Những góc nhìn Văn hoá

Nguyễn Trung Phong và những giá trị còn lại

                                                 

Bác Hồ chụp ảnh với Đoàn Văn công Nhân dân Nghệ An sau khi đoàn biểu diễn vở Chèo "Cô gái sông Lam" cho Bác  và lãnh đạo Đảng, nhà nước xem tại Phủ Chủ tịch, năm 1962. Ảnh tư liệu

Tới nay, Cô gái sông Lam đã gần tròn nửa thế kỷ khai sinh. Giận mà thương xấp xỉ 40 mươi năm tuổi. Hàng chục kịch bản sân khấu của Nguyễn Trung Phong đã đi qua sự sàng lọc khắc nghiệt của nhiều thế hệ công chúng.

Nguyễn Trung Phong cũng theo cát bụi 29 năm trời.

Lẽ thường, với khoảng thời gian đó của một tác phẩm nghệ thuật hay của một đời người, cái gì không đáng nhớ là đã bị lãng quên, và cái gì hậu thế còn lưu lại chắc chắn sẽ là những giá trị rất đặc biệt.

Câu chuyện của Nguyễn Trung Phong cũng không là ngoại lệ.

Vậy những giá trị rất đặc biệt mà Nguyễn Trung Phong đã để lại là gì?

1. Câu chuyện folklore hóa của Giận mà thương

 Một lần nhân làm việc với nhạc sỹ Vi Phong về kịch hát dân ca, tôi hỏi: trên bản nhạc Giận mà Thương của Nguyễn Trung Phong có nói anh là người ghi âm, ý là sao? Anh Vi Phong nói ngay: Cụ (Nguyễn Trung Phong) không biết nhạc lý, không biết ký âm, phóng tác tới đâu Cụ ghi nhớ trong đầu, mình ghi âm rồi về mới viết lại bản nhạc cho Cụ.

Thì ra vậy, đây là lối sáng tác theo kiểu truyền khẩu, nguyên chất dân gian của ông cha ta từ hồi xưa.

Một trong những yêu cầu cốt lõi của sáng tác truyền khẩu là phải có tài ứng tác, nội dung và hình thức phải rất đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ.

Theo tư liệu của các nhà nghiên cứu còn ghi lại, lúc cùng đội văn nghệ xã Diễn Bình dựng vở kịch hát Khi ban đội đi vắng, Nguyễn Trung Phong nhận thấy nếu dùng mãi các làn điệu dân ca cổ thì cũng nhàm chán, và lại không bộc lộ hết trạng thái tâm lý người vợ khi muốn ngăn người chồng ngược chợ Lường. Từ đó Nguyễn Trung Phong quyết định đi tìm điệu hát mới để “gỡ bí” cho đội.

Trên nền tảng cảm xúc nghệ thuật tự nhiên, trước một tình huống trạng thái tâm lý cụ thể và bằng vốn dân ca, vốn đời phong phú,theo nhạc sỹ Thanh Lưu - người có nhiều đóng góp cho sân khấu hóa dân ca Nghệ Tĩnh thì Nguyễn Trung Phongđã cải biên Giận mà thương bằng phương pháp lồng ghép chắp điệu… nối ví sang giặm…khi liên kết giữa ví và giặm, anh đã có sự cải biên bằng thủ pháp mô phỏng mô tiến, điệp khúc điệp từ, nhấn âm hình chủ đạo, giữ âm sắc đặc trưng.

Như vậy là khi sáng tác Giận mà thương Nguyễn Trung Phong đã dùng (có thể là vô thức) một phương thức quen thuộc của dân gian. Việc sử dụng phương thức này đã đưa đến một hiệu ứng rõ nét là khắp mọi nơi mọi lúc mọi người trong cả nước hát Giận mà thương. Giận mà thương bước vào folklo hóa, mặc nhiên được xem là một làn điệu của dân ca Nghệ Tĩnh và đã hòa tan vào kho tàng văn hóa dân tộc. 

Bây giờ Giận mà thương đã được Đỗ Nhuận, một trong những đại thụ của âm nhạc Việt Nam lấy làm nguồn cảm hứng để làm nên bài hát Trông cây lại nhớ đến Người.

Nhiều năm sau Giận mà thương vẫn sẽ nguyên tươi sức sống.

Và vô tận thời gian Giận mà thương vẫn là một phần tất yếu của di sản văn hóa dân tộc Việt.

Giá trị đó của Nguyễn Trung Phong để lại quả là đáng ngưỡng mộ.

2. Cuộc thăng hoa nghệ thuật tuyệt vời của Cô gái sông Lam

Khi viết kịch bản chèo Cô gái sông Lam Nguyễn Trung Phong chịu 3 trở ngại đáng kể: 1. Kịch bản do tổ chức yêu cầu, kiểu như kịch bản đặt hàng phục vụ kỷ niệm 30 năm Xô viết Nghệ Tĩnh; 2. Đề tài lịch sử cách mạng thường khó khai thác cảm xúc trữ tình; 3. Nghệ An không phải là cái nôi của nghệ thuật sân khấu Chèo.

Thế rồi Nguyễn Trung Phong đã vượt qua rất ngoạn mục. Khỏi phải bàn về tính tư tưởng chính trị của vở diễn này vì nó quá chuẩn mực. Điều đáng nói ở đây là tay nghề của Nguyễn Trung Phong quá cao, quá tài. Giờ xem lại Cô gái sông Lam, ta vẫn thấy nhiều lớp kịch đặc quánh âm hưởng bi hùng, lại có nhiều lớp kịch bàng bạc chất thơ, có lớp kịch hài hước hóm hỉnh. Sân khấu đóng màn mà cảm xúc vẫn lâng lâng, dễ chịu và lắng đọng.

Không phải ngẫu nhiên năm 1962, nhiều tác giả kịch bản, đạo diễn, lý luận phê bình sân khấu gạo cội ngồi trên ghế giám khảo Hội diễn Sân khấu toàn quốc đã đồng thuận tôn vinh Cô gái sông Lam. 4 huy chương vàng, 4 huy chương bạc đã được trao cho Nguyễn Trung Phong và các cộng sự của ông. Sau đó Cô gái sông Lam đã được biểu diễn trong Phủ Chủ tịch với sự có mặt của vị khán giả đặc biệt là Bác Hồ.

Năm 1974, kịch bản chèo Cô gái sông Lam được các nghệ sỹ Thanh Lưu, Văn Thế và Đình Bảo chuyển thể thành kịch hát dân ca. Việc chuyển thể này đã làm cho Cô gái sông Lam tràn đầy thêm năng lượng nghệ thuật, tiếp tục làm dậy sóng công chúng xứ Nghệ và cả nước trong nhiều thập kỷ, xứng đáng trở thành vở diễn kinh điển của sân khấu Nghệ An.

Không nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Trung Phong là tác giả đầu tiên trên đất Nghệ để lại được dấu ấn về cuộc thăng hoa tuyệt vời này.

3. Khai mở loại hình sân khấu dân ca kịch Ví Dặm

Đầu năm 1988, nhà thơ Lê Thái Sơn rủ tôi về Diễn Châu thăm Nguyễn Trung Phong.

Điều lạ là không thấy Nguyễn Trung Phong nói gì về cuộc đời làm nghệ thuật của ông. Câu chuyện chỉ rôm rả lên khi Lê Thái Sơn nhắc lại những kỷ niệm vui buồn của phong trào văn nghệ Diễn Châu những năm 60-70 của thế kỷ trước. Trời phú cho Nguyễn Trung Phong có tài năng nghệ thuật bẩm sinh, nhưng nguồn sữa nuôi lớn Nguyễn Trung Phong chính là cái nôi văn nghệ của quê nhà. Ông kể quanh năm suốt tháng xóm này xã nọ kêu viết cho họ bài ni bài tê, viết xong lại kêu đi dựng, viết bao nhiêu giờ cũng không nhớ hết.

Lê Thái Sơn xoay sang hỏi ông chuyện đưa dân ca vào kịch. Một thoáng lưỡng lự rồi Nguyễn Trung Phong thủng thẳng: Ung mi nhớ cho, hồi nớ kịch là chỉ nói, dân ca chỉ để hát. Mình có ý định to tát chi mô. Gọi Giáp (Nguyễn Trung Giáp - em con chú ruột của Nguyễn Trung Phong) sang trao đổi: giừ nói suốt nghe khô khan, hát mãi cũng nhàm chán, hay ta đưa bài hát vô thay lời nói? Giáp gật gù: Để thử cấy coi, được thì ta mần.

Dạo đó nhiều bữa quên ăn, nhiều đêm trằn trọc, trong đầu chỉ có tình huống, nút thắt, nhân vật, âm nhạc dân ca ví dặm. Làm lắm rồi quen, làm nhiều thêm kinh nghiệm nên càng viết càng nghĩ lắm trò diễn, thành đam mê khi nào chẳng rõ, lâu lâu vắng người nhờ lại thấy nhớ.

Lăn lộn trong thực tiễn của đời sống nghệ thuật quần chúng, Nguyễn Trung Phong cùng với vài ba tác giả cùng thời như Nguyễn Trung Giáp, Nguyễn Tiến Đang trở thành một trong số ít các tác giả góp công manh nha khai mở cho sự ra đời của loại hình sân khấu dân ca kịch ví dặm. Riêng ông lần lượt cho ra đời Đừng đi, Khi Ban đội đi vắng, Hạt lúa quê ta, Vẫn còn ra trận,…

Ông nói về truyền thống văn nghệ Diễn Châu và dân ca xứ Nghệ như một sự tri ân thành kính. Theo ông thì ông mãi mãi là đứa trẻ con, không thể là người lớn nếu không có nhiều lớp cộng sự luôn chia sẻ và giúp đỡ ông. Mỗi lần viết xong kịch bản ông lại mời các bạn diễn trao đổi, có người góp ý đến 4-5 lần, ông âm thầm tiếp thu, suy nghĩ và miệt mài chỉnh sửa chu đáo.

Nhắc lại chuyện ông sáng tác điệu Giận mà thương trong thời gian chỉ vài ba ngày, ông cười nhưng cả Lê Thái Sơn và tôi đều hiểu chuyện không đơn giản thế. Để có vài ba ngày làm mật, con ong Nguyễn Trung Phong đã phải bền bỉ và lặng lẽ đi tìm hoa mấy chục năm trời. Sự am hiểu sâu rộng dân ca Nghệ Tĩnh và sự từng trải của vốn sống đã rất dồi dào trong Nguyễn Trung Phong. Cảm xúc thăng hoa của tài năng chỉ là phút giây hiện hữu cho một giá trị Giận mà thương ra đời.

Nói vậy để biết rằng khi ghi nhận Nguyễn Trung Phong thì không thể tách ông với dân ca và phong trào nghệ thuật quần chúng của quê hương ông. Con đường nghệ thuật của Nguyễn Trung Phong bắt đầu men theo từ những điệu dân ca neo trong từng ngõ nhỏ, đường làng. Khi đã ra sân chơi chuyên nghiệp của cả nước, Nguyễn Trung Phong vẫn giữ căn cơ cái nền tảng đã làm ra sự khác biệt của riêng ông.

Đó là một trong những lý do để mỗi khi sân khấu có vở diễn của ông sáng đèn thì khán giả như luôn bị níu chân ngồi lại.

4. Nhân cách nghệ sỹ đáng trân trọng

 Nguyễn Trung Phong đặc biệt có sở thích ngồi viết trong khung cảnh bình yên nơi quê hương ông. Hồi đi làm ở Ty Văn hóa, có dịp là ông lại lọc cọc phóng xe về Diễn Minh, nơi có ngôi nhà bé nhỏ và tình cảm xóm làng ấm áp. Ông ngồi viết, nghỉ viết lại tìm bạn diễn ngồi hát, nghỉ hát lại vác cày vác cuốc ra đồng như một lão nông chuyên nghiệp. Tạo hóa cho ông cái gen thông minh, biết rộng hiểu sâu nhiều thứ nhưng càng biết ông càng học, càng học càng cầu thị lắng nghe. Cứ như thế Nguyễn Trung Phong bền bỉ tự bồi đắp để có cho mình một vốn liếng nghệ thuật đáng kính nể.

 Đời ông có lúc cũng nặng những ưu phiền, sao chiếu mệnh cho ông có vẻ không vượng lắm. Nhưng bản tính ông mộc mạc chất phác, chưa bao giờ thấy ông nói một tý quyền lợi cho mình. Cả đến khi bóng dáng ông đã cao cao trên sân khấu chuyên nghiệp, tác phẩm của ông đã lan tỏa khắp nơi thì trước sau ông vẫn là một cốt cách nông dân thực thụ.

 Một vài người có trăn trở hình như ai đó đã quên ông, ai đó đã không nghĩ tới một phần thưởng xứng đáng để ghi công cho ông.

Tôi lại nghĩ khác, không ai có thể quên được ông. Ông và những giá trị nghệ thuật của ông để lại sẽ trường tồn.

Chỉ có điều, hậu thế cũng nên mặn mà với ông hơn vì ông xứng đáng được đối xử chu đáo hơn thế.

Có thể, một bộ hồ sơ vinh danh Nguyễn Trung Phong chỉ cần nói rõ 4 giá trị như trên có lẽ không tổ chức nào, không cá nhân nào lại không like cho ông.

                                                                                          

 

 

 

 

 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576786

Hôm nay

2284

Hôm qua

2306

Tuần này

22099

Tháng này

223843

Tháng qua

130677

Tất cả

114576786