

Wong,Stanley (1978). The Foundations of Paul Samuelson’s Revealed Preference Theory, Routledge & Kegan.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578312

Hôm nay

2130

Hôm qua

2352

Tuần này

21511

Tháng này

225369

Tháng qua

130677

Tất cả

114578312