Những góc nhìn Văn hoá

Chức tước và những địa danh gắn liền với Nguyễn Du

Tượng Nguyễn Du tại Khu Di tích Đại thi hào Nguyễn Du (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) 

Nguyễn Du sinh năm 1765, tại phường Bích Câu - Thăng Long, nơi Nguyễn Nghiễm - thân phụ ông lúc bấy giờ làm quan tể tướng của triều đình Lê - Trịnh. Mẹ là bà Trần Thị Trần quê ở  làng Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn (nay là làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) quê hương hát quan họ.                      

 Năm 1771, Nguyễn Nghiễm về trí sĩ ở quê nhà, Nguyễn Du theo cha  mẹ về quê - làng Tiên Điền, Nghi Xuân.

Lên 13 tuổi Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên phải sống với người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1783, thi đậu tam trường ở Trấn Sơn Nam. Đến năm 1786 (lúc 21 tuổi) Nguyễn Khản xin cho Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên. Là chức quan võ đầu tiên của Nguyễn Du, cũng trong thời gian này Nguyễn Du cưới bà Đoàn Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ chức Ngự Sử tại triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình).

 Khi nghĩa quân Tây Sơn kéo ra Bắc dòng họ "N guyễn Tiên Điền" bất hợp tác với triều Tây Sơn nên phải ẩn dật ly tán khắp nơi, Nguyễn Du lánh về quê vợ - làng Quỳnh Côi, huyện Hải An, tỉnh Thái Bình, cuộc sống túng thiếu vất vả ông gọi quãng thời gian này là "mười năm gió bụi " (thập tải phong trần).

Ở Thái Bình người vợ đầu của ông ốm đau bệnh tật rồi mất, người con trai lớn cũng ra đi, ông trở về quê nhà vào năm 1796, sống dưới chân núi Hồng với biệt hiệu "Hồng sơn Liệp hộ và Nam Hải điếu đồ". Các tác phẩm: Văn tế trường lưu nhị nữ; Thác lời trai phường nón; Văn Chiêu hồn ra đời trong thời gian này.

Đến năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, bổ Nguyễn Du làm Tri huyện Phù Dung thuộc Khoái Châu, trấn Sơn Nam, nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Chức quan này đứng đầu một huyện. Ba tháng sau đã thăng chức Tri phủ Thường Tín - Hà Đông. Là chức quan địa phương có quyền cao nhất cả về dân sự lẫn quân sự trong tỉnh vào đầu thời Nguyễn. Năm 1803 được cử tiếp sứ thần nhà Thanh tại Ải Nam Quan.                                                               

Năm 1805, ông được thăng chức Đông Các Đại học sỹ tước Du Đức hầu - là một trong bốn chức quan cao cấp nhất thời phong kiến Việt Nam. Đây là một ân sủng lớn mà triều đình dành cho Nguyễn Du, bởi vì Nguyễn Du chỉ đỗ Tam trường (Tú tài) mà thời đó phải đỗ hương cống (Cử nhân) thì mới được bổ làm quan.

Tháng 9 năm Đinh Mão (1807), được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương, xong việc ông xin nghỉ về quê, được vua chấp thuận.

 Mùa Hạ năm Kỷ Tỵ 1809 được bổ nhiệm làm Cai Bạ Quảng Bình.

Năm Quí Dậu (1813), Nguyễn Du được bổ sang chức Cần chánh điện học sỹ sau đó được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc trong thời gian 15 tháng. Đoàn Sứ bộ Nguyễn Du về đến Kinh thành Phú Xuân (Huế) tháng tư năm Giáp Tuất (1814), sau khi đi sứ về Nguyễn Du được nghỉ ngơi mấy tháng ở quê.                      

Năm 1815, được bổ chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.  Năm 1819, Nguyễn Du được cử làm Đề điệu (chức quan đứng đầu trường thi - Chánh chủ khảo) trường thi ở Quảng Nam, sau đó ông dâng biểu xin nghỉ được nhà vua chuẩn y. Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi cử Nguyễn Du làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong nhưng chưa kịp lên đường thì ông bị cảm bệnh và mất tại kinh thành Huế vào ngày 10 tháng 8 âm lịch năm 1820 (16/09 dương lịch) hưởng thọ 55 tuổi./.

                                                           

 

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114600813

Hôm nay

216

Hôm qua

2394

Tuần này

21414

Tháng này

227430

Tháng qua

131357

Tất cả

114600813