Qua hơn 20 đầu sách đã xuất bản (trong đó có 5 cuốn in riêng) và hàng trăm trang bản thảo ông đã hoàn thành nhưng chưa xuất bản hoặc còn dang dở, có thể phân thành bốn mảng chủ yếu: (1)Khảo cứu, giới thiệu về núi sông, danh thắng, phong thổ, lễ hội, làng xã, dòng họ, danh nhân, sự kiện… tiêu biểu của xứ Nghệ; (2) Địa chí, lịch sử… của các địa phương; (3) Tác phẩm Hán Nôm(viết bằng văn xuôi, thơ, phú, câu đối) về địa chí, phong thổ, núi sông...(sưu tầm, biên dịch và khảo chú); (4) Thơ, câu đối, trướng mừng… bằng Hán, Nôm và quốc ngữ.
Điều dễ nhận biết nhất ở các tác phẩm của ông là sự phong phú, tính phát hiện và sự chính xác của tư liệu, cứ liệu. Ngồn ngộn tư liệu, tri thức về núi sông, sự kiện, văn hóa, làng xã, con người… hiện không còn hoặc đã mai một, biến dạng đã được ông kiểm định, khảo chứng và “trưng bày” ra qua từng trang viết, trong đó có những tư liệu quý hiếm, độc bản, riêng có. Trong một cuộc gặp để bàn thảo, thống nhất đề cương cuốn sách chung Đồng vọng tiếng Kiều của “Ba ông Đồ Nghệ” (Vũ Ngọc Khánh, - Võ Hồng Huy - Thái Kim Đỉnh) nhân kỷ niệm 245 năm năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du, Gs. Vũ Ngọc Khánh nói vui: Mình và ông Đỉnh biết gì thì đã viết ra gần hết, còn ông Huy vẫn đang cất riêng cả một “kho” non nước Hồng Lam trong đầu! Quả là rất đáng tiếc vì ông vốn cẩn trọng, cầu toàn nên khá nhiều tư liệu quý về vùng đất, con người xứ Nghệ được ông nhớ, thuộc lòng hoặc ghi chép tản mát đâu đó chưa kịp giới thiệu đã vĩnh viễn theo ông thoát khỏi cõi trần; cá nhân tôi vừa do bộn bề công việc chung – riêng, khi nhận ra việc cần phải ghi chép, ghi âm lại thì cũng là lúc trí nhớ ông bắt đầu suy giảm… Những ai từng và sẽ đọc ông, có thể cảm nhận được giá trị thực sự của những tư liệu, tri thức được trình bày, thầm đặt giả thiết nếu không có ông, và số ít những bạn đồng niên lớp giao thời giữa Nho học – Tây học – Tân học ở Hà Tĩnh, liệu có ai còn biết để viết ra? Khi ông và Nhà nghiên cứu văn hóa (NNC) Thái Kim Đỉnh ra đi, đã có nhiều bài viết nhắc đến hình ảnh những cây cổ thụ ngã xuống để lại cả một khoảng trời trống vắng... Điền dã, phát hiện, tra cứu, khảo chứng,hệ thống lại các tư liệu, cứ liệu vềthời đã qua trên mảnh đất từng được coi là “Địa linh – Nhân kiệt” này, phải chăng đócũng là một lựa chọn hướng đi riêng của ông khi quyết bước vào “nghiệp viết” ở cái tuổi “hưu quan”, lúcđã thảnh thơi trút được gánh nặng quan trường?
Hầu hết các bài viết của ông đều khúc triết, gọn gẽ, có hướngđích khi nêu và giải quyết vấn đề, khác với phong cách thường thấy của người viết địa chí, lịch sử địa phương là tuần tự trình bày, kể chuyện, diễn giải theo tư liệu... Rất nhiều câu hỏi, gợi mở được đặt ra trong tác phẩm của ông, có những vấn đề ông quả quyết đã “xử lí” cơ bản, có những điều còn tồn nghi chưa thể kết luận được thì để ngỏ cho người khác nhưng vẫn khơi gợi ra nhữnghướng đi có thể. Có lẽ đó cũng là lý do ông viết ít, suy nghĩ rất kỹ trước khi đặt bút, có những bản thảo gạch xóa, sửa chữa hàng chục lần. Rất ít thấy những bài viết “trơn tuột” dễ dãi ở ông. Ngoài việc phải có đủ hoặc gần đủ tư liệu, chứng cứ, rồi thẩmđịnhqua tàng thư, thực tiễn một cách chính xác, tỉ mỉ, bài viết của ông thường cố gắng lý giải được một vài vấn đề nào đó mà lịch sử để lại, hoặc trả lời được những câu hỏi khó của tự nhiên, quá khứ, hiện tại…Rú xanh sao gọi rú Hồng/ Hà Vàng sao nước xanh trong tứ mùa; Núi Hồng ai đắp mà cao/ Cái sông Đò Điệm ai đào mà sâu…, nhiều khi, những câu hỏi tưởng chừng như vu vơ “hỏi để mà hỏi” trong dân gian lại thành những gợi ý cho các bài viết. Gọi lại được bao tên núi, tên sông đã chìm lặn vào ký ức; rửa sáng lại bao sự kiện, gương mặt đã lẩn khuất, lu mờ hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm quả là điều không dễ, vì như ông và một số bèbạn giờ hầu hết đã xa cõi tạm, lúc sinh thời thường nói đùa với nhau: sao chúng ta lại “lẩn thẩn” đi chọn cái nghề “đáy biển mò kim”, “bắc thang lên hỏi ông trời”…
Văn phong thanh nhã, nhẹ nhàng mà chính xác, gọn sắc, một văn phong khoa học lại đậm chất trữ tình, đọc không thấy ngán – đó là nhận xét của NNC Thái Kim Đỉnh về cách viết, hành văn của ông. Gần đây, đọc lại các tác phẩm của ông, nhiều lúc tôi cũng ngạc nhiên trước cách lập luận, “lý sự” rất sắc bén và việc dùng câu chữ vừa dung dị, chính xác, nhiều lúc pha chút mượt mà, sinh động, khác hẳn thói quen phải nghiêm cẩn, sang trọng của những người am tường Hán Nôm. Nhớ lại kỷ niệm cách đây gần 20 năm, lúc gia đình chúng tôi còn ở Nghi Xuân, ông đưa một bài viết nhờ tôi gửi báo tỉnh; cậy mình “dân văn chương”, thấy ông viết các địa danh là “Da Lách”, “cầu Dà”, tôi nghĩ chắc viết sai nên chữa lại “Gia Lách”, “cầu Già”; khi báo đăng bài, ông đọc và tức giận lắm, dứ tờ báo ra trước mặt tôi và lẩm bẩm: cái bọn biên tập này cứ tưởng người ta dốt, viết sai chính tả chăng… Tôi ngồi im không dám nhận mình chữa, nghe ông giải thích về nguồn gốc và tên gọi các địa danh mới “ngộ” ra sự nông cạn của mình. Mới biết, chữ nghĩa văn chương dù đã được đào tạo bài bản qua trường lớp cũng chỉ đang dừng ở lớp thao tác kỹ thuật bên ngoài; nền tảng, hồn cốt vẫn phải là vốn tri thức dày dặn bên trong, càng “thâm hậu” càng tự tỏa sáng, hay như câu nói của người xưa - hữu xạ tự nhiên hương…
Chắc chắn là một số công trình, bài viết của ông cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết; đến cả việc chú giải một địa điểm di tích khi biên dịch sách địa chí cổ đôi lúc còn gây ra những hiểu nhầm khác nhau.Khen – chê, bình phẩm, cảm thụ là quyền của mọi người, của độc giả.
Cách đây khoảng 4 – 5 năm, sau khi có chủ trương giao Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh chủ trì thành lập một Ban chỉđạo và Ban Biên tập làm tuyển tập Thái Kim Đỉnh, một số anh em văn nghệ sỹ cũng đề xuất kế hoạch làm tuyển Võ Hồng Huy, ông nói rằng nên ưu tiên làm cho cụ Đỉnh trước. Cuối năm 2015, cuốn đầu tiên trong Tuyển tập Thái Kim Đỉnh được xuất bản, cụĐỉnh mang tặng ông và chính thức thảo luận về việc làm tuyển tập Võ Hồng Huy. Đầu năm 2016, trước đúng một ngày chính hội Chùa Hương – tháng Giêng Đô Đài tháng hai Hương Tích, ông lặng lẽ về vớitrời xanh mây trắng núi Hồng... Nhiều bạn bè bàn về việc nên làm sớm sách tuyển cho ông, cụ Đỉnh đồng ý nhận chủ trì và phần nào đã “dự kiến” đề cương sơ bộ lồng trong một bài viết nhân lễ cúng tuần 100 ngày của ông, Võ Hồng Huy – Nhà leo núi. Không ngờ, đầu năm 2017, cụ Đỉnh cũng đột ngột ra đi…
Vậy là khó khăn đã để lại cho con cháu. Nhưng, sau nhiều nỗ lực của nhiều người, tập I, Non Nước Hồng Lam trong bộ tuyển tập của ông Võ Hồng Huy đã ra đời vào lễ giỗ Đại Tường ông. Tôi tin là Cha tôi và ông Đỉnh ở trên trời cao sẽ vui lòng đón nhận sự tri ân chân thành này.
………………………………………………..
(*):Võ Hồng Huy, Tác phẩm, tuyển tập, gồm khoảng 3 đến 4 tập.
-Tập I: Non nước Hồng Lam(đã xuất bản, Nxb văn học, Hà nội, 2018), tuyển chọn 45 bài viết, chia làm 2 phần: (1) Núi sông – Danh thắng; (2) Phong thổ - Lễ hội.
- Tập II: Danh sỹ Hồng Lam, gồm 02 phần: (1) Các bài nghiên cứu, giới thiệu chân dung một số danh nhân, nhân vậtở Nghệ Tĩnh; (2) Hoa trình tiêu khiểntiền, hậu tập(華程消遣前後集) của Hoan Nam sứ giả Nguyễn Đề (tức Quế Hiên công Nguyễn Nễ, anh trai Nguyễn Du) – công trình hiệu đính, phiên dịch, chú thích làm chung cuối cùng của hai ông Võ Hồng Huy – Thái Kim Đỉnh nhưng chưa kịp xuất bản.
- Tập III, IV:Tuyển chọn những tác phẩm sưu tầm, biên dịch và khảo chú (chủ yếu là Hán Nôm) đã xuất bản và chưa xuất bản, như Nghi Xuân địa chí, Thơ Bùi Dương Lịch, An Tĩnh sơn thủy vịnh, Thơ núi Hồng (chưa xuất bản), Niên lịch Việt Nam (khảo cứu; chưa xuất bản), Dịch thuật trong văn hóa dân gian xứ Nghệ (chưa xuất bản)…
**Võ Hồng Huy: Từ tháng 9/1956 đến tháng 8/1964, làm Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh; từ tháng 9/1964 đến tháng 4/1984, làm Phó Trưởng ban vàTrưởng ban Ban Kiểm tra Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Nghệ Tĩnh; Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, hội Di sản văn hóa Việt Nam, hội Kiều học Việt Nam, hội LHVHNT Hà Tĩnh.