Những góc nhìn Văn hoá

Khái niệm "hành động" trong triết học Hannah Arendt (Kỳ cuối)

Khi nào thì con người phi chính trị ?

Arendt thấy rằng không phải tất cả mọi người đều hành động, và không phải tất cả mọi người đều muốn bước vào không gian ngoại tại, tức là không gian nơi con người xuất hiện trước người khác, không gian chính trị. Không gian chính trị là “tác phẩm của con người”, và nó là sản phẩm mang tính chất người đậm nét nhất, hơn là sản phẩm của lao động hay tạo tác.

Homo faber (con người tạo tác) và animal laborans (động vật lao động) - con người của các hoạt động lao động và tạo tác -, thực chất là con người phi chính trị. Họ có xu hướng coi lời nói và hành động là không có lợi ích gì so với mục đích mà họ đặt ra: đối với homo faber mục đích là làm cho thế giới đẹp hơn và hữu dụng hơn, đối với animal laborans, mục đích là kéo dài cuộc sống và làm cho nó dễ chịu hơn. Nếu chỉ dừng lại ở hai mục đích này, nếu không có nhu cầu xuất hiện trước người khác, thì họ vẫn chưa có cái tự do sở hữu lĩnh vực công cộng, vì họ không sử dụng lời nói và hành động như một cách thức để cùng tồn tại với người khác. Và nếu không có tương tác với người khác thì không hình thành được xác tín về thực tế của cái tôi, của bản thân, và về thực tế của thế giới bao quanh.

Hoạt động tạo tác có điều kiện cần là sự tách biệt, và như vậy nó không có khả năng tạo ra một không gian công cộng cho phép con người xuất hiện với tư cách người. Nhưng hoạt động tạo tác có những mối liên hệ với không gian này, vì nó gắn liền với thế giới cụ thể của các đồ vật do nó tạo ra. Những người lao động theo ngành nghề có thể là phi chính trị nhưng không chống lại chính trị.

Còn trong hoạt động lao động, người lao động không gắn với thế giới, cũng không gắn với người khác, mà chỉ có quan hệ duy nhất với cơ thể mình, trước đòi hỏi khốc liệt phải sinh tồn. Người ta có thể lao động cùng với người khác, nhưng sự hiện diện của người khác trong lao động không đánh dấu việc mỗi người là một cá thể riêng biệt, trái lại, chỉ làm tăng tính chất loài mà thôi, tức là nó khẳng định sự tương đồng, sự giống nhau trong nhu cầu sinh tồn của con người, nó không cho phép làm nổi bật sự độc nhất của mỗi người.

Vì thế ngự trị trong một xã hội lao động và tiêu thụ là tính chất đồng dạng, đồng nhất, tức là sự giống nhau. Và do đó, animal laborans không có khả năng tự phân biệt, và không có khả năng hành động và phát ngôn. Điều này giải thích sự thiếu vắng những cuộc nổi dậy quan trọng của những người nô lệ thời trung cổ và cả thời hiện đại.

Trên cơ sở nhận xét này, Arendt nhận thấy các phong trào công nhân đã đóng một vai trò tuyệt vời trong chính trị hiện đại. Phong trào công nhân mở ra một không gian công cộng, không gian trong đó người công nhân xuất hiện không như một người lao động, không như một thành phần của xã hội lao động và tiêu thụ ; mà họ xuất hiện trong tư cách con người tự do, trong tư cách những người hành động và phát ngôn.

Tuy nhiên Arendt cũng chỉ ra hạn chế của các phong trào công nhân, và theo bà lý do là ở hạn chế của các nghiệp đoàn, vì các nghiệp đoàn không có ý thức tạo ra các thay đổi xã hội, mà chỉ quan tâm đến lợi ích của giai cấp công nhân mà thôi.

 

Hành động như là quá trình

 

Theo Arendt khái niệm trung tâm của hai khoa học mới của thời hiện đại, khoa học tự nhiên và khoa học lịch sử, là khái niệm “quá trình ». Khái niệm này được đề xuất dựa trên kinh nghiệm chung của nhân loại về hành động. Vì chúng ta có khả năng hành động nên chúng ta có thể khởi động các quá trình, và chúng ta nhìn nhận tự nhiên và lịch sử như là các hệ thống của những quá trình. Hành động là một quá trình có nghĩa là hành động tiếp diễn trong tính vô tận của nó, không có điểm cuối. Tính bấp bênh, và sự thất bại tiềm tàng của mỗi hành động cụ thể không ngăn cản con người khởi đầu những hành động mới. Sự thất bại của hành động của một nhóm nào đó, tại một thời điểm nào đó, cũng không ngăn cản những người khác tiếp tục hành động

Hành động là một quá trình còn có nghĩa là hành động là biểu hiện của tự do, biểu hiện của con người tự do. Vì con người là tự do nên nó luôn có khả năng khởi động một tiến trình mới bằng hành động.

 

Tha thứ và hứa hẹn

           

            Arendt phân tích quá trình « nên người » như sau : animal laborans bị bắt buộc phải đáp ứng nhu cầu sinh tồn, do đó phải phục tùng đòi hỏi tất yếu của lao động và tiêu thụ. Nhưng con người không cam chịu dừng lại trong giới hạn của động vật lao động. Nó huy động năng lực người của mình để chế tạo, sáng tạo ra những đồ vật mang dấu ấn của chính nó, dấu ấn riêng của con người. Nhờ đó mà tạo ra một thế giới bền vững, có khả năng tồn tại lâu dài, một thế giới của đồ vật do con người làm ra, tồn tại song song với thế giới tự nhiên. Bằng cách này mà nó « nên người », trở thành homo faber, con người tạo tác. Bằng cách này, con người khiến cho mình thuộc về thế giới và áp đặt sự hiện diện của mình lên thế giới. Tuy nhiên, thế giới của các đồ vật hữu dụng, đến lượt nó, lại tạo ra một sự ràng buộc đối với con người, khiến nó bị hạn chế trong phạm trù của mục đích và phương tiện, trở thành nạn nhân của sự vô nghĩa. Để vượt thoát khỏi giới hạn này, để tự giải phóng khỏi điều kiện này, con người sử dụng tới những năng lực khác của mình, năng lực nói và hành động. Hai năng lực này giúp con người sáng tạo những câu chuyện giàu ý nghĩa, qua đó mà mang lại ý nghĩa cho thế giới.

            Trong khi suy tư về quá trình « nên người » của nhân loại, Arendt khám phá ra rằng để tự cứu rỗi mình, động vật lao động và con người tạo tác cần đến một phương thuốc ở bên ngoài. « Đối với animal laborans, thật kỳ diệu khi tồn tại cũng đồng thời là tồn tại trong tư cách là sinh vật có hiểu biết và ở trong một thế giới ; đối với homo faber, thật kỳ diệu khi có một chỗ trong thế giới này để hướng tới một ý nghĩa nào đó, điều này cũng giống như sự thần khải vậy »[1].

Phương thuốc dành cho hành động hoàn toàn khác, nó không đến từ một năng lực siêu việt, ở bên ngoài, mà đó là một năng lực tiềm tàng trong chính bản thân hành động. Bởi vì hành động có hai tính chất: không thể đảo ngược (những gì đã diễn ra không thể thay đổi được nữa) và không thể dự kiến.  Giải pháp để khắc phục hai đặc điểm này là khả năng tha thứ và lời hứa. Đây là hai năng lực nội tại của con người.

Bằng khả năng tha thứ, con người có thể tự giải phóng khỏi quá khứ theo nghĩa là nó không để bị giam hãm trong một hành động duy nhất, không tự biến mình thành nạn nhân của hành động trong quá khứ, hành động đã xảy ra và không đảo ngược được nữa. Nhờ đó mà có thể bắt đầu những hành động mới, tự làm mới mình.

Năng lực hứa và giữ lời hứa giúp con người chống lại tính chất không thể dự kiến của tương lai và tính bấp bênh của hành động,

Lời hứa giúp ta bảo toàn bản sắc của mình trong khi cố gắng thực hiện lời hứa. Nếu không có lời hứa neo giữ hành động thì con người sẽ rơi vào tình trạng yếu đuối và không có mục đích, rồi sẽ chìm đắm trong bóng tối của trái tim đơn độc.

Tại sao chữ “đơn độc” xuất hiện ở đây? Bởi vì tha thứ và hứa hẹn là hai năng lực xây dựng trên cơ sở này: nhân loại tồn tại ở dạng số nhiều. Nếu chỉ có một người trên trái đất thì không cần tha thứ cũng chẳng cần hứa hẹn, vì khi đó tha thứ và hứa hẹn không có ý nghĩa gì.

Chính với sự hiện diện của người khác, sự hợp tác của người khác trong hành động mà cần đến tha thứ và hứa hẹn. Tha thứ và hứa hẹn đã bao hàm trong đó sự hiện diện của người khác. Phân tích này của Arendt cho thấy tầm quan trọng của những lời hứa trong hoạt động chính trị. Nhưng lời hứa không chỉ là lời hứa của lãnh đạo, mà là lời hứa giữa mọi người với nhau, là thoả ước chung mà họ cùng lập ra và tôn trọng. Nếu như « uy lực nảy sinh khi những con người tập hợp lại với nhau và « hành động cùng nhau » [agir de concer], và biến mất ngay khi họ rời xa nhau »[2], thì cái sức mạnh đảm bảo sự liên kết giữa con người kể cả khi họ không còn tập hợp bên cạnh nhau nơi không gian công cộng, nghĩa là kể cả khi họ đã trở về với không gian riêng tư, đó là sức mạnh của lời hứa mà họ giành cho nhau, sức mạnh của khế ước chung.

Arendt nói đến sự trừng phạt như một khả năng khác, không hề mâu thuẫn với tha thứ. Trừng phạt và tha thứ có điểm chung : mặc dù là hai phương thức khác nhau, nhưng trừng phạt và tha thứ đều là những cố gắng nhằm chấm dứt của một sự việc nào đó trong quá khứ có thể đeo bám dai dẳng không nguôi. Nghĩa là người ta có thể chấm dứt sự đeo bám đó bằng tha thứ hoặc bằng trừng phạt. Và Arendt cũng nhìn vấn đề trong tính phức tạp của nó khi chỉ ra rằng có những trường hợp ta « không thể trừng phạt cũng không thể tha thứ »[3]. Tính chất phức tạp cũng thể hiện trong tình trạng của « những người không có khả năng tha thứ cho những gì họ không thể trừng phạt, và họ không có khả năng trừng phạt những gì họ không thể tha thứ »[4].

 

Con người sinh ra không phải để chết mà là để hành động

 

Đối với Arendt, quy luật duy nhất mà con người có thể chắc chắn, đó là quy luật của cái chết, bà viết : “đó là quy luật duy nhất chắc chắn của một cuộc đời diễn ra từ lúc sinh thành cho đến lúc chết. Khả năng hành động giao thoa với quy luật này, bởi vì nó giúp ta cắt đứt với tính tự động khắc nghiệt của đời sống hàng ngày. Khả năng hành động làm xáo trộn quá trình sinh học của đời sống. Cuộc đời con người khi tiến về phía cái chết chắc chắn kéo theo nó sự huỷ  diệt và suy tàn. Tất cả những gì thuộc về tính người biểu hiện trong khả năng làm ngắt quãng quá trình này và tạo ra cái mới, khả năng này gắn liền với hành động. Cần nhắc lại rằng mặc dù con người cần phải chết, nó sinh ra không phải để chết, mà là để sáng tạo[5].

Hành động là điều kỳ diệu đã cứu vãn thế giới này khỏi sự suy tàn bình thường, tự nhiên. Rút cuộc, khả năng hành động bắt rễ từ sự ra đời của mỗi người. Hành động cho phép con người tự sinh ra mình lần thứ hai, sinh ra trong mắt người khác, trước sự chứng kiến của người khác. Kinh nghiệm về hành động mang lại hy vọng cho những kiếp nhân sinh. Arendt kết thúc chương “Hành động” bằng cách nhắc lại tin mừng được loan báo trong Kinh thánh: “Một đứa trẻ đã được sinh ra cho chúng ta” (Un enfant nous est né).

Mỗi một sự ra đời mang theo một khởi đầu mới. Và thân phận người là gì ? Là sinh ra cùng với tự do, sinh ra để có tự do. Toàn bộ vấn đề sẽ là : con người có cam chịu để cho người khác tước đoạt tự do của mình hay không, và nữa, con người có tự tước đoạt mất cái tự do được ban cho cùng với sự ra đời của nó hay không ?

Sài Gòn, 12/10/2018

 


[1]Hannah Arendt, Condition de l’homme moderne, Calmann-Lévy, 1961, tr.302

[2]Ibid., tr.311

[3]Ibid., tr.307

[4]Ibid., tr.307

[5]Ibid., tr.313

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577638

Hôm nay

2169

Hôm qua

2333

Tuần này

2837

Tháng này

224695

Tháng qua

130677

Tất cả

114577638