1. Các dạng kênh phổ biến thông tin về mỹ thuật hiện nay
Báo/ Tạp chí chuyên ngànhmỹ thuật
Ở nước ta hiện chỉ có 3 tạp chí chuyên ngành về lĩnh vực mỹ thuật, bao gồm: Tạp chí Mỹ thuật của Hội MTVN, tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật của Đại học Mỹ thuật Việt Nam, tạp chí Mỹ thuật – Nhiếp ảnh – Triển lãm của Cục MTNATL, thêm một tờ Thông tin mỹ thuật của Đại học Mỹ thuật TPHCM. Bên cạnh đó, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, cơ quan của Bộ VHTTDL, nơi tôi đang làm việc, cũng có một chuyên mục Mỹ thuật, từng là địa chỉ cộng tác lâu năm của những cây viết về mỹ thuật nổi tiếng cả nước: Thái Bá Vân, Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Bùi Như Hương, Phạm Trung,… Những tạp chí này đều đăng tải các bài có tính chất nghiên cứu chuyên ngành về các vấn đề nghề nghiệp trong nước, bên cạnh phần thông tin về đời sống nghệ thuật nước ngoài. Nhìn chung, chúng rất cần thiết đối với nhiều người hoạt động trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau, các tạp chí chuyên ngành hiếm hoi kể trên đều không dành cho quảng đại quần chúng, ngay cả những người yêu nghệ thuật muốn tìm mua nhiều khi cũng không đơn giản. May mắn là cho đến nay, hầu hết các tạp chí nói trên đều có trang thông tin trên internet nên bạn đọc khắp cả nước dễ dàng tiếp cận hơn. Bên cạnh đó, mô hình chung của các tạp chí này đều là tiếng nói của cơ quan chủ quản, cũng chính là các thực thể quan trọng trong quản lý, tổ chức các hoạt động, giảng dạy mỹ thuật trong cả nước. Chính vì thế, các nguồn thông tin, quan điểm trong đó thường được cân nhắc kỹ lưỡng, chấp nhận sự chi phối của cơ quan chủ quản hơn là có một cái nhìn độc lập về lĩnh vực mỹ thuật với rất nhiều vấn đề đang cần được cải thiện, thay đổi, hỗ trợ phát triển.
Báo chí đại chúng
Ở các tòa soạn, hầu như không có phóng viên nào chuyên trách mỹ thuật và nghệ thuật đương đại, họ thường kiêm nhiệm việc theo dõi các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khác nữa. Có thể nói, nhiều phóng viên quá bận rộn để viết một bài viết về mỹ thuật hay là nghệ thuật đương đại có chiều sâu phân tích, bình luận. Đã xuất hiện rất nhiều cái nhìn hời hợt hoặc sai lầm về nghệ thuật đương đại trên truyền thông. Không ít sự kiện triển lãm lớn trong lĩnh vực này được đưa tin, viết bài dưới góc độ của một sự kiện "lạ", gây tò mò cho công chúng, hoặc chú trọng khai thác “scandal” trong sự kiện chứ hiếm khi được viết dưới góc độ của một câu chuyện nghệ thuật nghiêm túc. Một số ví dụ có thể thấy là xung quanh sự kiện triển lãm của nghệ sĩ Đào Anh Khánh (từ năm 1999 đến nay), sự kiện tranh “nhái” của triển lãm mỹ thuật toàn quốc, trình diễn “nude” của Lại Thị Diệu Hà (2011), hay gần đây là sự kiện “bỏ BCH” của một vài nghệ sĩ trong Đại hội Hội MTVN vừa qua. Giới phê bình, nghiên cứu thì quá mỏng về lực lượng. Mối quan hệ giữa truyền thông và phê bình - nghiên cứu cũng không chặt chẽ, mạnh ai nấy chạy.
Một ví dụ: Từ giữa những năm 1990 đến trước năm 2010, báo Thể thao & Văn hóa, khi còn ở dạng tuần báo, đã là một địa chỉ thông tin hàng đầu về mỹ thuật, với mật độ thông tin khá dày đặc, không chỉ có các bài phỏng vấn, bài viết đơn lẻ, tuần báo này còn có chuyên đề Mỹ thuật trong tháng đề cập đến rất nhiều vấn đề lớn của mỹ thuật đất nước, thu hút sự tham gia của hầu hết các cây viết mỹ thuật hàng đầu. Song cho đến nay, khi việc bán báo đã thành một áp lực quá lớn, báo lại tăng tần xuất xuất bản thành báo ngày nên chuyên mục này không còn chỗ nữa, thông tin chung về mỹ thuật trên báo này cũng không có nhiều “đất” vì phải dành chỗ cho thông tin thể thao và các sự kiện giải trí khác. Đây là một ví dụ điển hình cho thấy sức ép của kinh tế đối với việc thông tin, truyền thông nghiêm túc về mỹ thuật trong bối cảnh mỹ thuật thì chưa có thị trường còn báo chí đại chúng thì bị chi phối với sự xã hội hóa và thị trường hóa.
Internet và mạng xã hội
Mạng internet được xem là một công cụ hữu hiệu để truyền thông về nghệ thuật. Các nghệ sĩ trẻ có thể lập website, blog để chủ động giới thiệu thông tin hoạt động của mình, kết nối thông tin về các hoạt động triển lãm, dự án trong và ngoài nước của mình để chia sẻ thông tin với cộng đồng nghệ sĩ và công chúng (thường là trẻ) quan tâm. Gần đây, Việt Nam có thêm hai (02) trang mạng chuyên thông tin về nghệ thuật thị giác, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc, điện ảnh, địa chỉ tại: www.hanoigrapevine.com (từ năm 2007) và www.soi.com.vn (từ năm 2010), người đọc quen gọi là trang Soi.
Trang Hanoigrapevine do một nghệ sĩ gốc Canada rất quen thuộc với giới mỹ thuật Việt Nam, Brian Ring, lập ra. Mục đích ban đầu của ông là cung cấp thông tin thuần về văn hóa nghệ thuật ở Hà Nội, tp. HCM, Huế, cho người nước ngoài quan tâm đến văn hóa Việt Nam. Trang tin có bản tiếng Việt và tiếng Anh song song. Trong đó, thông tin về mỹ thuật khá được quan tâm, có lẽ vì ông vốn là một người sáng tác trong lĩnh vực này. Trang còn có dữ liệu về địa chỉ các trang web của nhiều nghệ sĩ có tiếng trong cả nước, có các bài bình luận cập nhật về một số sự kiện mỹ thuật và nghệ thuật đáng chú ý mới hoặc đang diễn ra, có thông tin về các chương trình học bổng, tài trợ ở trong và ngoài nước cho nghệ sĩ mỹ thuật.
Trang Soi lại do một số cá nhân người Việt thực hiện. Bên cạnh các bài điểm tin, tường thuật khai mạc triển lãm diễn ra ở Hà Nội, Tp. HCM, Huế, và một số địa phương khác, Soi còn là nguồn cung cấp thông tin khá cập nhật về các sự kiện, triển lãm, bảo tàng, giá tranh tượng, nghệ sĩ mỹ thuật đương đại trên thế giới. Soi cũng là nơi có các bài thể hiện quan điểm độc lập của người viết về những sự kiện, triển lãm mỹ thuật gây chú ý trong giới, có sự phê bình thẳng thắn ở một mức độ nhất định. Chính vì vậy, trang Soi hiện được giới mỹ thuật xem là trang tin hàng đầu của mình, một số nghệ sĩ còn cho rằng, họ chỉ cần "đi xem triển lãm trên Soi" là được. Số lượng khách thăm trang này mỗi ngày dần dần tăng lên, từ vài ba trăm lượt /ngày đến 5- 7.000 lượt/ngày. Tuy nhiên, Soi vẫn như là một blog cá nhân, do một nhóm người cùng nguyện vọng thực hiện. Bạn đọc Soi hoàn toàn miễn phí và người viết, người cung cấp thông tin nhiều khi làm hoàn toàn vì yêu thích mỹ thuật nói chung, yêu Soi nói riêng. Nhìn rộng ra, trong bối cảnh truyền thông hiện nay ở Việt Nam, trang Soi vẫn là một trang thông tin nhỏ bé, dù là hết sức hữu ích với người trong giới. Số lượng lượt người vào thăm trang như vậy chỉ bằng một phần rất nhỏ so với lượng người đọc các báo mạng giải trí. Nó phần nào là một minh chứng cho thấy sự nhỏ hẹp của mối quan tâm dành cho mỹ thuật nói chung ở Việt Nam.
2. Một góc nhìn – một góp ý
Có rất nhiều vấn đề liên quan khiến cho việc truyền thông về nghệ thuật ở Việt Nam không/chưa chuyên nghiệp, cũng như không/chưa có sự phân loại mức độ, đẳng cấp. Tựu chung lại, lí do cốt lõi vẫn là Việt Nam chưa có được thị trường mỹ thuật nội địa thực sự đúng nghĩa. Truyền thông về mỹ thuật không có khách hàng nên thật khó để phát triển, có sự phong phú, đa dạng, có sự tôn trọng những quan điểm độc lập, trở thành một mắt xích trong chuỗi dây chuyền thúc đẩy mỹ thuật phát triển.
Xin lấy một ví dụ: năm 2002, tôi có dịp được thuê làm phiên dịch cho cuộc phỏng vấn của ông Tổng biên tập cuốn tạp chí Asian Art News với nhà điêu khắc Trần Hoàng Cơ. Cuộc phỏng vấn diễn ra tại khách sạn Metropole Hà Nội. Như vậy, có thể thấy, chi phí cho một bài báo trên tờ tạp chí này không hề nhỏ, trong khi đó cũng không phải là dạng bài đinh, bài cover của số tạp chí. Tạp chí này xuất bản chính ở Hồng Kông. Cũng tại đây, còn cuốn tạp chí khác liên quan đến Việt Nam, tạp chí Arts of Asia của bà chủ bút Tuyết Nguyệt, được xuất bản từ năm 1970, chuyên về nghệ thuật và đồ cổ châu Á, hiện vẫn có sức ảnh hưởng lớn đến thị trường liên quan của khu vực này cũng như có tầm ảnh hưởng quốc tế mạnh mẽ. Chỉ cần một cú nhấp chuột tên tạp chí trên Google, quý vị có thể thấy ngay diện mạo của trang web rất đẹp đẽ của tạp chí này, cũng như tính cập nhật của nó cho dù Arts of Asia chỉ xuất bản định kỳ 2 tháng/lần. Sức ảnh hưởng lâu dài của một đơn vị truyền thông nghệ thuật như một tạp chí, chuyên mục, chương trình truyền hình,… chắc chắn phải được xuất phát từ chất lượng chuyên môn của nó, sau đó là khả năng mở rộng tầm ảnh hưởng thông qua việc tổ chức, điều phối tổ chức các sự kiện lớn nhỏ, nhưng có uy tín liên quan như triển lãm, hội thảo chuyên đề, đấu giá, có sự tham gia của các chuyên gia tên tuổi trong và ngoài nước… Tiềm lực tài chính chỉ là điều kiện thuận lợi ban đầu chứ chưa hẳn là điều kiện cốt lõi, thay vào đó là tầm nhìn và tầm hiểu biết cũng như chất lượng chuyên môn. Tuy nhiên, hai ví dụ nói trên đều được sinh ra và phát triển ở Hồng Kông, nơi có thị trường nghệ thuật phát triển nhất châu Á, thu hút các nhà đầu tư toàn cầu, đến nỗi, gần đây, một hội chợ nghệ thuật lớn nhất nhì châu Âu, Art Basel (Thụy Sỹ) cũng đã dịch chuyển về nơi này.
Trở lại với bối cảnh hiện tại của Việt Nam, trong khi chưa có thị trường mỹ thuật nội địa, các địa chỉ truyền thông về mỹ thuật nói riêng nên làm gì để góp phần thúc đẩy mỹ thuật phát triển?
Các tạp chí mỹ thuật chuyên ngành của Việt Nam hiện có, tuy ít ỏi song đều được sản xuất từ/ bởi toàn bộ hoặc một phần ngân sách Nhà nước. Đây là sự đảm bảo ban đầu cho tính ổn định của các cơ quan này. Có lẽ, một sự đầu tư lớn hơn vào chuyên môn, vào tính hấp dẫn ngay từ thiết kế hình ảnh của tạp chí, vào sự chú trọng hơn đến công chúng thông thường của mỹ thuật nên được đặt ra.
Các cơ quan báo chí đại chúng nên chú trọng hơn đến thông tin nghiêm túc về mỹ thuật, thay vì quanh quẩn đưa tin sự kiện hoặc chú trọng đến các yếu tố thông tin dễ gây sốc, tạo scandal. Cách đưa tin, bài về mỹ thuật như trên trang tin điện tử www.dantri.com.vn, là một ví dụ cho thấy sức hấp dẫn của tính nghiêm túc trong thông tin về lĩnh vực này.