Khi bàn về Dân vận - một mặt quan trọng của dân chủ, đi liền với dân chủ-, Hồ Chí Minh chỉ rõ “vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa thấu hiểu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”.
Câu đó rất đúng khi bàn về thực hành dân chủ hiện nay như người đứng đầu Đảng ta phát biểu tại hội nghị toàn quốc đánh giá kết quả thực hiện kết luận 120- KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ngày 16-7-2018. Ông nói: “Lâu nay nhiều nơi cứ nói là thực hiện dân chủ, nhưng thực chất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở đó vẫn mượn danh hiệu nhân danh tập thể để hợp thức hóa những quyết định ý chí chủ quan của cá nhân mình. Một số người có chức, có quyền còn quan cách, gia trưởng, thậm chí có những cá nhân và tập thể trù dập, ức hiếp quần chúng”.
Vì sao như vậy? Vì có những điều a,b,c nhưng không phải ai cũng hiểu, cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới hiểu được, thuộc được, làm được.
Dân là ai?
Ta nói thực hiện dân chủ nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ cấp cao, người đứng đầu không hiểu hay cố tính không hiểu dân là ai, thì làm sao thực hành được dân chủ. Nhiều người nghĩ rằng dân là đại cử tri nên gặp dân chỉ gặp đại cử tri. Người ta chỉ nghe đại cử tri nói - mà lại nói bằng giấy-, tức là được chuẩn bị trước, thì làm sao gọi là thực hành dân chủ rộng rãi.
Nhớ lại đầu năm 1946, khi được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước, Bác Hồ không nói do Quốc hội hay cử tri ủy thác, mà do “đồng bào ủy thác”. Hồi đó đồng bào khoảng trên dưới 20 triệu người, hiện nay là khoảng 95 triệu người. Phải hiểu dân là đồng bào như vậy thì khi thực hành dân chủ mới nghe được tiếng nói thật của dân, của con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên, của đồng bào.
Cán bộ hãy cố gắng vi hành, đi tới những nơi hang cùng ngõ hẻm để thực hành dân chủ thì mới đúng là học tập và làm theo tư tưởng, phong cách dân chủ Hồ Chí Minh. Có đi như vậy thì mới nhận chân được các ông “quan” địa phương thế nào? Mới thấy được sự bức xúc của dân ở địa phương vì thiếu dân chủ thế nào? Còn nếu “nhiệt liệt chào mừng”, gặp đại cử tri thì đó là dân chủ hình thức, dân chủ trang trí, dân chủ trên giấy tờ.
Bác chỉ rõ rằng có nhiều cách hỏi dân chúng. Nói chuyện với từng người. Nói chuyện với đông người. Nói chuyện với tầng lớp này, với tầng lớp khác, với mọi tầng lớp. Nếu ta chịu khó, chịu suy nghĩ, bất kỷ nói chuyện với ai cũng có ích cho tư tưởng của ta.
Theo Bác, nói chuyện và bàn bạc với cán bộ cũng chưa đủ. Nói chuyện và bàn bạc với các phần tử hăng hái trong quần chúng cũng chưa đủ, còn phải nói chuyện và bàn bạc với nhân dân, với đồng bào. Dân chúng tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì vậy, phải lắng nghe tiếng dân, cả những điều thuận và điều “nghịch”. Đó là một vấn đề rất trọng yếu cho cách làm việc của Đảng, cho thực hành dân chủ thật sự.
Tại sao khi về các địa phương hay ở các cuộc mít tinh lớn, Bác thường nói “Thưa đồng bào” trước rồi mới đến các thành phần khác. Là vì Người thấu hiểu, thấu cảm đồng bào. Người nhận thức rõ tài dân, sức dân, của dân, quyền dân. Bác thường nói “không có nhân dân thì không có Bác”. Đó là tầm nhìn, cách nhìn, một biểu hiện đích thực của/để thực hành dân chủ thật sự.
Tại sao phải thực hành dân chủ?
Câu hỏi này đáng lý không nên đặt ra, nhưng vì thực tế nhiều cán bộ không hiểu nên phải nêu ra. Phải thực hành dân chủ, vì nước ta là nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Bác nêu câu hỏi và trả lời: “Chính phủ Cộng hòa Dân chủ là gì? Là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.60). Người nói rõ hơn: “Làm cán bộ là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a,b,c đó không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”. “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”.
Phải thực hành dân chủ vì dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ.
Phải thực hành dân chủ vì dân rất tài giỏi, khôn khéo, hăng hái, anh hùng, lực lương của dân nhiều vô cùng. Bác tổng kết kinh nghiệm trong nước và các nước rằng “có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
Phải thực hành dân chủ vì trong một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Hồ Chí Minh là số ít, hiếm thấy trong các lãnh tụ thế giới khi đặt tên nước lại ghép Dân chủ đi liền Cộng hòa.
Phải thực hành dân chủ vì dân chủ là cái chìa khóa vạn năng; dân chủ vừa là mục tiêu vừa động lực của cách mạng. Nếu thực hành dân chủ đúng, thật sự thì việc gì cũng làm được. Nếu không thực hành dân chủ thì việc gì làm cũng không nên. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
Không dân chủ là quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, trù dập, áp bức, ức hiếp theo kiểu “quan” chủ; là dùng mệnh lệnh ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo. Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại. Cách xa dân chúng, chẳng khác gì đứng lửng giữa trời, nhất định thất bại.
Thực hành dân chủ thế nào?
Xưa nay, khi tổng kết việc gì, ta hay nói đến ra được bao nhiêu nghị quyết, chỉ thị. Tuyên ngôn, nghị quyết là cần nhưng chưa đủ, hoàn toàn không đủ. Theo Hồ Chí Minh, “muốn biết một chính đảng, hay một người có phải là Đảng hay chiến sĩ tiên phong của vô sản hay không, ta không nên chỉ xem những tuyên ngôn, nghị quyết và nghe lời nói của họ; ta cần xét hành vi chính trị của họ, lập trường và thái độ của họ trong những cuộc đấu tranh chính trị thế nào?”.
Bác Hồ đã chỉ ra vấn đề dân vận nói nhiều, bàn nhiều, nhưng cán bộ chưa hiểu, không làm nên phải nhắc lại. Chưa thấy Bác viết hay nói Đảng phải ra nhiều nghị quyết về dân chủ, chỉ thấy Bác dặn trong Di chúc “trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi”. Quan tâm đến thực tế, thực hành dân chủ, làm dân chủ hiệu quả, Bác phê bình loại cán bộ “nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần”, “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng. Bác phê bình “trong Đảng có một số người chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”. Loại người đó “nói mênh mông trời đất. Nói gì cũng có. Nhưng chỉ chừa một điều không nói đến là những việc thiết thực cho địa phương đó, những việc mà dân chúng ở địa phương đó cần biết, cần hiểu, cần làm, thì không nói tới”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách thực hành dân chủ, đó là “các đồng chí ở huyện phải đi xuống xã mà xem xét, kiểm tra, chớ làm theo lối quan liêu, tỉnh gửi giấy về huyện, huyện gửi giấy về xã. Giấy không thể che rét cho trâu bò được”.
Cách đây hơn 20 năm (6-1997), Đảng ta đã có nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp đó, Bộ Chính trị khóa VIII đã ra Chỉ thị 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (2-1998). Nhưng tại sao bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề thực hiện quy chế dân chủ vẫn còn nhiều bất cập, làm đối phó, hình thức như Tổng Bí thư chỉ ra? Có nhiều nguyên nhân như đã nêu ở trên, nhưng còn một nguyên nhân khác rất quan trọng, đó là ta chưa làm dân chủ theo đúng tư tưởng và phong cách của Bác.
Như trên đã nói, ta mới chú trọng vào một bộ phận nhỏ trong dân, trong khi Bác dặn phải “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lương toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho”. Trong khi đó, nhiều dịa phương tập trung vào chỉ thị, hội họp, mà không làm theo tư tưởng, phong cách của Bác rằng “dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”.
Một điều cực kỳ quan trọng của dân chủ là làm cho dân “dám nói, dám làm”. Bác dạy rằng trước hết là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Hai là bất cứ việc gì cũng đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Hồ Chí Minh chỉ rõ người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu. Nghĩa là phải lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, của những người “không quan trọng”. Nhất định phải so sánh, học kinh nghiệm của dân chúng, vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
Thực hành dân chủ là phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Phải thật thà nhúng tay vào việc. Ngồi trong phòng lạnh ra chỉ thị, không thể gọi là thực hành dân chủ.
Trên cơ sở hiểu dân, học dân, hỏi dân, thực hành dân chủ là phải phát huy vai trò trách nhiệm của nhân dân tham gia bàn bạc và quyết định các vấn đề, giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và tổ chức, cán bộ. Hồ Chỉ Minh chỉ ra rằng ba vấn đề eủa lãnh đạo đúng là quyết định đúng, thi hành đúng, kiểm soát đúng đều phải dựa vào dân chúng. Cách tốt nhất thể hiện dân chủ trong kiểm soát là dân chúng kiểm soát sai lầm của lãnh đạo, tức là kiểm soát dưới lên.
Theo Hồ Chí Minh, một trong những nguyên tắc trong thực hành dân chủ, đó là tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.
Dân chủ tức là dân làm chủ, còn người cán bộ, lãnh đạo chỉ là công bộc, phục vụ dân, suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Vậy thì thực hành dân chủ không thể làm theo kiểu quan cách, “đè đầu dân, cưỡi cổ dân, vác mặt làm quan cách mạng”, mà phải theo đúng đường lối nhân dân với các nội dung: “Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”. Đặc biệt là phải trưng cầu dân ý như Điều 29 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã nêu: “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân”.
Bác Hồ coi đó là đơn thuốc (thuốc đắng dã tật), để chữa hết bệnh quan liêu mệnh lệnh, thực hành dân chủ một cách thiết thực, hiệu quả.