Những góc nhìn Văn hoá

Chủ nghĩa tư bản sản - tiêu (prosumer Capitalism) [kỳ 2]

...

BÓC LỘT TRONG CNTB CỦA NGƯỜI SẢN XUẤT VÀ TRONG CNTB CỦA NGƯỜI TIÊU THỤ

Theo Marx, nguồn chính của các “thành tựu”kinh tế của CNTB của những người sản xuất, ít nhất là từ góc độ nhà tư bản, chính là ởsựbóc lột giới vô sản. Có nghĩa là, người vô sản bị trả công thấp, thường là rất thấp, so với lợi nhuận mà nhà tư bản giành được từ những gì giới vô sản sản xuất ra. Đây chính là nguồn gốc của sự giàu có của nhà tư bản và nội lực của chế độ này khiến ngày càng nhiều người giành giật để trở nên nhà tư bản. Nói riêng, về phương diện lý luận, sự bóc lột giới vô sản là nguồn tạo ra giá trị thặng dư, hoặc là sự khác biệt giữa giá thành của sản phẩm và giá trị của các thành tố được tiêu thụ để tạo ra sản phẩm đó. Hơn nữa, giá thành của tất cả các thành tố ấy - là các phương tiện sản xuất như công cụ, máy, nguyên liệu - đều do lao động sản xuất ra. Giá trị này đúc rút từ, trong sự kết hợp với thời gian lao động (cũng là một phương tiện sản xuất nữa) tiêu phí trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Kết quả là, tất cả các giá trị của CNTB đến từ giới lao động (học thuyết về giá trị lao động), đồng thời chỉ có phần nhỏ của giá trị đến được tay giới vô sản dưới dạng đồng lương chỉ tạm đủ sống. Điều này dẫn Marx (1867/1967:218)tới đề xuất rằng “tỷ lệ giá trị thặng dư vì thế là biểu thị chính xác cấp độ bóc lột sức lao động bởi tư bản, hay người lao động bởi nhà tư bản”.

Khi người công nhân tiếp tục bị bóc lột bởi CNTB tiêu thụ, có thể cho rằng sự bóc lột của người tiêu thụ là nguồn có tầm quan trọng ngày một tăng của thành quả của CNTB và của lợi nhuận của hệ thống kinh tế. Dĩ nhiên là người tiêu thụ cũng bị bóc lột trong quá trình của CNTB của nhà sản xuất, nhưng mức độ của sự bóc lột này là tương đối nhỏ, và kỹ xảo khả dĩ bóc lột được người tiêu thụ là khá nguyên thủy. Cả mức độ và sự tinh vi của sự bóc lột người tiêu thụ tăng lên theo thời gian, nhất là trong thời đại CNTB tiêu thụ.

Sự bóc lột người tiêu thụ rất khác sự bóc lột công nhân. Khi người công nhân bị trả công ít hơn là giá trị mà họ sản xuất ra, người tiêu dùng (ít nhất, một cách tập thể) phải trả cho những sản phẩm ấy, thường là nhiều hơn là giá phải trả để sản xuất ra những sản phẩm ấy16. Nói theo thuật ngữ của Marx, khi mua các sản phẩm, họ phải trả (số tiền) nhiều hơn so với giá trị của các sản phẩm đó, bao gồm cả giá trị thặng dư của các sản phẩm này. Làm sao có thể buộc, trong bối cảnh của học thuyết của Marx, người tiêu dùng phải trả nhiều hơn so với giá trị sản phẩm mà họ mua? Trong khi Marx bác bỏ lý thuyết chủ đạo của các nhà kinh tế thời đó, ông lại thừa nhận rằng cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả. Giá cả thay đổi quanh một giá cơ sở quyết định bởi thời lượng lao động tiêu phí trong sản xuất ra các phương tiện sản xuất được dùng trong quá trình sản xuất, cũng như trong sản xuất ra chính sản phẩm đó.  

Vì thế, nhà tư bản có thể thao túng tương quan cung - cầu để tăng giá mà người tiêu thụ phải trả. Nhà tư bản cũng có thể giữ cho sản lượng thấp một cách giả tạo để tăng giá (Veblen, 1914/1964).Quan trọng hơn, cầu có thể được kích tăng trong một giải biến thiên rộng của nhiều cách thức khác nhau (xem ở dưới). Kết quả của những mưu đồ như vậy, đặc biệt là những nỗ lực thao túng cầu, người tiêu dùng (ít nhất ở quy mô tập thể) thường phải trả nhiều hơn, có thể là rất nhiều hơn, cho sản phẩm mình mua.

Như vậy, sự bóc lột công nhân và người tiêu dùng chủ yếu dựa trên nguyên tác của hai hệ thống tư bản (và trên lý thuyết về chúng). Sự bóc lột công nhân là có gốc rễ từ trong CNTB của người sản xuất và trong học thuyết trừu tượng (abstract - không thực tế) của Marx về giá trị, trong học thuyết về giá trị lao động, và về giá trị thặng dư. Cơ sở của sự bóc lột người tiêu dùng thuộc về CNTB của người tiêu thụ, cũng như trong học thuyết chủ đạo của các nhà kinh tế về cung và cầu, đặc biệt là sự thao túng cả hai khâu này hòng tăng giá hàng và giá dịch vụ dành cho người tiêu dùng. 

Dĩ nhiên đã có những cải tiến quan trọng trong lĩnh vực sản xuất của hệ thống TBCN kể từ chiến tranh thế giới II (xem ở dưới), nhưng rõ ràng đã có nhiều cách tân lớn hơn đã xáy ra trong mảng tiêu dùng. Điều này đặc biệt đúng đối với các mánh khóe liên quan đến thao túng cầu - như tiếp thị, quảng cáo, tạo lập các trang mạng tiêu dùng tân tiến (như Apple Store),hệ thống tín dụng, và lập thương hiệu. Các cải tiến trong cung như đặt hàng trên Internet, dịch vụ chuyển phát nhanh, và hệ thống giao nhận bằng kỹ thuật số, đang không chỉ phục vụ cho tăng cung, mà còn làm tăng tốc độ giao nhận hàng. Kết quả của các cái tiến như thế làm hệ thống tư bản có thể giảm chi phí, bán được nhiều hàng, giao hàng nhanh hơn, đòi giá cao hơn và bòn rút được lợi nhuận cao hơn từ tiêu thụ của người tiêu dùng.

Một cách tư duy khác về bóc lột trong CNTB của những người tiêu dùng là quá trình qua đó người tiêu dùng bị rủ rê (thông qua các mánh khóe nói ở trên) tiêu pha vượt lên mức tiêu dùng của các hàng nhu yếu phẩm giá thấp cần để tồn tại, và trở thành người tiêu dùng thái quá (hyperconsumer). Người tiêu dùng thái quá được dẫn dắt để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn là họ cần; phải trả hơn nhiều so với giá trị (hàng hóa) thực của các đồ họ mua sắm, và trong một số trường hợp đã cơi nới “két” tiền của mình để tiêu xài bằng cách vay nợ, để tăng khả năng chi trả các đồ mua sắm (theo cách tiêu dùng thái quá). Cũng từng có một số người tiêu dùng thái quá trong xã hội (CNTB) của những người sản xuất  (một tầng lớp nhàn hạ dính dấp với những tiêu xài hoang phí, phô trương, được Veblen [1899/1994]nêu, là một ví dụ). Đây là kết quả, phần nào, của việc thiếu, một cách tương đối, một thu nhập đủ cho chi tiêu. Thêm nữa, những chiêu trò quỷ quái [nhất] (gồm cả quảng cáo kiểu đương đại) được viện đến để xúi bẩy đông đảo người tiêu dùng vẫn còn chưa ra đời. Với sự phát triển và mở rộng không ngừng của những chiêu trò như thế, tiêu dùng thái quá đang trở nên phổ biến hơn trong xã hội tiêu thụ hôm nay.

Từ triển vọng của tiêu dùng thái quá, không chỉ những người tiêu thụ đang phải trả cho các sản phẩm nhiều hơn là giá trị thực của chúng (bao gồm cả trả trên giá trị thực, lẫn trả thêm cho giá trị thặng dư), mà họ còn bị xui khiến phải mua nhiều hơn là nhu cầu thực, bởi thế mà trả giá kiểu “bị bóc lột”, khi mua nhiều hàng hơn (so với nhu cầu thực).

Hơn nữa, họ có thêm khả năng mua nhiều hàng hơn nhờ vào một hệ thống tín dụng có độ tinh vi ngày một cao, cho phép họ tiếp cận nhiều tiền hơn, nhất là khi đợi khoản thu nhập sắp đến (Ritzer 2012).Thêm vào đó, ngày càng thuận hơn cho rất nhiều người tiếp cận nguồn. Điều này lộ rõ giai đoạn “tan chảy” về kinh tế bắt đầu năm 2008. Một khi có được tín dụng từ lúc đó (2008) trở nên khó khăn hơn, với một số ít người vẫn là khá dễ để có được tín dụng so với khoảng nửa thế kỷ về trước. Vậy là hệ thống tiếp thị và tín dụng đang làm việc theo kiểu chạy tiếp sức để đưa đường cho những ai tiêu dùng thái quá trả cho vật phẩm mình mua theo giá bị thổi lên.

Sẽ là thừa khi nói, kể cả các hệ thống sản xuất ngày càng hiện đại, sản xuất sẽ dai dẳng trong CNTB của những người tiêu thụ, và vì thế, sự bóc lột giới vô sản sẽ còn tiếp tục. Trên thực tế, khi các cải tiến trong nền kinh tế đang xảy ra trong lãnh địa của tiêu dùng, nhiều thay đổi đang xảy ra trong hệ thống sản xuất để lám sao bóc lột giai cấp vô sản được nhiều hơn. Sự cải tiến công nghệ đang có những minh họa rõ ràng, như việc sử dụng ngày càng tăng máy tính và người máy và nhiều dạng thức của thiết bị tiết kiệm sức lao động con người, cũng như sự tăng cường các nhân công làm bán thời gian (part - time). Năng suất cao hơn khiến khâu quản trị có thể đảm đương sản lượng thật cao hơn, với số lượng nhân công ít hơn. Sự đe dọa mất việc làm cho phép các quản trị gia đòi hỏi nhiều hơn ở công nhân viên nào họ tiếp tục thuê. Họ làm được điều đó nhờ nhiều nguyên cớ. Thứ nhất là do tỉ lệ thất nghiệp tương đối cao, điều có nghĩa là nhiều người sẽ sẵn lòng giành giật việc làm từ những ai không có khả năng hoặc không sắn lòng bắt kịp với những đòi hỏi (ngày một) cao lên. Thứ nữa, sự suy sút về quyền lực của các công đoàn và về năng lực của chúng (các công đoàn) trong bảo vệ công nhân khỏi những sức ép như vậy.Thứ ba, một nhân tố hầu như hoàn toàn không được nhìn nhận là những người sản - tiêu với tư cách người tiêu thụ (p-a-c) đang thực hiện khối lượng lớnhơn là công việc một thời những ai được trả lương (gồm cáckhâu đặt hàng và thanh toán cho tất cả các dạng sản phầm, nay nhờ[thanh toán] trực tuyến/online chứ không dựa vào nhân công phải trả lương làm việc này nữa), họ (khách hàn- ND chú) làm việc đó mà không được trả công. Kết quả của những thay đổi như thế, khâu quản trị đã nâng cao được năng lực (khai thác nhân lực), tới một cấp độ ngày một cao về năng suất (và lợi nhuận) đối với một lực lượng lao động được trả lương (có nhân số) ngày càng ít hơn.

Như vậy, đối lập với CNTB của những người sản xuất - một hệ thống bóc lột về kinh tế đơn (một tròng), tập trung vào bóc lột những người công nhân, CNTB của những người tiêu dùng có thể được xem là hệ thống bóc lột vềkinh tế kép (hai tròng). Nói cách khác, trong CNTB của những người tiêu thụ, nhà tư bản kiếm được lợi nhuận đáng kể từ khai thác cả công nhân (nhờ vẫn duy trì được nhiều, nếu không nói là phần lớn giá trị/giá trị gia tăng do người công nhân sản sinh ra) lẫn người tiêu thụ (thông qua thao túng cung - cầu đến mức người tiêu dùng phái trả giá cho các sản phẩm vượt lên giá trị thực của nó, bao gồm cả giá trị gia tăng của sản phẩm, cũng như nhờ tạo ra được những người tiêu dùng thái quá - những ai mua nhiều hơn nhu cầu và hẳn là nhiều hơn sức mua của họ). 

 

MỘT HÌNH THỨC MỚI VÀ CẤP ĐỘ MỚI CỦA BÓC LỘT TRONG CNTB CỦA NGƯỜI SẢN - TIÊU

Trong CNTB của người sản - tiêu, chúng ta vừađi qua (các khái niệm) bóc lột đơn, và bóc lột kép cả người sản xuất lẫn người tiêu thụ, sang phối hợp cả hai mặt của bóc lột (synergistically double exploitation). Sự bóc lột theo cả hai cách đối với người sản - tiêu thường xảy ra trong các bối cảnh khác nhau.

Những người sản - tiêu trong thân phậnngười sản xuất  (p-a-p) bị bóc lột tại các nhà máy và văn phòng, trong khi những người sản - tiêu trong thân phậnngười tiêu thụ (p-a-c) chủ yếu bị bóc lột tại các thương xá. Thêm vào đó, sự bóc lột đối với những p-a-c and p-a-p xảy ra vào những thời gian khác nhau. P-a-p bị bóc lột chủ yếu vào giờ làm việc, trong khi p-a-c bị bóc lột chủ yếu là sau giờ làm và trong những ngày nghỉ cuối tuần. Tới đây, sự bóc lột đối với người sản - tiêu (cả phận p-a-p lẫn p-a-c) đều tăng lên, tại các nơi chốn tương tự (như trên mạng, tại gia, cũng như trong các thành tố của xã hội thợ thuyền) và thường xảy ra cùng lúc. Có nghĩa là sự bóc lột đối với p-a-p và p-a-c là đan xen vào nhau, tạo nên một quan hệ “phối hợp”, đẻ ra một hình thức mới, đạt một cấp độ chưa từng có, của bóc lột.

Dĩ nhiên, p-a-p và p-a-c từng đan xen vào nhau cả trong buổi bình minh của nhân loại, chủ yếu từng người ai sản xuất ra cái gì tiêu dùng cái nấy. Tuy thế, cái còn chưa có trong thời ấy, cho tới những thời kỳ lịch sử gần đây, là hệ thống kinh tế được thiết kế để bóc lột đồng thời cả những quá trình ấy (sản xuất, tiêu thụ) và cả khâu sản - tiêu nói chung. Ban đầu, CNTB tập trung vào bóc lột khâu sản xuất, nhưng từ giữa thế kỷ 20 sự bóc lột khâu tiêu thụ đã đạt một nấc quan trọng. Trong cả hai trường hợp, các hệ thống và các kỹ xảo được phát triển để bóc lột hoặc người sản xuất hoặc người tiêu dùng, và bóc lột từng loại trong họ với cấp độ ngày càng tăng. Với những cải tiến (công nghệ) trong cả hai lĩnh vực này chúng (các hệ thống và các kỹ xảo bóc lột) được phối hợp còn chặt chẽ hơn để giáng lên những đối tượng nào có thân phận sản - tiêu rõ rệt hơn. Chính sự tương tác giữa hai tập hợp các cải tiến ấy đã dẫn tới sự bóc lột kép mang tính phối hợp đối với người sản - tiêu hôm nay.

Ví dụ về sự bóc lột kép có tính phổi hợp đối với p-a-c and p-a-p được nhận thấy ở nhiều hoạt động tự phục vụ, gồm các trạm bơm nhiên liệu tự phục vụ, các ki ốt bán hàng tự động trong các cửa hàng fast-food, các ATM, khâu tự thanh toán hàng tại (cửa ra) của các siêu thị, và tự nhận phòng vàtựgiao phòng tại các khách sạn. Trong tất cả các hệ thống như vậy, công việc một thời được làm bởi các nhân viên được trả công nay được thực hiện bởi các p-a-c - những người phải làm công việc như thế, nhưng lại không được nhận tiền công. Công việc như thế nhiều khi được các p-a-c lựa chọn trên cơ sở tự nguyện, nhưng trong các trường hợp khác, họ có ít lựa chọn, do không có mặt những nhân công được trả lương, hoặc do chế độ mà họ sống trong đó buộc họ phải làm như vậy (chẳng hạn sử dụng ATM).

Khi làm như vậy, họ bị bóc lột như những người sản xuất, nhưng cũng xảy ra việc họ, cùng lúc, bị bóc lột như người tiêu thụ bởi, chẳng hạn, phải trả cao hơn cho xăng, cho dịch vụ ngân hàng, cho tạp phẩm, cho vé máy bay, và cho ăn nghỉ tại khách sạn. Sự bóc lột kép có phối hợp là rõ nhât trong các trường hợp như thế vì có một mức độ gần như nhau của tiêu thụ và sản xuất bị bóc lột, và sự bóc lột của cả hai khâu này (sản xuất và tiêu thụ) đang xảy ra, gần như đồng thời. Hơn nữa, năng lực để bóc lột qua các khâu tiêu thụ và sản xuất đã được cải tiến và tăng cường qua nhiều năm bởi những thăng tiến trong CNTB của những người sản xuất và CNTB của những người tiêu thụ. CNTB sản - tiêu nay đang trục lợi được từ những bước tiến ấy, và còn đóng góp vào đó, nhờ kiến tạo, cải tiến và tăng cường năng lực bóc lột người sản – tiêu.

Phản đề đối với ý tưởng rằng những người sản - tiêu bị bóc lột, nếu không nói là bị bóc lột kép và một cách có phối hợp, (phản đề như thế) cho rằng phần thưởng họ được hưởng do đã hoàn thiện công việc của mình, là giá rẻ nhất đã được chào cho mình (hoặc giá gốc bởi vì họ là “người tiêu dùng thông thái”) hơn là được nhận tiền công. Vậy là, người sản tiêu đơn thuần là được “trả công”, hay ít nhất được phần thưởng, khác với người sản xuất (và người tiêu dùng) trong quá khứ. Họ làm công việc gắn với

các dạng thức đương đại của sản - tiêu vì họ tin rằng họ đang được hưởng giá thấp hơn, và những khoản tiết kiệm được là phần thưởng xứng đáng cho công việc mà họ phải làm. Đây dĩ nhiên là một khả năng, một luận chứng mà những ai đang sở hữu các tổ chức tạo lợi nhuận sẽ tận dụng.

Tuy nhiên, dẫn chứng mạnh nhất và rõ rệt nhất, rằng người sản - tiêu thường không tiết kiệm được tiền, đã được tìm thấy trong các trường hợp khi các hệ thống tự phục vụ mới cộng sinh với các hệ thống cũ chứa những nhân công được trả lương để cung cấp dịch vụ cho những người tiêu thụ. Một ví dụ cực đoan là ATM, nơi người sản tiêu phải trả một khoản phí sẽ không phải trả nếu được họ trông cậy vào người thu ngân (ở ngân hàng). Ở đây người sản - tiêu phải trả nhiều hơn là người tiêu dùng truyền thống. Điển hình hơn, là trường hợp các lối ra làm thủ tục thanh toán ở các siêu thị và trong nhiều điểm kinh doanh bán lẻ. Một số người mua hàng đi ra bằng các lối ra (tự động) làm thủ tục thanh toán, trong khi những người khác dùng các lối ra có bố trí các nhân viên thu ngân. Những người dùng cách tự thanh toán đã làm công việc (chẳng hạn scan các hàng đã mua) là việc được các nhân viên thu ngân thực hiện tại các lối ra truyền thống. Kết quả là những ai sử dụng cách tự thanh toán đã làm miễn phí những gì nhân viên làm để lĩnh lương tại các lối ra thông  thường. Hơn nữa, những sản - tiêu nào sử dụng lối ra tự thanh toán không được nhận khoản giảm giá cho công việc của họ, mà phải trả khoản tiền như của những khách dùng các lối ra truyền thống. Thường các siêu thị tiết kiệm được chi phí (nhờ thế mà tăng lợi nhuận) bởi dạng làm không công nói trên và nhờ giá thành lao động thấp đi xuất phát từ nhu cầu tuyển lao động phải trả lương giảm đi. Tuy nhiên, các siêu thị đã không chuyển các khoản tiết kiệm được ấy cho những người sản - tiêu đã làm những công việc đó, những người này đã làm những việc đó không công.

Tuy nhiên, cũng có thể tất cả những người mua (cả những người sản - tiêu lẫn những người tiếp tục tiêu thụ theo cách truyền thống được những nhân công, mà siêu thị trả lương, phục vụ) thường được chào giá thấp hơn bởi vì những công việc không phải trả công cho những người sản - tiêu. Trong trường hợp này, những người sản - tiêu đã trợ cấp, xét theo một khía cạnh, cho những người tiêu dùng truyền thống (nay tự dưng được hưởng lợi/free riders), và không có lợi nhuận ròng nào vào túi chủ của các siêu thị kia.

Sẽ là an toàn khi cho rằng các hình thái đương đại của sản - tiêu đã được triển khai bởi các loại kinh doanh vì lợi nhuận được áp dụng để cải thiện định mức lợi nhuận của bản hãng. Sản - tiêu có thể được xem như một trong những tiện ích (mà các tiện ích khác bao gồm một dải rộng những công nghệ tiết kiệm lao động; trên thực tế, sản - tiêu có thể xem như một tiện ích tiết kiệm những lao động phải trả lương), mà những tiện ích ấy được triển khai để làm giảm giá thành của lao động. Các doanh nghiệp có thể duy trì được tất cả những thu hoạch về kinh tế nhờ giảm giá thành lao động, nói riêng, bằng cách chuyển công việc được làm bởi các nhân công được trả lương sang những người sản - tiêu không được trả lương. Tuy nhiên, cũng có khả năng những người tiêu thụ (chính là những ngưởi sản - tiêu) cũng được chia sẻ, chí ít ở một mức độ nào đó, những thu hoạch nói trên. Trong bất cứ trường hợp nào nêu trên, dồn việc sang những người sản - tiêu có liên quan đến sự tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp liên đới. Trên thực tế, khó mà tin tưởng rằng các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận lại chịu gánh vác công việc và các khoản trả lớn liên quan đến việc dịch chuyển (kinh doanh) theo hướng (áp dụng) các công nghệ và hệ thống định hướng vào người sản - tiêu, nếu họ không lường trước được rằng, kết cục, sẽ giành được không chỉ việc trả giá (nhất là cho giá thành lao động) thấp hơn, mà còn nhận được một lợi nhuận cao hơn.

Ngay cả nếu ai đó vẫn sẵn lòng thừa nhận rằng đây là một cuộc chơi hai bên cùng thắng (cho cả những người sản - tiêu và những doanh nghiệp), thì vẫn rõ ràng rằng những doanh nghiệp là bên thắng to trong thế giới mới của các công nghệ tự phục vụ và nơi các dạng mới của sản - tiêu đang được trở thành hiện thực bởi những công nghệ mới này.

Không chỉ những người sản - tiêu (cũng tức là tất cả chúng ta) đều bị bóc lột kép một cách có phối hợp, mà hầu như hoàn toàn, không biết đến sự bóc lột này.

Điều này xảy ra, phần nào, là do sự bóc lột trên được giấu diếm bởi các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa. Kết quả là những người sản - tiêu không thể biết, họ giành được gì về kinh tế, và nỗ lực của họ đóng góp vào việc tăng lợi nhuận ra sao. Tất cả những thông tin này được dấu kín trong các bản kết toán của tập đoàn, thường những người sản - tiêu không được truy cập, hay nhận thức được. Tuy nhiên, điều mà những người sản - tiêu vẫn thấy là họ bị bóc lột. Sau cùng, họ biết rằng họ thường phải trả tiền để sử dụng ATM và không nhận được một khoản chiết khấu do đã tự làm công việc thanh toán tiền mua hàng trên lối ra (ở siêu thị), và các công việc tương tự. Họ biết (tại siêu thị) họ trả tiền tại lối ra tự thanh toán một khoản như họ phải trả tại lối ra thông thường.

Tuy nhiên, nhiều người vẫn sử dụng, thậm chí thích lối ra tự thanh toán hơn, Họ làm như vậy không phải để tiết kiệm tiền, mà do nhiều lý do khác. Chẳng hạn, lối ra này có thể ngắn hơn, và họ có thể di chuyển ở đây nhanh hơn. Cũng có thể những người này tin rằng họ có thể scan, có thể tự thanh toán, có thể tự đóng gói hàng của mình nhanh hơn, hiệu quả hơn là những nhân viên thu ngân. Điều này có vẻ như xui khiến bởi một số lượng ít hơn (và một trình độ thấp hơn) của các nhân viên thu ngân đứng sau các quầy, và phần nào bởi những người sản -  tiêu (sắn lòng) lao động không được trả công. Thêm vào đó, scan các hàng mua được khá giống như các hành động trong xã hội ngày một bị máy tính hóa hơn của chúng ta. Những người sản - tiêu không chỉ biết làm những chuyện đó ra sao, mà họ còn có xu hướng thích làm như vậy theo cách mà họ thưởng thức các trò chơi điện tử các loại. Thêm vào đó, việc đi siêu thị với họ có vẻ như một cuộc chơi (hoặc một kiểu vừa làm vừa chơi [Kuchlich 2005].  Giới chủ các siêu thị cảm động khi chứng kiến những gì mà những người sản tiêu đang làm, vì điều đó đóng góp những bằng chứng là khách hàng đang không xem những điều ấy là một sự bóc lột.

Làm sao người sản - tiêu có thể làm gì được với sự bóc lột đó, một khi họ không hay biết về quá trình mà qua đó lại còn cảm thấy thích thú?

Trong trường hợp của sản xuất, hoặc người sản - tiêu trong thân phận người sản xuất, sự bóc lột là rõ ràng. Trên thực tế, điều này đã giản ước thành các công thức toán trong tác phẩm của Marx. Những công thức ấy dựa trên yếu tố là các công nhân sản xuất ra nhiều, nhưng chỉ được trả công một phần nhỏ những gì họ đã sản xuất. Mặt khác, công nhân làm nhiều giờ trong ngày, nhưng chỉ có một phần nhỏ trong thời gian đó cần phải trả lương cho họ; những thu hoạch do thời gian làm việc còn lại chạy vào túi nhà tư sản. Phần nào trong khoản thu sẽ được chi trả những tổn phí, nhưng quan trọng hơn, chúng trở thành nguồn của giá trị thặng dư (hoặc nói theo thuật ngữ kinh tế thông thường hơn, là lợi nhuận), chính là mục tiêu và nền tảng của tư bản chủ nghĩa. Về mặt lý thuyết, bóc lột rõ ràng hàm ý tiêu cực, và được hỗ trợ bởi một sự thiếu những cảm nhận tích cực về công việc trong tâm tưởng công nhân, bởi việc công nhân bị tách khỏi công việc (ý nói thất nghiệp), bởi sự nổi loạn của họ chống công việc (quá sức).

Sự bóc lột là ít rõ rệt hơn trong sản - tiêu với tư cách là tiêu thụ p-a-c. Nó khó được giản ước tới một công thức toán đơn giản như trong trưởng hợp p-a-p. Điều đó không có nghĩa là không thể kiểm chứng và đo đạc quan niệm rằng những người tiêu dùng thái quá (hoặc p-a-c) đang tiêu thụ nhiều hơn là họ (thực sự) muốn, và nhiều hơn là khả năng chi trả họ có được nếu không vay nợ. Tuy nhiên, một phép đo nhiều kích thước sự bóc lột đối với p-a-c sẽ khó được tạo ra và kiểm chứng, so với trường hợp đơn giản hơn là (đo đạc) sự bóc lột công nhân. Làm sao chúng ta có thể kiểm nghiệm và đo đạc việc các p-a-c tiêu thụ nhiều hơn là họ muốn, nhiều hơn là họ cần, và nhiều hơn là họ có thể chi trả. Nhất là khi còn có các câu hỏi khó tiếp theo như: “Nhiều hơn” trong mỗi thành tố của tiêu pha thái quá nghĩa là gì? Rồi, làm sao có thể biết những người tiêu dùng thái quá muốn, cần, có thể trang trải được, cái gì, bao nhiêu.

Cái cũng làm cho p-a-c khó tư duy về việc họ bị bóc lột ra sao, là thực tiễn rằng, trong khi cảm tưởng của giới vô sản (p – a – p) đối với nền sản xuất thường tiêu cực, những người tiêu thụ (p-a-c)lại có cảm tưởng tích cực một cách đặc thù, nếu không nói là thỏa mãn một cách rõ rệt, về quá trình tiêu xài, và về những hàng hóa và dịch vụ mà họ chọn từ đó (từ khâu tiêu dùng, để hưởng thụ). Nói cách khác, có thể dễ thấy răng công nhân thường bị cách ly (khỏi sự thật), nhưng sẽ khó, hoặc không thể áp dụng những thuật ngữ này (ý nói p-a-p, p-a-c)  ít nhất về tâm lý, (để bồi dưỡng nhận thức) cho các p-a-c. Hơn nữa, về cơ cấu, điều có thể khằng định là có những p-a-c bị chia rẽ, bị cách ly khỏi các p-a-c khác, khỏi quá trình tiêu thụ, khỏi các sản phẩm họ tiêu dùng, và sự tình thế này (của p-a-c) cũng giống như những p-a-p bị chia rẽ, bị cách ly khỏi các p-a-p khác, khỏi quá trình sản xuất, khỏi các sản phẩm họ làm ra, và thân phận thực (p-a-p) của họ.

Trong quan điểm của Marx, giới vô sản không biết về sự bị cách ly gây bởi cấu trúc của CNTB. Họ đau khổ vì nhận thức sai lầm xuất phát từ thiếu hiểu biết về thực tại sâu xa trong công việc của họ và về tình cảnh của giai cấp họ trong xã hội. Tuy thế, giới vô sản (chứ không phải là các nhà tư sản) có tiềm năng vượt lên nhận thức sai lầm đó và đạt nhận thức giai cấp, cùng với một hiểu biết rõ rệt hơn về tình cảnh của họ. Tuy nhiên, sẽ là khó, nếu không nói là không thể, để mường tượng rằng những người tiêu thụ hiện nay bị chia rẽ và bị phân biệt (hoàn toàn khác với một giới vô sản đồng nhất hơn) sẽ tiến được tới sự đồng quan điểm như vậy.

Sẽ còn nản chí hơn khi nghĩ rằng những sản  - tiêu (prosumers) cân bằng hơn có những cảm nhận tiêu cực về khía cạnh các hoạt động của mình bị bóc lột, về việc mình bị cách ly. 

Điều này là rõ rệt trong trường hợp các sản - tiêu điển hình trên Internet hôm nay, đặc biệt là trong các trang xã hội Mạng (Facebook, Twitter, Pinterest, v.v.).Đa số trong các trang mạng này rõ ràng đang dựa dẫm ghê gớm vào những người sản - tiêu có (tư duy) cân bằng hơn là dựa vao những p-a - p hoặc p-a-c. Có nghĩa là, nội dung đang tồn tại trên các site này (viết trên tường của Facebook, các tweet, rồi những tin đính trên Pinterest) được sáng tác bởi những người sản - tiêu. Cùng lúc chính những người sản - tiêu này, cùng những người giống như họ, lại tiêu thụ các nội dung đó. Rồi những người sản xuất (p-a-p) tại một thời điểm lại được xem như những người tiêu thụ tại thời điểm khác, và ngược lại. Gần như những ai tham dự vào những quá trình và những hệ thống này đều có cảm tưởng tốt về chúng. Thật khó mà nghĩ rằng các người dùng đang bị cách ly khỏi những trang mạng này, vì họ chịu trách nhiệm đáng kể về sản phẩm của nội dung đang tồn tại trên mạng (cho dù họ có thể cách ly khỏi tập đoàn tạo ra và duy trì những trang mạng này, cũng như khỏi cách thức mà các trang mạng này được xây dựng).

 Điểm then chốt ở đây là dù họ cảm thấy thế nào, các sản - tiêu, và cả quá trình sản tiêu nữa, tồn tại ở tâm điểm của một giai đoạn mới của CNTB - đó là CNTB của người sản tiêu - cái đang kế tục CNTB của người sản xuất và CNTB của người tiêu dùng. Trong khi các dạng có trước bao gồm cả khâu sản - tiêu lẫn những người sản tiêu, là những p-a-p (chủ yếu trong CNTB sản xuất) và p-a-c (chủ yếu trong CNTB tiêu thụ), người sản - tiêu can dự vào một quá trình cân bằng hơn của sản xuất và tiêu thụ, đang ngày càng trở thành nhân tố lấn át ngày càng mạnh trong CNTB sản - tiêu.  

p-a-p: Các giai đoạn sản xuất và tiêu thụ…    “Cân bằng”    Sản xuất và tiêu thụ…           P-a-c: Các giai đoạn tiêu thụ và sản xuất

HÌNH 2. Giải liền Sản - tiêu với các giai đoạn của Sản xuất và các GĐ của Tiêu thụ

Ghi chú: P-a-p: Sản - tiêu với tư cách Sản xuất; P-a-c: sản - tiêu với tư cách Tiêu thụ.

Trong bối cảnh ấy, chúng ta cùng xem xét tiếp nhận định về việc những người sản - tiêu bị bóc lột kép và có phối hợp, Tâm điểm là các p-a-c vì chính ở đây chúng ta nhận thấy những thay đổi quan trọng nhất dẫn tới sự bóc lột kép và có phối hợp. Như đã nói trên, không những những cách thức bóc lột p-a-p ngày càng nặng nề hơn(chẳng hạn, áp dụng các công nghệ mới và các mánh khóe để làm sao công nhân càng ít đi nhưng công việc lại làm được nhiều hơn [Kristal 2013]) không phải là mới, mà biến đối thực sự có tính cách mạng trong bóc lột đã nhắm vào p-a-c. Hiện đã có những thay đổi quan trọng trong các cách mà p-a-c vừa tiêu dùng vừa sản xuất, và cái còn quan trọng hơn, là mối tương quan giữa các quá trình đó.

Các biến đổi giữa các p-a-p là kém hoành tráng hơn nhiều, bởi vì họ đã lâu rồi bị bóc lột cả trong các thời kỳ sản xuất và các thời kỳ tiêu thụ những gì họ làm. Có nghĩa là họ đã bị bóc lột cả khi họ sử dụng (chi dùng) những gì cần cho họ để sản xuất bất cứ thứ gì, và cũng đã biết tường tận và đã phân tích đầy đủ về chuyện họ bị bóc lột ra sao, khi sản xuất những thứ từ cái họ vừa tiêu dùng. Trên thực tế, cả hai việc làm này đều là khó, nếu không nói là không thể, phân biệt rạch ròi khỏi nhau. Bất chấp khâu tiêu dùng là cố hữu, sản xuất và tiêu thụ thường được xếp cùng dưới tiêu đề sản xuất. Kết quả là chúng ta được dẫn dắt tới việc xem p-a-p như sản xuất, và quan trọng nhất là, như bài viết này đã đề cập ở trên, chúng ta không nhận thấy rằng sản xuất cũng dính dấp với tiêu thụ, và trên thực tế, được nhận thức tốt hơn dưới dạng sản - tiêu.

Như vậy, ngay cả khi chúng (SX và tiêu dùng) đan xen với nhau không đứt quãng, chúng ta cần phân biệt các giai đoạn tiêu thụ và giai đoạn sản xuất của p-a-p (cũng như p-a-c) (xem Hình 2). Trong khâu p-a-p, những nhân tố dính líu vào (tiêu biểu là công nhân) tiêu thụ những gì cần để sản xuất (nói chung) cũng như là để sản xuất ra những gì (hàng hóa, dịch vụ,v.v.) bằng những gì chính họ vừa tiêu dùng. Trong việc này, chúng ta đang phân biệt giữa thời gian và quá trình mà trong đó, p-a-p tiêu thụ và sản xuất. Ngoài sự phân biệt mang tính khái niệm, có thể đề xuất rằng bóc lột xảy ra trong các giai đoạn của quá trình p-a-p. Có nghĩa là công nhân được trả công ít hơn là họ đáng được hưởng, cả trong tiêu thụ những gì là nguyên liệu, lẫn trong sản phẩm dạng hàng hóa, từ các nguyên liệu đó.

Những người p-a-p cần đến cả thời gian và năng lượng để sản xuất và tiêu thụ trong quá trình sản - tiêu. Chẳng hạn, khi đậy nắp trục bánh xe trong lắp ráp ô tô, không chỉ cần đến thời gian và sức lực để đặt cái nắp vào trục bánh (sản xuất), mà còn phài dỡ cái nắp này từ chỗ nó được bảo quản (tiêu thụ), Sự khác biệt này có vẻ tầm thường, nhưng nó là quan trọng đối với luận chứng chính về sản - tiêu, và đối với một thực tế là bóc lột đã xảy ra cả ở giai đoạn sản xuất lẫn giai đoạn tiêu thụ của p-a-p.

Khác biệt tương tự cần được nêu cho trường hợp các p-a-c, và trong trường hợp này có những hậu quả lớn hơn, nhất là trong thế giới hôm nay. Có một điều đã biết, nhất là từ góc độ  chịu ảnh hưởng của Marx, rằng các p-a-p bị bóc lột và tất cả những gì được phát biểu ở trên về điều này được xem là mới, là có hai thời kỳ trong quá trình này, không thể phân biệt rành rẽ khỏi nhau. Trong khi chúng ra ít khi xem những p-a-c vừa là những người tiêu thụ vừa là những người sản xuất, chúng ta hầu như không nghĩ đến việc họ bị bóc lột. Tuy nhiên, không khó để tư duy về việc các p-a-c bị bóc lột trong các giai đoạn tiêu dùng của quá trình sản - tiêu. Chẳng hạn, không khó để nhận thức việc họ phải trả nhiều hơn khi họ tiêu dùng (mua sắm). Thật vậy, bản chất của CNTB tiêu thụ là buộc người tiêu dùng phải trả thật nhiều cho các sản phẩm và dịch vụ, trong khi chi phí sản xuất và khâu bán hàng đã được rút xuống mức cực tiểu.

Điều khó mà nghĩ đến là các p-a-c với thân phận là những nhà sản xuất, hay như đã gọi trước đây, là những “khách hàng phải làm việc” và bị bóc lột trong giai đoạn sản xuất của toàn quá trình. Những gì tôi tư duy trước đây về chủ đề này là công trình của tôi về McDonald hóa xã hội (Ritzer 1983, 1993)trong một thảo luận về cách mà các nhà hàng ăn nhanh “đẩy khách hàng vào guồng công việc”. Dĩ nhiên là quá trình như thế đâu phải do các nhà hàng ăn nhanh khám phá ra. Khách hàng luôn phải làm việc trong các bối cảnh nhà hàng (chẳng hạn, thường phải đọc và đặt món từ một thực đơn), và đây là một cả một truyền thống lâu năm về gọt rũa và phát triển qui trình này. Chẳng hạn, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các quán ăn tự phục vụ đã khiến các khách hàng thực hiện một loạt những công việc bằng sức mình, chẳng hạn như tự lấy khay, dụng cụ ăn, và khăn ăn; xếp thành hàng và chen nhau để lấy được thức ăn mà họ muốn, sau đó trả tiền tại máy đếm tiền ở cuối hàng (Hardart and Diehl 2002). Điều quan trọng là cần nhớ rằng khách trong các hiệu ăn truyền thống không được yêu cầu phải làm những việc này. Trái lại, việc này được hoàn thành bởi những nhân viên được trả tiền của các restaurant này: những người hầu bàn và những người dọn bàn.

Có một loạt những cảm nhận sâu hơn về việc p-a-c trong thân phận người sản xuất (hay khách hàng trong thân phận người làm công). Thứ nhất, họ hình thành (produce - sản xuất) nhận thức và nguyện vọng về những sản phẩm khác nhau (gồm cả một món ăn tại quán tự phục vụ; chẳng hạn, Big Mac tại McDonald), trước khi họ bước vào một bối cảnh mà họ có khả năng để tiêu thụ chúng. Về mặt truyền thống, một nhận thức như thế được sản xuất khi những p-a-c chạm trán với ai đó vừa tiêu thụ cái mà họ cho rằng họ cũng muốn có. Trong bối cảnh đương đại, sản xuất ra những nguyện vọng như thế còn dễ xuất hiện trong khi chạm trán với quảng cáo về các sản phẩm khác nhau. Một khi nguyện vọng như thế được sản xuất, những p-a-c cần sản xuất những hành động cần có để tới các địa điểm đã xây cất sẵn (ý nói thương xá) hoặc truy cập vào trang điện tử nơi các sản phẩm này được chào bán. Khi tới được đó, những nguyện vọng ban đầu cần được tái sản xuất (hoặc chỉnh sửa) và chuyển sang dạng các bước cần thiết để mua sắm sản phẩm này. Nếu tất cả những điều này được thực hiện trong quán ăn tự phục vụ hoặc quán ăn nhanh là xong, thì còn nhiều việc sẽ phải làm nữa đối với khách hàng sử dụng dịch vụ giao hàng qua cửa kính xe hơi tại một quán ăn nhanh. Trong số những việc cần làm khi đó là đặt hàng tại một điểm khi xếp hàng vào quán ăn nhanh, và nhận hàng tại một điểm khác, lái xeđikhỏi đó cùng suất ăn, và xử lý những thứ còn lại sau khi ăn (coi như tham gia vào khâu xử lý rác và làm giúp cho quán ăn nhanh công việc và chịu chi phí [mà lẽ ra chủ quán] cần trả cho người làm công việc này.

Có nhiều những quá trình (ý nói khai thác khách hàng) như thế xảy ra ở các dạng vật thểcủa tiêu thụ đương đại, chẳng hạn như Wal-Mart. Thứ nhất, có một nguyện vọng đối với một sản phẩm đặc biệt được chào bán tại Wall - Mart và (có nhiều)nhu cầu sẽ được tạo ra. Quan trọng đối với Wal-Mart, nói riêng, là nguyện vọng sắm sản phẩm ấy tại đó, chứ không phải là tại một doanh nghiệp cạnh tranh (với Wal-Mart), cũng cần được tạo ra. Thứ hai, là chuyến đi, thường khá xa, tới Wal - Mart và cuộc thương lượng tại nơi đỗ xe và tại lối vào khu mua sắm. Thứ ba, một khi đã vô một thương xá to đùng và giống một mê cung như thế, khách hàng cần phải thuê xe chở và tiến về phía trước tìm những gì mà họ tới đây vì chúng. Chắc chắn là họ sẽ nhận thấy và nhặt cả những sàn phẩm mà họ không trù liệu sẽ mua khi họ bước vào siêu thị. Thứ tư, sau khi đã nhặt đủ những gì cần, họ phải trả tiền cho những thứ đó, và làm ngày càng nhiều hơn những công việc tự thân tại làn ranh tự làm thủ tục thanh toán.  Sau đó, những hàng đã sắm thường phải được vận chuyển tới nhà mình, nơi các công việc lại phát sinh thêm như bốc dỡ hàng, và lắp trọn vẹn các chi tiết (trong trường hợp, chẳng hạn như mua hàng mà IKEA đã chào) của sản phẩm. Các bước khác cũng cần làm để sử dụng, và trong một số trường hợp là dùng hết ngay những gì đã mua. Trong công đoạn này của quá trình (mua sắm đương đại), các p-a-c mất công làm cái việc kiến giải – đánh giá lại những cảm nhận đã dẫn tới nguyện vọng ban đầu là mua sản phẩm này. Một khi sản phẩm đã dùng xong (dùng hết, vứt, hoặc đưa lại cho một nơi bán hàng đã qua sử dụng), một đánh giá chung cuộc được đưa ra, sẽ dẫn đến một quyết định có mua nữa hay không sản phẩm này, hoặc cái tương tự. Nếu đánh giá là tích cực, quá trình này lại được tiến hành lần nữa.

Những điều trên không hơn gì một phác thảo ngắn về nhiều hành động có thể nhận thấy tạo nên quá trình sản xuất của p-a-c. Nếu vậy, giai đoạn tiêu thụ có ý nghĩa thế nào, và việc các p-a-c trải qua thân phận người tiêu dùng gây cảm nghĩ gì? Có nhiều câu hỏi dễ trả lời hơn, vì p-a-p chính là những ai chúng ta cũng coi là người tiêu thụ, và mọi sự quá rõ ràng là họ dính dấp đến quá trình tiêu thụ. Nhiều trong đó đã được mô tả ở trên như quá trình sản xuất (tức là các hành vi liên quan trong sử dụng sản phẩm, kể cả các sản phẩm sử dụng hết ngay), đều dính dáng đến, nếu không nói là không thể tách, khỏi khâu tiêu dùng, hoặc nói theo thuật ngữ của bài này, khỏi khâu tiêu thụ của p-a-c.

Tuy nhiên, một sự phân biệt có thể nêu giữa các bước được làm để sản xuất ra sự tiêu thụ, và các bước nằm ngay trong khâu tiêu thụ. Chẳng hạn, một người sản xuất (produce - trình diễn) những bước khác nhau trong việc ăn một bát hạt ngũ cốc (biểu lộ nguyện vọng về một loại ngũ cốc nhất định, mua nó, mang về nhà, bảo quản nó, lấy hộp ngũ cốc từ cốp xe và sữa từ tủ lạnh, lấy một cái bát và thìa, trộn ngũ cốc với sữa trong bát) cùng lúc với ai đó đang tiêu dùng loại ngũ cốc này trên thực tế. Dù họ có đang tách khỏi nhau về thời gian hay địa điểm, các hành vi sản xuất và tiêu thụ cần phải được phân biệt để làm rõ rằng cả hai khâu này xảy ra trong p-a-c.

Với các p-a-c, những thay đổi vật chất và rõ rệt trong CNTB đương đại đã xảy ra trong khâu sản xuất (không được trả công) trong hoạt động của họ (p-a-c). Điều này liên quan đến công việc mà các p-a-c làm trong khung cảnh vật chất (chẳng hạn trong phục vụ chính họ tại các siêu thị và các ATM). Hầu như khung cảnh nào dưới chiêu bài “thánh đường của tiêu thụ) (Ritzer 2010) đều phát triển các kỹ xảo để “làm khớp ren” và để khai thác những p-a-c trong thân phận người sản xuất. Chẳng hạn, các cuộc chơi trên du thuyền phát hành các thẻ mua được mọi thứ cho khách hàng, thứ thẻ không chỉ như những chìa khóa tới phòng ngủ của họ, mà còn có thể dùng để nạp mọi thứ hàng hóa và dịch vụ có trên tàu. Chúng đặc biệt hữu ích trong việc khiến hành khách tha hồ đỏ đen, chẳng hạn, khách chỉ cần cắm thẻ vào máy đánh bạc (nơi người ta sản - tiêu quá trình chơi bạc hơn là có được việc sản xuất ra nó, ít nhất là phần nào, bởi những người chia bài tại bàn xì phé – nay [thay vào đó] là những máy xì phé tự động được vận hành bởi các sản  - tiêu, chứ không phải bằng những người chia bài - là nhân viên được trả lương). Việc sử dụng những tấm các như thế, chứ không phải tiền mặt, khiến các khoản ăn tiêu trông không có vẻ thực như trước, khiến người ta xài nhiều hơn, trong cuộc chơi đỏ đen, để rồi mất tiền nhiều hơn.

Những người sản - tiêu (trong thân phận p-a-c) đangnhậnthấygiai đoạn tiêu thụ của quá trình sản - tiêu đang được gia tốc và trở nên hiệu quả hơn. Nói cách khác, nó được cải tiến lên một cấp cao hơn trong những thập kỷ gần đây (Weber 1921/1968; Ritzer 2013). Để tiếp tục đạt đến mẫu sau cùng, những ai chơi máy đánh bạc trên các chuyến du thuyền không cần phải mang (tiêu thụ) một số lượng lớn tiền xu (trường hợp được bạc) đi đổi lấy tiền giấy ở máy đổi tiền. Thay vào đó, số tiền được bạc chỉ cần được đăng ký vào một cái thẻ, và tới cuối cuộc chơi trên du thuyền này, những khoản được bạc (cũng như những khoàn tiền thua) được tính vào một hóa đơn.

Thêm vào đó, có những hoạt động của ngành tiếp thị và quảng cáo, có vẻ liên quan rõ rệt hơn với việc tạo ra những “người tiêu dùng thái quá”,đặc biệt là trong số những p-a-c. Đây là phần khuyếch đại của ý tưởng của thế kỷ 20 rằng những người tiêu thụ là quá quan trọng đối với CNTB hiện đại để có thể mặc họ với những nguyện vọng và cách thức (ăn tiêu) của riêng họ. Các nhà tư bản, đặc biệt là thông qua các đại lý quảng cáo và marketing của mình, đã hiểu rằng họ cần đẻ ra ước mong được tiêu xài, và nếu dùng thuật ngữ của bài viết này, ước vọng sản -  tiêu, tậu được một lô không dứt những hàng hóa và dịch vụ. Một khi họ không chọn sử dụng, hay chí ít đã trở nên thông hiểu thuật ngữ sản - tiêu, thì các nhà tư bản, đặc biệt những ai làm tiếp thị và quảng cáo, ngày càng nhắm vào những người sản - tiêu, và quá trình sản - tiêu (như những mục tiêu). Xét trên cấp độ mà nỗ lực của họ đạt được và các bằng chứng về sự tăng trưởng của các hệ thống sản - tiêu, mức độ sản - tiêu cao, sự phát đạt và lợi nhuận (cao) từ các lĩnh vực sản - tiêu - cũng cho thấy nó (quá trình sản - tiêu) này là đạt thành quả đáng kể: người sản - tiêu đang biến thành người tiêu dùng thái quá. Bởi vì đây chính là trường họp xảy ra với những thánh đường của tiêu xài, những người làm tiếp thị và quảng cáo trở nên thành thạo trong chuyên môn của mình, và kết quả là họ đang đóng môt vai trò rất quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất, trong tạo ra những người ăn tiêu thái quá.

Mục tiêu của trang điện tử sản - tiêu, của tiếp thị, quảng cáo, lập thương hiệu, v.v... là nhằm để trau chuốt chế độ bóc lột kép có phối hợp nhằm bóc lột những người sản - tiêu.

 

CÓ THẬT NGƯỜI SẢN -TIÊU BỊ BÓC LỘT?

Có những người cho rằng các hệ thống vật chất và hệ thống kỹ thuật số là không bóc lột đối với người sản - tiêu. Luận chứng mạnh nhất của họ là những ai tạo ra và vận hành những hệ thống này xứng đáng được thưởng bởi đầu óc kinh doanh đầy sáng tạo của họ (Schumpeter 1976). Người sản - tiêu quả là nhận được giá thấp hơn trong một số bối cảnh vật chất, chẳng hạn như với hãng IKEA. Khi kết nối trực tuyến (online), những người sản - tiêu không được trả công cho công việc mà họ làm và thông tin mà họ cung cấp, nhưng họ được thưởng do được truy cập vào các hệ thống như Amazon.com và Facebook - những nơi chịu tốn kém trong sản xuất, kiểm định, duy trì, thường xuyên cập nhật, và luôn phát triển (để phục vụ) cho số lượng người dùng ngày một tăng.Amazon.com và một số trang ĐT tương tự, đang cung cấp khoản thưởng mà (người nhận) không cần phải rời khỏi nhà mình và khỏi phải trả chi phí (tiền xăng xe, phí bãi đỗ xe) để tới các công trình xây từ gạch vữa, mà không chắc gì người (được thưởng) này muốn. Facebook cung cấp một site nơi người sản - tiêu có thể dễ dàng và không cần chi tiền, tìm thấy vô số bạn bè vì người này có thể cung cấp thông tin về nhiều người khác. Những quảng cáo ngẫu nhiên được một số người xem như đã cung cấp cho các sản - tiêu những thông tin hữu ích và quan trọng.

Như vậy, từ góc nhìn cho một lựa chọn hợp lý, sẽ là hợp lý cho người sản - tiêu để sử dụng lĩnh vực vật chất và các mạng ảo như thế, bởi vì cóđược những khoản thưởng từ các lĩnh vực và các mạng này có vẻ cao hơn so với chi phí. Và đối với nhiều người (có cuộc sống) ngập sâu vào chế độ tư bản, giá của việc trở thành mục tiêu của những quảng cáo nhưng không thểchống đỡ, có vẻ không hẳnlà sự trả giá, mà còn là một lợi lộc, vì họ muốn biết càng nhiều càng tốt về sản phẩm được chào, để rồi mua càng nhiều, theo năng lực của họ.

Các nhà tư bản chắc mẩm rằng chính họ là những ai đã tạo ra IKEA và Facebook và các hệ thống then chốt khác của họ, vì thế mà họ xứng đáng với lợi nhuận. Họ đã mạo hiểm đầu tư những khoản lớn, và tiếp tục đầu tư, trên nền những ý tưởng và cơ sở hạ tầng làm mà các hệ thống này thành đạt. Dân tình sẽ không có khả năng sản - tiêu trên Facebook nếu họ (các nhà tư bản) không sáng tạo ra. Thêm nữa, các nhà tư bản sẽ đề xuất rằng những người sản - tiêu sẽ có được nhiều dạng thưởng từ IKEA và Facebook (tức là khả năng mua các sản phẩm thời thượng với gía rẻ; khả năng giao tiếp được bạn cũ, và kết bạn mới được nhiều hơn), và vì thế không cần phải cấp thêm, trong một số trường hợp là hoàn toàn chẳng cầnnhững phần thưởng về kinh tế.

Trên thực tế, có vẻ có ít hoặc không có đòi hỏi từ phía khách hàng của IKEA hoặc người dùng Facebook chia sẻ những thành công kinh tế to lớn của các tập đoàn này. Họ (khách hàng) có vẻ hài lòng với những khoản thưởng không mang tính kinh tế mà họ lĩnh được từ các hệ thống (KD) này. Tuy nhiên, theo góc độ phân tích trong bài này, tới một mức độ đáng kể, có một thực tế là họ đã không nhìn thấy mình như người sản tiêu tại IKEA hay tại Facebook. Như vậy, họ cũng không biết về vai trò hiệu quả mà họ đóng cả như các p-a-p lẫn như các p-a-c trong các hệ thống này. Nếu họ thấy mình trong thân phận như vậy, hẳn họ sẽ thấy mình xứng với những khoản lợi về kinh tế xuất phát từ những đóng góp cốt yếu của họ đối với các doanh nghiệp này.

 

‘MA LỰC’ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN SẢN - TIÊU

Karl Marx nhìn nhận CNTB như một thứ hệ thống đầy ma lực nơi khối công việc đáng kể không được trả công của giới vô sản dễ bị mất việc làm bị chuyển thành lợi nhuận khủng khiếp của nhà tư bản. CNTB tiêu thụ cũng được nhìn nhận là có ma lực trong việc (khiến) người tiêu dùng tự nguyện mua nhiều hơn là họ cần và muốn, và trả nhiều hơn, ít nhất là mang tính cộng đồng, cho những sản phẩm và dịch vụ mà họ cần, và làm cho họ phải trả cao hơn là giá thành sản xuất, chi phí phân phối và làm thị trường của những sản phẩm và dịch vụ đó. Tuy nhiên, cần nêu rằng CNTB sản - tiêu là hệ thống giàu ma lực hơn CNTB sản xuất và CNTB tiêu thụ. Các nhà tư bản không phải trả gì cho công việc mà những người sản - tiêu làm trong các quán ăn nhanh hoặc trên Face book. Thật vậy, trong nhiều trường hợp (kể cả tại ATM), những người sản tiêu thường phải trả phí để được quyền làm công việc đó, cũng như cho những gì có lợi mà họ đạt được nhờ nó. Hơn nữa, không có nhu cầu phải tạo ra những hệ thống đắt giá, phải trả cho các giám sát viên trông chừng các sản - tiêu, hoặc để buộc họ phải làm việc. Họ (sản - tiêu) làm điều này thường là phấn khích, bằng sức mình. Các sản tiêu thường dễ bảo, nếu không nói là hăng say, làm những gì họ được chỉ đạo, và được mong đợi (bới nhà tư bản). Trong tiến trình này, họ làm tăng lợi nhuận cho nhà tư bản.

Như vậy, người sản - tiêu trong CNTB sản tiêu rõ ràng là “âm binh”, là nguồn đem lại giá trị gia tăng và lợi nhuận- còn lớn hơn cả người công nhân trong CNTB sản xuất và người tiêu thụ trong CNTB tiêu thụ.

Cuối cùng, lý thuyết của Marx đem áp dụng cho người sản - tiêu còn tốt hơn là với người sản xuất: “Bí mật của sự tự bành trướng của CNTB được giải - (đó là) tiêu hao một số lượng xác định lao động không được trả lương của những người khác” (Marx 1867/1967:534).Số lượng của lao động không được trả lương bòn rút được từ công nhân bị giới hạn bởi khả năng làm việc của họ, thời gian tiêu phí cho công việc, và tuổi thọ của công nhân. Các hệ thống tư bản có xu hướng gây ảnh hưởng có hại đến sức khỏe và tuổi thọ của công nhân. Hơn nữa, không đâu có những hệ quả tiêu cực đến như thế lên người sản – tiêu, những người có thể sản - tiêu chính mình thành những năm tàn tạ của cuộc đời. Tổng số của (công) lao động của một công nhân cũng bị hạn chế bởi số giờ của ngày làm việc và của tuần lễ làm việc, nhưng lao động không được trả lương của những người sản - tiêu, dưới dạng công lao động (sản lượng) dính dáng đến cả thân phận p – a –p và p-a-c, có ngưỡng tuyệt đối là 24h một ngày, 7 ngày một tuần. Hơn nữa, luật hạn chế thời gian làm việc theo ngành nghề, nhưng không có hạn chế nào về thời gian mà người sản - tiêu sẽ tiêu phí cho công việc của họ. Trên thực tế, những hạn chế như thế là không thể tưởng tượng nổi đối với dưới góc nhìn của cả chính quyền lẫn những người sản - tiêu có liên quan. Điều này là đúng do nhiều nguyên nhân (người sản - tiêu thường bằng lòng với những việc họ làm và phẫn nộ nếu có sự hạn chế những việc này), nhưng quan trọng là cả chính quyền lẫn người sản - tiêu đều không có được khái niệm gì về quá trình sản - tiêu.

Nhưng “ma lực” đâu có dừng lại ở việc chỉ kiếm lợi từ lao động không trả công. Những p-a-p không được trả công tạo cho các nhà tư bản nhiều lợi thế hơn cả những lao động được trả lương bèo nhất. Nói riêng, dù các nhà tư bản có nhiều nghĩa vụ ngắn hạn, dù các nghĩa vụ này ngày một giảm thiểu, và cả các nghĩa vụ dài hạn, đối với công nhân của họ (phải trả lương theo thời hạn thuê nhân công; không được đuổi việc họ vô cớ, v.v...), chỉ có một ít bồn phận (của chủ tư bản) trước p-a-p và những ai đang tồn tại hầu như là ngắn hạn, thậm chí là tức thời (chẳng hạn, tạo được một chỗ trong quán ăn nhanh cho những thứ thải ra cần phải được dọn sau khi ăn bánh hamburger, hay trang Facebook sẽ mở ra khi một người dùng đăng nhập).

Ngoài việc trả lương cho công nhân, người sử dụng lao động thường phải chịu trách nhiệm (dù trách nhiệm này ở cấp độ ngày một sút giảm) về các chương trình phúc lợi tốn kém như bảo hiểm sức khỏe, chương trình hưu trí, và các kỳ nghỉ được tài trợ. Nhà tư bản dĩ nhiên, không có trách nhiệm gì với những người p-a-p không được trả công.

Người lao động được trả công (lương), ít nhất về mặt lịch sử, và ở một mức độ cao trong thời cuộc hiện nay, cần được cung cấp những gì là thiết yếu, và thường là “phương tiện sản xuất” tốn kém, chẳng hạn – một vị trí làm việc (tại văn phòng, nhà máy, cửa hàng). và các dụng cụ, máy móc (các dây chuyền lắp ráp, các máy tính). Ngược lại, các p-a-p thỉnh thoảng phải trả tiền món hàng đã mua đồng thời phải trả khoản duy tu các phương tiện sản xuất riêng của họ (cho xe được lưu hành trong làn xe dành cho khách vào mua món ăn qua cửa kính xe, các văn phòng tại gia, các máy in 3-D, các máy tính và dịch vụ Internet cần thiết để sản - tiêu trên mạng, chi phí cho các tiện ích gắn với những văn phòng tại gia, những máy tính đó, v.v...).

Những người p-a-p có thể xem như bộ phận của “quân dự bị”, như Marx đã gọi. Marx ban đầu tư duy về những người không có việc làm đứng chờ để thay các thành viên của giới vô sản những người hoặc là bất mãn, hoặc là không đáp ứng được (yêu cầu công việc) dù dưới hình thức nào. Gần đây, những người thất nghiệp, kể cả những người làm việc bán thời gian, có thể xem là một phần của đội quân dư bị. Những p-a-p hẳn là (lực lượng) bổ sung gần đây nhất và đầy cách tân cho đội quân dự bị này. Nói riêng, họ biểu thị mình như (lực lượng) thay thế đầy tiềm năng cho các nhân công được trả lương. Một ví dụ, sẽ cần ít hơn nhân công cho các hiệu ăn nhanh vì công việc được làm (đỡ) bởi các sản – tiêu. Những người viết blog thách thức công ăn việc làm của các nhà báo, khi càng ngày càng có nhiều độc giả tìm đến với các ký giả “phó thường dân” do cách họ lấy tin. Một số người viết blog nào thành đạt trong viết báo đang thực sự thay thế các ký giả, lấy mất việc của các ký giả này, và thường chấp nhận trả công lao động thấp hơn. (Tuy nhiên, số ký giả đang bị đuổi việc là cao hơn nhiều so với số người viết blog trở thành phóng viên). Mặt khác, các p-a-p tiếp tục là mối đe dọa đối với những người lao động được trả lương – những ai bị đòi hỏi phải làm cật lực hơn, nếu không sẽ bị (chủ) cắt lương, vì ai cũng biết các p-a-p (chẳng hạn như những người viết blog) dễ dàng thay thế họ.

Những gì hay nhất về p-a-p lại chẳng hề giống với (hồn cốt) của đội quân dự bị của Marx - họ (p-a-p) có thể được tuyển mộ và kiếm sống bằng cách làm một số việc được trả công (một cách chính quy). Điều này đặt họ vào một vị trí cao hơn, so với những người thất nghiệp. Điều này có nghĩa là họ có thể đảm đương những việc không đòi hỏi trả công như p-a-p sau khi ngày làm việc (chính quy) của họ đã chấm dứt; họ vẫn làm được nhiều việc trực tuyến (online trên Internet) trong khi họ làm công việc chính, được hưởng lương, của chính mình. Thêm vào đó họ (p-a-p) ở thế thuận hơn để dảm bảo về thời gian, và về chịu chi phí, nhờ họ có những kỹ năng mới (như viết blog, chẳng hạn). Với những kỹ năng như thế, họ trở thành những kẻ cạnh tranh mạnh mẽ, thậm chí thành mối đe dọa đối với những nhân công được trả lương (chính quy).

Cũng có những khoản các nhà tư bản tiết kiệm được nhờ vào các p-a-c. Những người tiêu dùng truyền thống cần được cung cấp các địa điểm có dạng vật thể, kể cả các “thánh đường tiêu thụ” đắt giá, để tới đó tiêu xài. Những địa điểm tiêu dùng truyền thống cần đến một danh mục phong phú những mặt hàng sẵn trong kho (và chi phí kho vạn là rất lớn) (để đưa ra) phòng khi khách cần hàng đến (just in case), và cả những nhân viên (phụ động) phải trả lương chực sẵn để phục vụ khách khi cần.

Các p-a-c hôm nay tự làm lấy nhiều hơn, kết quả là việc phục vụ họ trở nên ít tốn kém hơn, đặc biệt là cần ít nhân viên phải trả lương hơn tại các điểm tiêu xài (như các thương xá). Đang có những khoản tiết kiệm được đáng kể hơn có được nhờ các trang điện tử dành cho tiêu thụ trên Internet (như eBay, Expedia, v.v...) nơi những nhân công được trả lương hoàn toàn không có mặt, và lại là nơi những người sản – tiêu không được trả công làm hầu như mọi công việc. Những khoản tiết kiệm khác được rút từ thực tế là các sản phẩm hoặc được bảo quản bởi những người sản tiêu (trong trường hợp eBay) hoặc bởi các trang điện tử dành cho tiêu thụ (Amazon.com), hoạt động theo (phương châm) “giao ngay” (just - in- time) hơn là chế độ “hàng (nằm kho) chờ khách” (just–in-case).

Chẳng hạn, Amazon.comkhông bảo quản trong kho một số lượng lớn sách, và các sản phẩm khác, kiểu “đầu nhọn đuôi dài” (long tail - trưng một cuốn, giữ nhiều cuốn khác trong kho) (Anderson 2006),mà tìm mua sách (rồi phát hành) hoặc chuyển phát cuốn sách được khách đặt hàng, sau khi nhận được sách, từ các tổ chức hay người bán sách khác. Những người bán hàng này có thể đảm nhận bảo quản sách và gửi hàng bằng sức mình, giúp giảm nhu cầu về nhân công phải trả lương ở Amazon.com. Các p-a-c cư xử như được (nhà tư bản) chờ đợi khi tiêu thụ những gì mà các trang (thương mại) điện tử phải chào hàng, phần nào là do các trang mạng này được thiết kế để dẫn dắt người mua làm như thế. Hiện tại khá thấp nhu cầu phải tiêu những khoản lớn để kiểm soát các trang mạng này sao cho chúng đảm bảo các p-a-c sẽ tiêu dùng theo cách (mà nhà tư bản) chờ đợi.

Những lợi thế và khoản tiết kiệm được nêu trên là hấp dẫn không cưỡng nổi đối với các nhà tư bản nào (dựa trên triết lý của mình) thực sự tìm kiếm cả sự thuyên giảm về trách nhiệm cá nhân họ lẫn, quan trọng nhất dưới góc độ lợi nhuận, một sự giảm đáng kể chi phí.

Cần phải chỉ ra rằng người sản - tiêu đang ăn nhập với triết lý tự do kinh tế mới (Harvey 2007). Hòa nhịp với triết lý này, những người sản - tiêu đương đại ngày càng chỉ trông chờ vào mình.Họ là một phần đáng kể ngày một đông lên của nền kinh tế “nhà trồng được’ (do-it-yourself) (Watson and Shove 2008).. Trên thực tế, Scholz (2012 - 2013) đã mô tả thế giới trực tuyến là một nền kinh tế “nhà trồng được” trọn vẹn. Các nhà tư bản không có bổn phận gì với những người sản -  tiêu (p-a-p) biết tự làm lấy, và chi trả cho họ ít, hoặc chẳng trả gì. Về phần mình, những người sản- tiêu chờ đợi rất ít hoặc không chờ gì, chỉ cần quyền truy cập vào nơi cho phép họ sản - tiêu dùng - theo đúng phong cách sản - tiêu. Những người sản - tiêu đánh đường đến, và thương lượng để đi qua, để tới một lô dạng thức của sản - tiêu mà họ có thể sử dụng, cũng như tới cấu trúc hệ thống tư bản chủ nghĩa, ngày càng nhiều về số lượng và hình thái. Các p-a-c còn phải dựa vào mình hơn cả p-a-p.  Càng ngày giao diện cho sản - tiêu, cả không qua kết nối, lẫn qua kết nối mạng, càng không hỗ trợ gì cho người sản - tiêu nhất là trên Internet. Các p-a-c phải xoay xở để tới được các địa điểm sản - tiêu, hầu hết là dựa vào sức mình. Trong trường hợp của cả p-a-p và p-a-c, và đặc biệt trong khớp nối hai dạng thức này với nhau, chúng ta thấy chủ nghĩa tân tự do về kinh tế (neoliberalism) nổi cộm rõ rệt nhất, cực đoan nhất, trong quan hệ của chủ nghĩa này với CNTB, đặc biệt là trong (giành) lợi nhuận cao hơn đồng thời chịu trách nhiệm ít hơn với những ai làm thuê cho các nhà tư bản, và đặc biệt với những ai mà p-a-p và p-a-c phục vụ.

(Phát sinh) nhân tố ẩn trong những gì nói trên là do vai trò ngày càng quan trọng của người sản - tiêu, nhà tư bản có thể thuê số lượng ngày càng ít hơn nhân công phải trả lương, so với sự tăng trưởng của nền kinh tế và của dân số. Tựa như nông dân và giới vô sản trước họ, những nhân công được trả lương - kể cả những ai thỉnh thoảng được trả công khá cao, phải chịu đựng qui trình bóc lột và chịu phận “giằng xé giữa những kế sinh nhai” (Marx, dẫn trong sách củaMcLellan 1977:485). Giảm được lượng nhân công có nghĩa là lợi nhuận cao hơn cho nhà tư bản. Việc càng ít số nhân công phải trả lương cũng đóng góp, không cần bàn cãi, cho sự tăng tỉ lệ thất nghiệp.

Một khi chịu phận thất nghiệp, người ta sẽ phải, như những nhà tân tự do (về kinh tế) thích mô tả, dựa vào nỗ lực của mình để giành giật những chỗ làm mới, dù phải chịu trả công thấp hơn, thậm chí chấp nhận lương chỉ đủ sống.

 

BẢN CHẤT CỦA CNTB HÔM NAY

Phát kiển nổi tiếng của Karl Marx về CNTB là, đây là mỏt chế độ khả biến, luôn luôn ở trong trạng thái thiết lập, tái thiết, và thậm chí biến đổi (Bauman 2000). Quan điểm được trình bày ở đây là hình thức của CNTB chủ đạo trong thời kỳ của Marx là CNTB của người sản xuất - đã thay đổi, như Marx đã dự báo, dưới sự đổi mới (renovation) từ đó (từ thời kỳ của Marx). Kịch tính hơn, và không được dự báo bới Marx, là sự tàn tạ của CNTB của người sản xuất, ít nhất là tại thế giới (các nước) phát triển, đặc biệt là ở Mỹ. Trên thực tế đã không còn dạng chủ đạo của CNTB tại đa số, nếu không nói là tất cả, (các nước thuộc) thế giới phát triển. Hơn nữa, xu thế hướng theo sự chủ đạo của CNTB tiêu thụ, là đang tiến triển, ít nhất tại thế giới (các nước) phát triển, kể từ giữa thế kỷ 20, lại đang nhường đường cho một dạng khác của CNTB - đó là CNTB sản - tiêu. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là chúng ta từng nghĩ (một cách sai lầm, ít nhất theo tinh thần của chủ đề của bài viết này) - rằng CNTB của người sản xuất và CNTB của người tiêu thụ đều có thể được hiêu như các dạng của CNTB sản - tiêu. Kết quả là, theo ngữ nghĩa này, sự chuyển hướng sang CNTB sản - tiêu không đến nỗi là một biến chuyển quyết liệt như ban đầu nghĩ, bởi vì cả người sản xuất trong CNTB sản xuất và người tiêu thụ trong CNTB tiêu thụ đều chính là những người sản - tiêu. Tuy nhiên, có một sự biến đổi rõ rệt theo hướng cảm nhận rằng sản -  tiêu đã chiếm một vj trí trung tâm trong cả p-a-p lẫn p-a-c, đặc biệt là ở p-a-c. Hơn nữa, cả hai dạng của sản - tiêu ngàt càng bộc lộ rõ hơn ở trung tâm của đường liền (continuum) (Hình 1), được chi tiết hóa trong bài viết này và được tư duy tốt hơn tại chủ đề quá trình sản - tiêu.

Vậy có một tổng thuật được tạo ra ở đây - CNTB của người sản xuất> CNTB người tiêu thụ>CNTB sản - tiêu, nghĩa là ở mức khá rõ rệt, không giống như trong các công trình khác (nghiên cứu) về các thay đổi lịch sử trong hệ thống TBCN và trong kinh tế. Sự biến đồi này là quan trọng với chính nó, cũng như từ góc nhìn cả trừu tượng lẫn lý luận.

Một lô các công trình gần đây đã xem xét bản chất khả biến của CNTB. Piketty (2014)  trong Tư bản trong thế kỷ 21 đã bàn tới một vấn đề xã hội vô cùng căn bản (tăng trưởng của bất bình đẳng), và đưa đến kết quả là đã lôi kéo được sự chú ý cực kỳ mạnh mẽ. Nhưng thực ra chỉ có thể quan tâm mức độ đến công trình này thôi, vì vì lẽ ra phải tập trung vào CNTB như vấn đề cốt lõi, công trình này chỉ để cập tư bản (vốn). Piketty đặc biệt quan ngại xu thế kinh tế tăng trưởng lệ thuộc vào Hệ số thu nhập trên vốn sử dụng (return on capital). Điều này dẫn tới một sự tập trung vào giàu có và thu nhập ở thượng tầng, và kết quả là bất bình đẳng tăng lên.

Có một tầm quan trọng vừa thôi, nhưng lại có sự liên quan đến thảo luận này, là công trình của Jeremy Rifkin’s (2014), Xã hội có chi phí biên tiến về không; Mạng vạn vật kết nối, những người chi dùng chung, và sự sụp đổ của CNTB (Marginal Cost Society; The Internet of Things, the Collaborative Commons, and the Collapse of Capitalism). Điều đặc biệt quan trọng ở đây, giống như công trình này (của tác giả Ritzer), là đã đả động trực tiếp đến sản - tiêu, và ở chỗ nó phản ảnh bản chất của CNTB tại thời đại của người sản - tiêu.

Dù Rifkin có dự định đả động đên người sản - tiêu (Chương 9 có nhan đề “Sự lội ngược dòng của của người sản - tiêu”) đây là một bản phân tích hạn chế về hiện tượng này. Rifkin đã không tham gia vào thư mục sách báo khá phong phú về sản - tiêu, tuy có đả động đến nhiều khía cạnh của sản - tiêu đương đại, gồm những người dân có óc sáng tạo, và nền kinh tế xài chung [sharing economy - chia sẻ các phương tiện vật chất] (như ô tô, xe đạp, nhà cửa…). Tuy nhiên, Rifkin chỉ có một cảm nhận hạn chế về những người sản - tiêu” như “những người tiêu dùng nào trở thành người sản xuất cho chính mình (hay p-a-c). Ông ta không có quan niệm, và không quan tâm đến p-a-p, đặc biệt là đến sự tiêu thụ do họ gây ra.

Sự liên đới đáng kể nhất tới cuộc thảo luận này là quan điểm của Rifkin về CNTB và sự đối lập đối với quan điểm bi quan hơn được trình bày trong bài này [của tác giả Ritzer] (xem phần dưới). Theo Ritkin, thời đại TBCN đang trôi qua và đã bị thay thế bởi một cộng đồng những người chi dùng chung (a collaborative commons). Tương tự với Toffer (người mà Ritkin không chú thích, cũng không tranh luậnvề quan điểm với) trước đó17, điều này đã cho phép Ritkin đạt tới được một dung mạo tích cực, thậm chí lãng mạn, của tương lai của xã hội, bao gồm mối liên hệ giữa tính bền vững với môi trường.

 

MỘT THOÁNG NHỈN VỀ TƯƠNG LAI

Một khi quan niệm về sản - tiêu (và các ý niệm có liên quan) giành được triển vọng và tiếng tăm, ngày càngnhiều hơn những nhà tư bản chuyển động một cách có ý thức và công khai theo hướng biến đổi hay kiến tạo doanh nghiệp hoạt động phù hợp với  các nguyên tắc đang hiển hiện của chủ nghĩa tư bản sản - tiêu. Như vậy, chúng ta hắn đang chứng kiến sự lan rộng của mô hình này, cũng như một sự hiện thực hóa ngày càng tăng của một nhân tố, là đang có lợi nhuận lớn giành được từ CNTB sản - tiêu.  

Điều này biểu lộ một mối đe dọa lớn đối với những người sản - tiêu, ít nhất là trước mắt, vì họ đang không nhanh chóng nhận thức mình là những người sản - tiêu, cũng như (không nhanh chóng nhận thức được) những tác động của việc này, đặc biệt trong điều kiện mới của hệ thống bóc lột kép có phối hợp mà các nhà tư bản đang xây dựng. Trong khi thực tiễn và bản chất của sản - tiêu sẽ trở nên ngày càng dễ thấy hơn và rõ rệt hơn trong mắt những người sản - tiêu, các nhà tư bản sẽ cố giữ khoảng cách vượt trước họ (những người sản - tiêu) và sử dụng triển vọng này và nhận thức để tìm ra những cách thức tinh vi hơn để vận dụng hệ thống này tạo lợi thế cho họ (nhà tư bản). Thật không may, những người sản - tiêu dang chịu một sự bất lợi rõ rệt về mặt nhận thức quá trình như thế, và điều này có nghĩa là họ không định làm cho mình thích ứng với những điều đang xày đến với mình, và (tìm hiểu) tại sao như vậy. Nếu những người sản - tiêu định kiếm một cơ hội để tạo ra một hệ thống hoặc ít, hoặc thậm chí không bóc lột, sẽ khó mà xảy ra việc họ sẽ được trao cơ hội này, ít nhất là tự nguyện, bởi các nhà tư bản, cơ hội này chỉ đến nếu họ có được sự thấu hiểu về những thay đổi quyết liệt đang xày ra trong nền kinh tế, và tác động của những thay đổi đó lên họ.

Tình hình mà những người sản - tiêu phải đối diện với còn căng thẳng hơn vì một thực tế là họ không rành là mình đang bị bóc lột, và đang bị cách ly bởi hệ thống bóc lột kép này (Rey 2012).Nếu họ không cảm nhận được tình trạng bị cách ly này, và còn tệ hại hơn nữa nếu họ cảm thấy (tính trạng như thế là) ổn thỏa, thì hệ thống mới mà chính họ nổi lên rõ rệt trong đó, thì gần như không có cách gì có thể chờ đợi họ hiểu cấu trúc và đặc tính căn bản, chưa nói đến (việc họ sẽ quyết định) chất vấn, hay nổi dậy chống lại hệ thống này.

Trong khi những gì trình bày ở đây thể hiện một bi quan sâu sắc về tình hình hiện tại và đặc biệt là về tương lai, liên quan đến những người sản - tiêu trong CNTB sản - tiêu vẫn còn có thể giới thiệu một viễn cảnh lạc quan, đặc biệt là nhờ các trang điện tử phi lợi nhuận (gồm Wikipedia, hầu hết các blog) trên Internet.  Đây là những trang mạng và những tổ chức kiểm soát bởi những người sản - tiêu và hoạt động vì lợi ích của họ, chứ không vỉ lợi nhuận dành cho các nhà tư bản. Sản - tiêu có thể truyền sự tự tin vì người ta vẫn còn kiểm soát được cả những gì họ sản xuất lẫn những gì họ tiêu dùng. Họ làm như vậy vì lợi ích của chính họ và không vì lợi nhuận của các doanh nghiệp TBCN. Quan trọng là, họ làm vậy, và không được trả công, để nhiều sản - tiêu khác có thể dùng những hệ thống mà họ đã giúp để sáng tạo, với một chi phí nhỏ, hoặc miễn phí. Như vậy, sản - tiêu là có khả năng tạo ra một hệ thống truyền đạt sự tự tin, dân chủ, và đem lại lợi ích cho những ai có liên quan.

Viễn cảnh lạc quan hơn này là có thể, khi chúng ta nhận biết những người liên quan là những thành viên tích cực, hoặc nói một cách cực đoan, là những “siêu nhân lợi hại” (Goffman 1961:81).Những người như thế có năng lực ngáng trở và hủy diệt các cấu trúc vật chất và số hóa tại những nơi mà họ lâm vào. Hơn nữa, những siêu nhân, kể cả lợi hại, thường không nhận thấy sức mạnh của mình. Hoàn toàn có khả năng là vai trò tích cực một khi được đảm đương bởi những người sản - tiêu sẽ làm cho họ trở nên ý thức được hơn về các tiềm năng của họ, như những siêu nhân lợi hại, và cuối cùng, sẽ hành động theo hướng hiên thực hóa (viễn cảnh đó).

Đâu là khả năng để viễn cảnh lạc quan hơn này diễn ra trong tương lai và trở thành hiện thực, hơn là cái chủ nghĩa tư bản sản - tiêu vừa ra ràng này. Khi ai đó muốn trở nên lạc quan về điều này, trên thực tế phần thưởng cho việc duy trì và mở rộng sự kiểm soát (cai trị) hệ thống này (CNTB sản - tiêu) đơn giản là quá lớn để cho các nhà tư bản có thể bỏ qua. Họ sẽ dựa vào các nguồn vật lực to lớn của mình để thống trị lĩnh vực này và trong quá trình đó sẽ làm cật lực để ngăn chặn, nếu không nói là để xóa sạch, những nỗ lực chuyển đổi hệ thống này theo hướng bình đẳng và dân chủ hơn, nhắm vào lợi ích của người sản – tiêu, chứ không chỉ mang lại lợi nhuận cho các xí nghiệp tư bản.

Những ví dụ về sức bền của CNTB cho thấy các nhà tư bản đang duy trì được năng lực đối phó, và thậm chí chiếm đoạt, quá trình sản - tiêu. Những trang ĐT cho vay “Nối vòng tay những người đồng hạng” (Peer-to-peer/P2P), như Zopa, dựa trên nhu cầu vay mượn tiền lẫn nhau, kết nối có đi có lại giữa người vay và người cho mượn tiền. Tuy thế, một khi vay mượn trên P2P tăng tầm quan trọng, những thế chế (tổ chức) kiếm lợi nhuận lớn ngày càng thò vòi vào (Cortese 2014). Quan trọng là sự tham dự của chúng (những thế chế kiếm lợi nhuận) là không phải lúc nào cũng rõ ràng với những ai quan tâm đến vay tiền. Sự dính líu có tính thể chế như thế đe dọa sẽ đẩy ra ngoài những nhà đầu tư cá nhân quan tâm (đến lợi ích từ) cho mượn tiền, dẫn đến hủy hoại quá trình sản - tiêu nằm tại gốc rễ của tất cả các hệ thống P2P. Dĩ nhiên, nếu họ biết về sự tham dự của những thể chế này, các sản - tiêu sẽ duy trì năng lực khước từ những chào hàng của chúng (các thể chế định hướng lợi nhuận) và chỉ vay từ những người sản - tiêu khác. Tuy nhiên, các thể chế định hướng lợi nhuận sở hữu sức mạnh và nguồn vật lực để chào những lãi suất thấp, và nhờ đó loại những người cho vay là người sản - tiêu (khỏi những trang ĐT).

Đáng ngại hơn, thậm chí còn trớ trêu, là sự thăng tiến của các trang điện tử sản - tiêu và các quá trình sẽ đem lại doanh thu đáng kể cho những ai can dự vào (những người cho vay tại trang Zopa kiếm được lãi nhờ các khoản cho vay). Các ví dụ có thể dẫn từ những người lái xe trong khuôn khổ Uber (một doanh nghiệp tương tự như Lyft), từ những căn nhà cho ở thuê theo (chương trình kinh doanh của) Airbnb, và những cửa hàng và những người giao hàng (trên xe riêng của họ) cho hãng Instacart (Manjoo 2014). Thực tiễn này đang ngày một ít giống một nền kinh tế xài chung (sharing economy) mà các sản – tiêu là chủ đạo. Thay vào đó, nó đang trở thành một đấu trường để các nhà tư bản giành quyền thống trị, thành một cách thức kiếm lợi nhuận, một cách kiếm sống trong một nền kinh tế TBCN.

Chẳng hạn, Instacartthu 3,99 USD cho mỗi lần giao hàng và kiếm được thêm tiền nhờ nâng giá tạp hóa, chắc là khoảng 20% với mỗi mặt hàng. Hiện tại, mỗi nhân viên của nó có thể kiếm được từ 15 đến 30 USD một giờ phụ thuộc vào việc họ phát nhanh món đồ ăn tới mức nào (sử dụng xe riêng của họ). Tiền công như thế là cao, người làm công không cần phải có bằng cấp gì, và giờ giấc là linh hoạt. Tuy nhiên, không có được sự an toàn nghề nghiệp, và ai làm việc này sẽ không có được những lợi ích mà những người làm thuê cho các hãng chuyển phát đồ ăn như Peapod có được. Hơn nữa, tiền công tương đối cao của họ hiện đang suy sút do có nhiều người đăng ký làm nghề này.

Gần đây có nhiều (tín hiệu) chỉ thị sự mở rộng và tăng cường sự dính líu của lợi ích tư bản vào các ngành kinh doanh dựa trên sản - tiêu. Uber thông báo vào giữa năm 2014 là doanh nghiệp này đã đầu tư thêm 1,2 tỷ USD từ nguồn tài trợ của các nhà đầu tư và được đạt giá trị (doanh nghiệp) 17 tỷ USD (Airbnb được đánh giá hơn 10 tỷ) (de la Merced 2014). Kết quả là Uber có giá hơn là những doanh nghiệp TBCN nổi tiếng chuyên cho thuê xe như Hertz và Avis18. Theo một cung cách kiểu tư bản, Uber đã phát triển theo nhiều cách, kể cả hướng ngoại (chẳng hạn, sang cả Anh và Đức). Nó cũng đang tìm cách sử dụng hệ thống của mình để mở rộng sang các ‘đấu trưởng’ mới, như ngành chuyển phát bưu kiện (Sorkin 2014).  Một động thái liên quan là, sự thành đạt của Uber (và Lyft) đã dẫn tới một sự quan ngại lớn hơn trong những người lái taxi bị đe dọa (về lợi ích), khiến họ phản ứng theo cách truyền thống đối với bành trướng và phụ phí cao - lập ra một nghiệp đoàn taxi toàn quốc (Greenhouse 2014). 

Airbnbhẳn đang trong quá trình, ít nhất là tại một số nơi, thay thế một số người cho thuê tư nhân thuộc diện sản - tiêu bằng các doanh nghiệp TBCN. Một nghiên cứu tại tp. New York chỉ ra rằng các nhân viên điều phối thương mại đang cung cấp hơn 1/3 số đơn vị (BĐS) cho thuê và kiếm được 1/3 từ tổng lợi nhuận (của Airbnb) 6% trong số chủ nhà kiếm được tới 37% từ  tổng thu (của Airbnb); và một chủ cho thuê nhà có 272 đơn vị kiếm được tới 6,8 triệu USD! Kết quả là có những ý kiến phê phán cho rằng về thuật ngữ, “nền kinh tế xài chung (và sản - tiêu) là lố lăng” (Streitfeld 2014:A1).Trưởng ngành tư pháp của tp New York hiện đang tìm cách gán cho các tòa nhà này tội danh “khách sạn không phép” và trên cơ sở đó đóng cửa chúng.

Tất cả những điều này giống như một tập hợp của các ví dụ về sự phá hủy có sáng tạo mà Schumpeternhận thấy như nét riêng của CNTB. Các xí nghiệp mới của CNTB được nói ở trên (tất cả, nhờ Internet, ĐT thông minh, v.v. đều dính dấp sâu vào những dạng mới của sản - tiêu), đang đe dọa các ngành kinh doanh TBCN truyền thống (đặc biệt là ngân hàng, khách sạn, và các doanh nghiệp KD taxi). Những ngành kinh doanh TBCN truyền thống này, cũng như những nhân công mà các doanh nghiệp này thuê, đang phản công lại để bảo vệ lãnh địa của mình. Ở những nơi nào có công đoàn, các công đoàn cũng được thu hút vào các hành động phòng thủ và đang tăng lên những quan tâm lợi ích của các nhân công bị đe dọa (về quyền lợi do các ngành KD mới, phi truyền thống - ND chú) trong tham gia vào công đoàn. Nhà nước (như ở Đức) đã bị kéo vào nỗ lực bảo vệ lợi ích của các ngành kinh doanh từng được tín nhiệm và công nhân viên của các ngành này. Tuy nhiên, lịch sử của sự phá hoại có sáng tạo sẽ làm chúng ta phải tin rằng những nỗ lực này sẽ bất thành, và các ngành mới của CNTB sẽ giữ địa vị chủ đạo. Chúng ta chắc không nhìn thấy cái chết của các ngành kinh doanh tư bản chủ nghĩa lâu đời hơn trong các lĩnh vực này ( như ngân hàng, khách sạn, và các doanh nghiệp KD taxi - ND chú), ít nhất là trong một tương lại gần. Nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy chúng sút giảm về tầm quan trọng. Tiếp đó, những thành đạt ghê gớm của các ngành kinh doanh mà sản - tiêu là chủ đạo sẽ dẫn tới sự bành trướng của mô hình này vào các lĩnh vực khác (của công - thương nghiệp TBCN).

Thường Nga dịch

Bài đăng trên tạp chí Xã hội học hàng quý The Sociological Quarterly số ra tháng 5/2015

 

CHÚ THÍCH

15 Dĩ nhiên, như những nhà hậu hiện đại đã chỉ ra, điều này, tựa như tất cả những tổng thuật, là tràn ngập, với đủ loại vấn đề gắn với những tư duy tân thời (modernist) và nhiều trong đó bị đơn giản hóa quá mức, theo logic nhân quả một chiều, và với sự tạo ra những khác biệt giả tạo (Ritzer 1997).Tuy thế, tổng thuật này vẫn có ích trong bối cảnh này để nhấn mạnh một thay đổi xã hội quyết liệt.

16 Và/hoặc họ có thể mua những sản phẩm này nhiều hơn nữa.

17 Toffler (1980:303)đã có được một cái nhìn lạc quan về kết của thị trường TBCN trong thời đại người sản – tiêu.

18 Avis đã tậu hãng Zipcar và ngành kinh doanh “cùng dùng chung xe hơi”(car-sharing) của Zipcar từ đầu 2013.

SÁCH BÁO THAM KHẢO

Anderson, Chris. 2006. The Long Tail: Why the Future of Business Is Selling Less of More. New York: Hyperion.

Anderson, Chris. 2006. Cái đuôi dài: Vì sao tương lai của kinh doanh đằng nào cũng bị bán. New York: Hyperion.

-. 2012. Makers: The New Industrial Revolution. New York: Crown Business.

2012. Những người làm hàng: Cuộc cách mạng công nghiệp hóa mới. New York: Crown Business.

Arvidsson, Adam. 2005. “Brands: A Critical Perspective.” Journal of Consumer Culture 5(2):235– 58.

Arvidsson, Adam. 2005. “Thương hiệu  dưới góc nhìn phê phán” Tạp chí văn hóa tiêu dùng 5(2):235– 58.

Baran, Paul and Paul Sweezy. 1966. Monopoly Capital: An Essay on the American Economic and Social Order. New York: Monthly Review Press.

Baran, Paul vàPaul Sweezy. 1966. Tư bản độc quyền: Một bài viết về trật tự kinh tế và xã hội của Hoa Kỳ. New York: Monthly Review Press.

Baudrillard, Jean. 1970/1998. The Consumer Society: Myths and Structures. London, England: Sage.

Baudrillard, Jean. 1970/1998. Xã hội tiêu thụ: Huyền thoại và cấu trúc. London, England: Sage.

Bauman, Zygmunt. 2000. Liquid Modernity. Cambridge, England: Polity Press.

Bauman, Zygmunt. 2000. Sự cách tân luân chuyển được. Cambridge, England: Polity Press.

Beck, Ulrich. 2001. “Interview with Ulrich Beck.” Journal of Consumer Culture 1:261–77.

Beck, Ulrich. 2001. “Phỏng vấn Ulrich Beck.” Tạp chí văn hóa tiêu dùng 1:261–77.

Bell, Daniel. 1973. The Coming of Post-Industrial Society: A Venture in Social Forecasting. New York: Basic Books.

Bell, Daniel. 1973. Xã hội hậu công nghiệp đang tới: Thử làm một dự báo về xã hội. New York: Basic Books.

Benjamin, Walter. 1999. The Arcades Project. Cambridge, MA: Belknap.

Benjamin, Walter. 1999. Dự án chợ kiến trúc mái vòm. Cambridge, MA: Belknap.

Bruns, Axel. 2008. Blogs, Wikipedia, Second Life and Beyond: From Production to Produsage. New York: Peter Lang.

Bruns, Axel. 2008. Blog, Wikipedia,Cuộc đời thứ hai và sau đó: Từ sản xuất From Production to Produsage. New York: Peter Lang

Clifford, Stephanie. 2012. “Browsing while Browsing.” New York Times, March 10, pp. B1, B4. Cohen, Lizabeth. 2003. A Consumer’s Republic. New York: Knopf.

Clifford, Stephanie. 2012. “Lượn chợ.” New York Times, March 10, tr. B1, B4. Cohen, Lizabeth. 2003. Một nền cộng hòa tiêu thụ. New York: Knopf.

Cortese, Amy. 2014. “Loans That Avoid Banks? Maybe Not.” New York Times—Business, May 4, pp. 1, 7.

Cortese, Amy. 2014. “Những món cho vay né ngân hàng? Chưa chắc” New York Times—Business, Tháng 5, 4,tr. 1, 7.

de la Merced, Michael J. 2014. “Uber Attains Eye-Popping New Levels of Funding.” New York Times, June 7, pp. B1, B6.

de la Merced, Michael J. 2014. “Uber đạt mức tài trợ vốn kinh ngạc.” New York Times, Tháng 6, 7, pp. B1, B6.

de Saussure, Ferdinand. 1994. Course in General Linguistics. New York: McGraw-Hill. Debord, Guy. 1977. Society of the Spectacle. Detroit: Black and Red.

Hill. Debord, Guy. 1977. Xã hội của những cảnh tượng. Detroit: Black and Red.

Dujarier, Marie-Anne. 2014. “The Three Sociological Types of Consumer Work.” Journal of Consumer Culture published online, April 18, 2014.

Dujarier, Marie-Anne. 2014. “Ba hính thái xã hội học của công việc người tiêu thụ.” Tạp chí văn hóa tiêu dùng xuát bản trên mạng Internet, April 18, 2014.

Dunkel, Wolfgang and Frank Kleeman, eds. 2013. Customers at Work: New Perspectives on Interac-tive Serve Work. Houndmills, UK: Palgrave Macmillan.

Dunkel, Wolfgang và Frank Kleeman, chỉnh lý 2013. Khách hàng làm việc: Quan điểm mới về công việc dịch vụ tương tác. Houndmills, UK: Palgrave Macmillan.

Fuchs, Christian. 2012a. “Dallas Smythe Today-The Audience Commodity, the Digital Labour Debate, Marxist Political Economy and Critical Theory. Prolegomena to a Digital Labour Theory of Value.” tripleC 10(2):692–740.

Fuchs, Christian. 2012a. “Dallas Smythe của hôm nay-Danh mục hàng của cử tọa, cuộc tranh luận về lao động kỹ thuật số, Kinh tế chính trị học Marxist và Lý luận phê bình. Từ lời mở đầu đến Lý thuyết về giá trị lao động kỹ thuật số” tripleC 10(2):692–740.

-. 2012b. “Google Capitalism.” tripleC 10(1):42–48.

Galbraith, John K. 1958. The Affluent Society. New York: Houghton Mifflin.

Galbraith, John K. 1958. Giai tầng sang trọng. New York: Houghton Mifflin.

Gill, Rosalind and Andy Pratt. 2008. “In the Social Factory: Immaterial Labour, Tính manh mún và văn hóa” Theory Culture and Society 25(1):1–30.

Gill, Rosalind và Andy Pratt. 2008. “Trong công xưởng toàn xã hội: Lao động phi vật thể, Precariousness and Cultural.” Theory Culture and Society 25(1):1–30.

Goffman, Erving. 1961. Encounters. Indianapolis, IN: Bobbs-Merrill.

Goffman, Erving. 1961. Đụng độ. Indianapolis, IN: Bobbs-Merrill.

Greenhouse, Steven. 2014. “Taxi Driver Solidarity.” New York Times, June 7, pp. B1, B6.

Greenhouse, Steven. 2014. “Tình đoàn kết của lái xe taxi” New York Times, June 7, pp. B1, B6.

Hardart, Marianne and Lorraine Diehl. 2002. The Automat: The History, Recipes and Allure of Horn and Hardart’s Masterpiece. New York: Clarkson Potter.

Hardart, Marianne và Lorraine Diehl. 2002. Quán ăn tự động:Lịch sử, Thực đơn và sự cám dỗ của Hãng làm dịch vụ đồ ăn Horn and Hardart. New York: Clarkson Potter.

Harvey, David. 2007. A Brief History of Neoliberalism. New York: Oxford University Press. Jenkins,

Harvey, David. 2007. Lịch sử vắn tắt của CN tự do mới. New York: Oxford University Press. Jenkins,

Henry. 2006. Convergence Culture: Where Old and New Media Collide. New York: New

York University Press.

Henry. 2006. Hội tụ văn hóa: Nơi truyền thông cũ và mới đụng độ. New York: New

York University Press.

Jenkins, Henry, Sam Ford, and Joshua Green. 2013. Spreadable Media: Creating Value and Meaning in a Networked Culture. New York: New York University Press.

Jenkins, Henry, Sam Ford, và Joshua Green. 2013. Truyền thông lan truyền: Tạo giá trị và ý nghĩa trong nền văn hóa của văn hóa làm việc nhóm. New York: New York University Press

Jurgenson, Nathan. 2012. “When Atoms Meet Bits: Social Media, the Mobile Web and Augmented Revolution.” Future Internet 41:83–91.

Jurgenson, Nathan. 2012. “Khi nguyên tử gặp bit: Truyền thông xã hội, Trang mạng di động và cuộc cách mạng khuếch trương kỹ thuật số” Future Internet 41:83–91.

Kristal, Tali. 2013. “The Capitalist Machine: Computerization, Workers’ Power, and the Decline in Labor’s Share within U.S. Industries.” American Sociological Review 78:361–89.

Kristal, Tali. 2013. “Guồng máy TBCN: Máy tính hóa, Quyền lực công nhân, và sự suy giảm trong phân chia sức lao động trong các ngành công nghiệp Mỹ” American Sociological Review 78:361–89.

Kuchlich, J. 2005. “Precarious Playbor: Modders and the Digital Games Industry.” The Fibreculture Journal 5:25 (http://five.fibreculturejournal.org/fcj-025-precarious-playbour-modders-and-the-digital-games-industry/).

Kuchlich, J. 2005. “Tay chơi nhất thời: những người cải biên và công nghiệp trò chơi kỹ thuật số” Tạp chí tâm tính văn hóa 5:25 (http://five.fibreculturejournal.org/fcj-025-precarious-playbour-modders-and-the-digital-games-industry/).

Lazzarato, Maurizio. 1996. “Immaterial Labour.” Pp. 133–47 in Radical Thought in Italy: A Potential Politics, edited by M. Hardt and P. Virno. Minneapolis: University of MinnesotaPress.

Lazzarato, Maurizio. 1996. “Lao động phi vật thể” Pp. 133–47 in Tư duy cấp tiến ở Ý::Quan điểm chính trị có ưu thế, biên tập bởi M. Hardt and P. Virno. Minneapolis: University of MinnesotaPress.

Lyotard, Jean-Francois. 1979/1984. The Postmodern Condition: A Report on Knowledge. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Lyotard, Jean-Francois. 1979/1984. Điều kiện của hậu hiện đại: Báo cáo về kiến thức. Minneapolis: University of Minnesota Press.

Manjoo, Farhad. 2014. “Grocery Deliveries in Sharing Economy.” New York Times, May 22, pp. B1, B6.

Manjoo, Farhad. 2014. “Phân phối tạp hóa trong kinh tế dùng chung.” New York Times, May 22, pp. B1, B6

Marx, Karl. 1867/1967. Capital: A Critique of Political Economy. Vol. 1. New York: International Publishers.

Marx, Karl. 1867/1967. Tư bản: Phê phán về kinh tế chính trị học. Vol. 1. New York: NXB Quốc tế.

McLellan, David, ed. 1977. Karl Marx: Selected Writings. Oxford, England: Oxford University Press.

McLellan, David, ed. 1977. Karl Marx: Tuyển tập. Oxford, England: Oxford University Press.

Negri, Antonio. 1989/2005. The Politics of Subversion: A Manifesto for the Twenty-First Century. Malden, MA: Polity Press.

Negri, Antonio. 1989/2005. Nền chính trị biến chất: Một tuyên ngôn cho thế kỷ 21. Malden, MA: Polity Press.

Piketty, Thomas. 2014. Capital in the Twenty-First Century. Translated by A. Goldhammer. Cam-bridge, MA: Belknap Press.

Piketty, Thomas. 2014. Tư bản trong thế kỷ 21. A. Goldhammer biên dịch. Cam-bridge, MA: Belknap Press.

Rey, P. J. 2012. “Alienation, Exploitation, and Social Media.” American Behavioral Scientist 56:399–420.

Rey, P. J. 2012. “Cách ly, bóc lột, và truyền thông xã hội.” Nhà nghiên cứu tâm lý học hành vi Hoa Kỳ 56:399–420.

Rieder, Kirsten and G. Gunter Voss. 2010. “The Working Customer: An Emerging New Type of Consumer.” Journal Psychologie des Alltagshandelns/Psychology of Everyday Activity 3(2):2–10.

Rieder, Kirsten và G. Gunter Voss. 2010. “Khách hàng làm lụng: Sự nổi lên một dạng mới của người tiêu dùng.” Tạp chí tâm lý học trong hoạt động hàng ngày  3(2):2–10.

Rifkin, Jeremy. 2014. The Zero Marginal Cost Society; The Internet of Things, the Collaborative Commons, and the Collapse of Capitalism. New York: Palgrave Macmillan.

Rifkin, Jeremy. 2014. Xã hội có chi phí biên tiến về không; Mạng vạn vật kết nối, những người chi dùng chung, và sự sụp đổ của CNTB. New York: Palgrave Macmillan.

Ritzer, George. 1983. “The McDonaldization of Society.” Journal of American Culture 6:100–7.

CollaborativeCommons, and the Collapse of Capitalism. New York: Palgrave Macmillan.

Ritzer, George. 1983. “McDonald hóa xã hộiTạp chí văn hóa Mỹ 6:100–7.

Những người chi dùng chung, và sự sụp đổ của CNTB. New York: Palgrave Macmillan.

-. 1993. The McDonaldization of Society. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 1993. McDonald hóa xã hội. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 1995. Expressing America: A Critique of the Global Credit Card Society. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 1995. Nước Mỹ tốc hành: Một phê phán xã hội thẻ tín dụng quy mô toàn cầu. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 1997. Postmodern Social Theory. New York: McGraw-Hill.

-. 1997. Lý thuyết xã hội học về hậu hiện đại. New York: McGraw-Hill.

-. 2010. Enchanting a Disenchanted World. 3d ed. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 2010. Quyến rũ một thế giới bị mất hứng. chỉnh sửa lần thứ 3. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 2012. “ ‘Hyperconsumption’ and ‘Hyperdebt’: A Hypercritical Analysis.” Pp. 60–80 in

A Debtor World; Interdisciplinary Perspectives on Debt, edited by Ralph Brubaker, Robert W.Lawless, and Charles J. Tabb. New York/Oxford, England: Oxford University Press.

-. 2012. “ ‘Tiêu dùng thái quá và ‘nợ đìa’: Một phân tích phê phán cực kỳ gay gắt.” Pp. 60–80 trong Thế giới những con nợ: Quan điểm về nợ, hiệu đính bởi Ralph Brubaker, Robert W.Lawless, và Charles J. Tabb. New York/Oxford, England: Oxford University Press.

-. 2013. The McDonaldization of Society. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 2013. McDonald hóa xã hội. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press.

-. 2014. “Prosumption: Evolution, Revolution or Eternal Return of the Same?” Journal of Consumer Culture 30:3–24.

-. 2014. “Sản - tiêu: Tiến hóa, Cách mạng hay sự quay lại muôn thuở của cái giống như cũ?” Tạp chí văn hóa tiêu dùng 30:3–24.

-. 2015. “The ‘New’ World of Prosumption: Evolution, ‘Return of the Same’, or Revolution?”

Sociological Forum 14:3–24.

-. 2015. “Thế giới mới của sản – tiêu: Tiến hóa, Sự quay lại của cái giống như trước, hay Cách mạng?” Diễn đàn xã hội học 14:3–24.

Ritzer, George, Paul Dean, and Nathan Jurgenson. 2012. “The Coming Age of the Prosumer.”

American Behavioral Scientist 56:379–98.

Ritzer, George, Paul Dean, và Nathan Jurgenson. 2012. “Kỷ nguyên đang tới của người sản -tiêu” tạp chí Nhà nghiên cứu tâm lý học hành vi Hoa Kỳ 56:379–98.

Ritzer, George, Douglas Goodman, and Wendy Wiedenhoft. 2001. “Theories of Consumption.” Pp. 410–27 in Handbook of Social Theory, edited by George Ritzer and Barry Smart. London, England: Sage.

Ritzer, George, Douglas Goodman, và Wendy Wiedenhoft. 2001. “Những luận thuyết về tiêu dùng.” Pp. 410–27 trongCẩm nang về lý luận xã hội học, hiệu đính bởiGeorge Ritzer vàBarry Smart. London, England: Sage.

Ritzer, George and Nathan Jurgenson. 2010. “Production, Consumption, Prosumption: The Nature of Capitalism in the Age of the Digital Prosumer.” Journal of Consumer Culture 10:13– 36.

Ritzer, George và Nathan Jurgenson. 2010. “Sản xuất, Tiêu dùng, Sản - tiêu: Bản chất của CNTB trong thời đại người sản – tiêu kỹ thuật số” Journal of Consumer Culture 10:13– 36.

Ritzer, George and Don Slater. 2001. “Editorial.” Journal of Consumer Culture 1:5–8.

Ritzer, George và Don Slater. 2001. “Xã luận” Tạp chí văn hóa tiêu dùng 1:5–8.

Scholz, Trebor, ed. 2012. Digital Labor: The Internet as Playground and Factory. New York: Routledge.

Scholz, Trebor, ed. 2012. Lao động kỹ thuật số: Internet với tư cách là sân chơi và xưởng. New York: Routledge.

Schullenberger, Geoff. 2014. “The Rise of the Voluntariat.” Jacobin: A Magazine of Culture and Polemic. Retrieved May 29, 2014 (http://www.jacobinmag.com/2014/05/the-rise-of-the-voluntariat).

Schullenberger, Geoff. 2014. “Sự trỗi dậy của duy ý chí” Jacobin: A Magazine of Culture and Polemic. Retrieved May 29, 2014 (http://www.jacobinmag.com/2014/05/the-rise-of-the-voluntariat).

Schumpeter, Joseph Alois. 1976. Capitalism, Socialism and Democracy. 5th ed. London, England: Allen & Unwin.

Schumpeter, Joseph Alois. 1976. CNYB, CNXH và Dân chủ. 5th ed. London, England: Allen & Unwin.

Sklair, Leslie. 2002. Globalization: Capitalism and Its Alternatives. Oxford, England: Oxford Uni-versity Press.

Sklair, Leslie. 2002. Toàn cầu hóa: CNTB và những lựa chọn của nó. Oxford, England: Oxford Uni-versity Press.

Smythe, D. 1977. “Communications: The Blindspot of Western Marxism.” Canadian Journal of Political and Social Theory 1:120–7.

Smythe, D. 1977. “Thông tinh đại chúng: Điểm mù của CN Marx phương Tây” Canadian Journal of Political and Social Theory 1:120–7.

Smythe, D. W. 1981. “On the Audience Commodity and Its Work.” Pp. 253–79 in Media and Cul-tural Studies: Keyworks, edited by M. G. Durham and D. M. Kellner. New York: Blackwell.

Smythe, D. W. 1981. “Bàn về danh mục hàng của cử tọa và cách vận hành của nó.” Pp. 253–79 in Media and Cul-tural Studies: Keyworks, hiệu đính bởi M. G. Durham và D. M. Kellner. New York: Blackwell.

Sorkin, Andrew Ross. 2014. “How Uber Pulls in Billions, All via iPhone.” New York Times, June 10, pp. B1, B2.

Sorkin, Andrew Ross. 2014. “Làm sao Uber hút được hàng tủ, tất cả đều nhờ iPhone” New York Times, June 10, pp. B1, B2.

Streitfeld, David. 2014. “AIRBNB Listings Mostly Illegal, State Contends.” New York Times, October 16, pp. A1, B6.

Streitfeld, David. 2014. “Kê khai của AIRBNB, hầu như không hợp pháp, Nhà nước tuyên bố” New York Times, October 16, pp. A1, B6

Toffler, Alvin. 1980. The Third Wave. New York: William Morrow.

Toffler, Alvin. 1980. Làn sóng thứ ba. New York: William Morrow.

Tronti, Mario. 1966. Operai e Capitale (Workers and Capital). Turin, Italy: Einaudi. Veblen, Thorstein. 1899/1994. The Theory of the Leisure Class. New York: Penguin Books.

-. 1914/1964. The Instinct of Workmanship and the State of the Industrial Arts. New York: Augustus M. Kelly.

Tronti, Mario. 1966. Giới công nhân và tư bản. Turin, Italy: Einaudi. Veblen, Thorstein. 1899/1994. Lý luận của giai cp nhàn hạ. New York: Penguin Books.

-. 1914/1964. Bản năng của Tay nghề và Tình trạng của Nghệ thuật Công nghiệp.New York: Augustus M. Kelly.

Vogel, Ezra. 2011. Deng Xiaoping and the Transformation of China. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Vogel, Ezra. 2011. Đặng Tiểu Bình và công cuộc biến đổi Trung Quỗc. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Watson, Matthew and Elizabeth Shove. 2008. “Product, Competence, Project and Practice: DIY and the Dynamics of Craft Consumption.” Journal of Consumer Culture 8(1):69–89.

Watson, Matthew and Elizabeth Shove. 2008. “Sản phẩm, Đẳng cấp, Dự án và thực tiễn: Tự tay làm lấy (DIY) và động lực của tiêu dùng  kiểu thủ công” Tạp chí văn hóa tiêu dùng 8(1):69–89.

Weber, Max. 1903/1917/1949. The Methodology of the Social Sciences. New York: Free Press. -. 1921/1968. Economy and Society. 3 vols. Totowa, NJ: Bedminster Press.

Weber, Max. 1903/1917/1949. Phương pháp lun của khoa học xã hội. New York: Free Press.-. 1921/1968. Tạp chí Economy and Society. Tập 3. Totowa, NJ: Bedminster Press.

Williams, Rosalind H. 1982. Dream Worlds: Mass Consumption in Late Nineteenth-Century France. Berkeley: University of California Press.

Williams, Rosalind H. 1982. Những thế giới mộng tưởng: Tiêu dùng của dân chúng cuối thế kỷ 19 ở Pháp. Berkeley: University of California Press.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513522

Hôm nay

2308

Hôm qua

2315

Tuần này

21459

Tháng này

220395

Tháng qua

121356

Tất cả

114513522