Những góc nhìn Văn hoá
Văn hóa tâm linh
Văn hóa tâm linh là khái niệm đã được các nhà khoa học nghiên cứu, nêu ra định nghĩa. Tuy nhiên, hiện nay khái niệm này còn chưa được phân tích, làm rõ về tri thức học thuật của nó. Khái niệm văn hóa tâm linh biểu hiện hệ thống tri thức học thuật về mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa các mặt chủ yếu sau đây: bản chất văn hóa, tính chất tâm linh, thực chất văn hóa tâm linh. Từ cách thức tư duy như vậy, tác giả bài viết phân tích, luận giải, nêu ra định nghĩa văn hóa tâm linh, sự khiếm khuyết về nhận thức khái niệm này và đề xuất giải pháp khắc phục.
Nhận thức, định nghĩa khái niệm văn hóa tâm linh
Văn hóa tâm linh là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức “học thuật” [1] - tri thức khoa học do con người học tập, nghiên cứu mà có. Văn hóa tâm linh bao hàm các khái niệm văn hóa và tâm linh. Văn hoá là “khái niệm hẹp” (danh từ riêng) được hình thành từ các “khái niệm rộng” (danh từ chung) ghép lại là “văn” và “hóa”. Văn trong khái niệm văn hóa là nói về “hình thức ngôn ngữ” [2]; tức văn là khái niệm biểu hiện bản chất vật thể hay vật chất sống của các nhóm. Hóa trong khái niệm văn hóa là nói về sự “thay đổi thành cái khác” [3]; tức hóa là khái niệm biểu hiện tính chất phi vật thể hay phi vật chất (tinh thần) sống của các cá nhân. Giữa bản chất văn và tính chất hóa là thực chất “văn hóa” - khái niệm biểu hiện thực thể, ý thức sống của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Khái niệm văn hóa có thể được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau: Bản chất vật thể, vật chất sống - Thực chất thực thể, ý thức sống - Tính chất phi vật thể, tinh thần sống. Do vậy, văn hóa có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất thực thể, ý thức sống của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Từ mô hình cấu trúc và định nghĩa này cho thấy rằng, văn hóa là đối lập với “phản văn hóa” - khái niệm biểu hiện thực chất không có ý thức sống, hay sống không có văn hoá của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Nói cách khác, văn hóa chính là ý thức sống của con người; khi con người sống chỉ có vật chất, tinh thần tức là con người sống thiếu ý thức, hay sống thiếu văn hoá.
Khái niệm tâm linh bao hàm các khái niệm rộng ghép lại là “tâm” và “linh”. Tâm trong khái niệm tâm linh là nói về “tấm lòng nhân ái” [4]; tức khái niệm tâm biểu hiện bản chất “từ bi” (chân tâm) [5], hay sống chân tâmcủa các nhóm; linh trong khái niệm tâm linh là nói về “linh hồn” (hồn người chết) [6]; tức khái niệm linh biểu hiện tính chất “tinh thần” (thật tâm) [7], hay sống thật tâm của các cá nhân. Giữa tâm và linh là tồn tại “tâm linh” - khái niệm biểu hiện thực chất sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Mô hình cấu trúc của tâm linh có thể được biểu thị như sau: Bản chất sống chân tâm của các nhóm - Thực chấtsống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng - Tính chấtsống thật tâm của các cá nhân. Do vậy, tâm linh có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất đời sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Từ mô hình cấu trúc và định nghĩa này cho thấy rằng, tâm linh là đối lập với “giả dối” - khái niệm biểu hiện thực chất sống khôngchân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Nói cách khác, tâm linh chính là đời sống chân thật của con người; khi các cá nhân, nhóm, cộng đồng sống thiếu chân thật tức là quốc gia không có đời sống tâm linh.
Văn hóa và tâm linh là các khái niệm hẹp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; khi ghép lại, chúng sẽ hình thành nên khái niệm hẹp hơn là văn hoá tâm linh. Trong mối liên hệ giữa văn hoá và tâm linh, thì văn hóa là khái niệm biểu hiện bản chất vật chất sống chân tâm của các nhóm; tâm linh là khái niệm biểu hiệntính chất tinh thần sống thật tâm của các cá nhân; còn văn hoá tâm linh là khái niệm biểu hiện thực chất ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Văn hoá tâm linh có thể được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau: Bản chất văn hoá - Thực chất văn hoá tâm linh - Tính chất tâm linh. Do vậy,văn hoá tâm linh có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Từ mô hình cấu trúc và định nghĩa này cho thấy rằng, văn hóa tâm linh là đối lập với “phản văn hoá tâm linh” - khái niệm biểu hiện thực chất không có ý thức sống chân thật hay sống không có văn hoá tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Nói cách khác, văn hoá tâm linh chính là ý thức sống chân thật của con người; khi các cá nhân, nhóm, cộng đồng không có ý thức sống chân thật, tức là quốc gia không có đời sống văn hoá tâm linh; về thực chất, văn hoá tâm linh là biểu hiện của cái thiện, còn phản văn hoá tâm linh là biểu hiện của cái ác.
Khiếm khuyết về nhận thức khái niệm văn hóa tâm linh trên thế giới, ở Việt Nam, đề xuất giải pháp khắc phục
Trên thế giới, nhận thức khái niệm văn hóa tâm linh còn nhiều khiếm khuyết, bởi các công dân, nhà khoa học chưa hiểu biết rõ thực chất mối liên hệ giữa bản chất quy luật, tính chất khách quan và thực chất quy luật, hiện thực khách quan của các khái niệm nói chung, khái niệm văn hóa tâm linh, phản văn hóa tâm linh nói riêng. Việc không nhận thức rõ mối liên hệ giữa bản chất, tính chất và thực chất của khái niệm phản văn hóa tâm linh có thể được nhìn nhận là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xuất hiện các khuynh hướng “chủ nghĩa” phản văn hoá vào thế kỷ thứ XVII, hay tư tưởng lạc hậu, cực đoan, phản tiến bộ xuất hiện từ thời kỳ cổ đại cho đến nay. Chẳng hạn, phản văn hoá tâm linh trong tôn giáo, chính trị, xã hội có các chủ nghĩa, tư tưởng như: “chủ nghĩa duy tâm” (học thuyết cho rằng tinh thần, ý thức, tư duy, cái tâm lý là cái có trước, còn vật chất, tự nhiên, cái vật lí là cái có sau; đối lập với chủ nghĩa duy vật) [8]; “chủ nghĩa thần bí” (quan niệm con người có khả năng giao tiếp trực tiếp với cõi âm) [9]; “chủ nghĩa cá nhân” (đặt quyền lợi của cá nhân lên trên quyền lợi tập thể, xã hội); tư tưởng “vô thần” (không tin có Thượng Đế) [10]; tư tưởng “sùng bái cá nhân” [11] (kính phục cá nhân đến mức như tôn thờ), hay tư tưởng lạc hậu, giả dối, bá quyền, phân biệt chủng tộc, khủng bố, “Hồi giáo Cực đoan” [12]. Thực tế cho thấy rằng, hiện nay nhiều công dân, nhà khoa học còn chưa nhận thức rõ khái niệm văn hoá, tâm linh, ý thức, linh hồn, sự sống, cái chết là gì? Thậm chí không ít công dân, nhà khoa học cũng chưa hiểu rõ rằng, tại sao một tuần lại chỉ có 7 ngày mà không phải là 6 hay 8 ngày? Vì sao người theo đạo Phật ở một số quốc gia lại cúng tuần 49 (7x7) ngày đối với người thân sau khi mất? Những khiếm khuyết về tư tưởng, quan niệm, quan điểm, hay khuynh hướng chủ nghĩa được nêu ở trên có thể được coi là nguồn gốc dẫn đến tình trạng xung đột, chiến tranh suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm nay giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng, tôn giáo, dân tộc, quốc gia; đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, huỷ hoại môi trường sống, gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo, phân chia đẳng cấp xã hội, làm cho nhiều quốc gia tụt hậu, kém phát triển.
Ở Việt Nam, nhận thức khái niệm văn hoá tâm linh cũng còn nhiều khiếm khuyết, bởi nhiều công dân, nhà khoa học chưa hiểu biết rõ tính chất, bản chất, thực chất của khái niệm nói chung, văn hoá, tâm linh nói riêng. Văn hoá đã không được các nhà khoa học nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất ý thức sống của con người, mà chỉ biểu hiện bản chất, tính chất “vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” hay “những hoạt động của con người nhằm thoả mãn đời sống tinh thần” [13]; còn tâm linh chỉ được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện tính chất “tâm hồn, tinh thần” hay “khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm” [14]. Tức là, khái niệm văn hoá tâm linh đã chưa được các nhà khoa học làm sáng tỏ về tính chất tinh thần sống thật sự tồn tại ở bên ngoài xã hội, bản chất sự thật vật chất sống tồn tại ở bên trong tự nhiên và thực chất ý thức sống chân thật tồn tại ở giữa bên ngoài, bên trong thế giới tự nhiên và xã hội. Việc không nhận thức rõ thực chất khái niệm văn hoá tâm linh có thể được nhìn nhận là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thiếu vắng ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng ở Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, nhìn về tính chất, bản chất cho thấy, di sản văn hoá vật thể hay vật chất sống, phi vật thể hay tinh thần sống đã được UNESCO công nhận ngày càng nhiều về số lượng kể từ khi bắt đầu đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, nhưng nhìn về thực chất, thì văn hoá thực thể hay ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng lại có xu hướng giảm sút. Thực tế hiện nay cho thấy, văn hoá, đạo đức, lối sống trong xã hội có biểu hiện “xuống cấp trầm trọng” [15]; nhiều công dân chỉ coi trọng đời sống vật chất, tinh thần, mà coi nhẹ đời sống văn hoá tâm linh, tức coi nhẹ ý thức sống chân thật của mình; nhiều công dân, nhà khoa học không nhận thức rõ được thực chất của các khái niệm liên quan đến văn hoá tâm linh, như: môi trường văn hoá, văn hoá thực thể, văn hoá lành mạnh, văn hoá tinh thần, văn hoá chính trị, văn hoá ngoại lai, hay “xâm lược văn hoá” [16]. Văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII cũng đã nêu ra khiếm khuyết về ý thức sống, môi trường văn hoá biểu hiện thiếu lành mạnh của công dân như sau: “…thành quả trong lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hoá lành mạnh. Đạo đức, lối sống có mặt đáng lo ngại. Đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu… Môi trường văn hoá còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai,trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có triều hướng gia tăng. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao” [17].Khiếm khuyết về nhận thức thực chất văn hoá tâm linh còn được nhìn nhận là nguyên nhân dẫn đến xuất hiện nhiều hiện tượng phản văn hoá tâm linh trong đời sống thực tiễn. Chẳng hạn, nhiều công chức, viên chức trong bộ máy công quyền, công dân ngoài xã hội đã lợi dụng kẽ hở của luật pháp trong nền kinh tế thị trường để trục lợi cho cá nhân, phe nhóm, như: quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “trục lợi tâm linh” [18], kể cả trục lợi trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ dưới vỏ bọc “du lịch tâm linh” [19], danh hiệu “Nữ hoàng văn hoá tâm linh” [20]; ngoài ra, có không ít các hành vi “phản văn hoá trong các hoạt động tín ngưỡng” [21], “phản cảm tại các di sản văn hoá” [22], hay “hành vi lố lăng, vô ý thức để chụp ảnh nghịch ngợm [23];.v.v..Những khiếm khuyết về nhận thức khái niệm văn hoá tâm linh, đạo đức, lối sống xuống cấp như được nêu ra ở trên đã trở thành rào cản, tác động tiêu cực đến sự phát triển con người, xã hội, quốc gia.
Để khắc phục các khiếm khuyết về nhận thức khái niệm văn hóa tâm linh như được phân tích ở trên, theo tác giả bài viết, cần phải thực hiện một số giải pháp đổi mới tư duy về nghiên cứu khoa học, khái niệm văn hoá, tâm linh, văn hoá tâm linh như sau:
Một là, đổi mới tư duy nghiên cứu khoa học. Tư duy là khái niệm biểu hiện hoạt động trí tuệ của con người. Tư duy đúng đắn phụ thuộc vào “cách thức tư duy” - khái niệm biểu hiện tính chất xây dựng mục tiêu, bản chất đề ra phương pháp thực hiện mục tiêu và thực chất xác định nguyên tắc bảo đảm đạt được mục tiêu. Mô hình cấu trúc của tư duy có thể được biểu thị như sau: Bản chất tư duy theo quy luật - Thực chất tư duy theo quy luật, hiện thực khách quan - Tính chất tư duy khách quan. Tứctư duy đúng đắn được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất hệ thống tri thức học thuật về mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa xây dựng mục tiêu, đề ra phương pháp thực hiện và xác định nguyên tắc bảo đảm đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, nhiều năm nay, các công dân, nhà khoa học chỉ tư duy dựa trên cơ sở quy luật khách quan chứ không dựa trên cơ sở hiện thực khách quan. Do vậy, đổi mới tư duy về nghiên cứu khoa học tức là cần phải đổi mới tư duy trong giáo dục; nâng cao tư duy nhận thức cho công dân, nhà khoa học về quy luật và hiện thực khách quan, biết cách xây dựng mục tiêu, đề ra phương pháp thực hiện, xác định nguyên tắc bảo đảm đạt được mục tiêu. Đổi mới tư duy nghiên cứu khoa học như vậy là giải pháp để nâng cao hiểu biết cách thức tư duy của công dân, nhà khoa học trong học tập, làm việc và nghiên cứu.
Hai là, đổi mới tư duy về khái niệm văn hoá. Khái niệm nói chung, khái niệm văn hoá nói riêng được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau: “bản chất bên trong (động từ) - thực chất ở giữa (danh từ) - tính chất bên ngoài (tính từ)” [24]. Tính chất tính từ là nói về ngoại diên bên ngoài khái niệm; bản chất động từ là nói về nội hàm bên trong khái niệm; còn thực chất danh từ là nói về hiện thực toàn diện tồn tại ở giữa bên ngoài, bên trong khái niệm. Sinh thời, Hồ Chí Minh nhận thức rằng: “Khái niệm không phải là hiện tượng lẻ tẻ, là quan hệ bên ngoài nữa, khái niệm là đã nắm được cái bản chất, cái toàn diện, và quan hệ bên trong của mọi việc” [25]. Theo đó, mối liên hệ giữa các mặt bên ngoài, bên trong, toàn diện ở giữa của khái niệm văn hoá có thể được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau: Bản chất nội hàm bên trong (học văn hoá) - Thực chất hiện thực toàn diện tồn tại ở giữa bên ngoài, bên trong (văn hoá) - Tính chất ngoại diên bên ngoài (văn hoá học). Tính chất bên ngoài, hay khái niệm văn hoá học biểu hiện phi vật thể, phi vật chất sống của các cá nhân; bản chất bên trong, hay khái niệm học văn hoá biểu hiện vật thể, vật chất sống của các nhóm; còn thực chất hiện thực toàn diện tồn tại ở giữa bên ngoài, bên trong, hay khái niệm văn hoá biểu hiện thực thể, ý thức sống của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Điều đó có nghĩa, đổi mới tư duy về khái niệm văn hoá tức là cần phải giáo dục công dân nhận thức rõ văn hoá là khái niệm biểu hiện bản chất sự thật về học văn hóa, thực chất thật về văn hóa, tính chất thật sự về văn hoá học dựa trên cơ sở của mô hình cấu trúc như sau: “bản chất sự thật - thực chất thật - tính chất thật sự” [26].Đổi mới tư duy về khái niệm văn hoá như vậy là giải pháp để nâng cao ý thức sống, hay sống có ý thức trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội, cũng như trong phòng, chống các loại giặc ngoại xâm, nội xâm, giặc ở “trong lòng” về văn hoá đang có biểu hiện ngày càng tinh vi.
Ba là, đổi mới tư duy về khái niệm tâm linh. Nhận thức đúng đắn khái niệm tâm linh phụ thuộc vào công dân, nhà khoa học hiểu biết rõ mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa tính chất, bản chất, thực chất của tâm linh. Mối liên hệ giữa chúng có thể được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau: Bản chất tâm vật - Thực chất tâm linh - Tính chất tâm lý. Tính chất tâm lý biểu hiện sự thật tâm của các cá nhân; bản chất tâm vật biểu hiện sự chân tâmcủa các nhóm; thực chất tâm linh biểu hiện sự chân thật củacác cá nhân, nhóm, cộng đồng. Do vậy, đổi mới tư duy về khái niệm tâm linh tức là cần phải giáo dục công dân nhận thức rõ tâm linh là khái niệm biểu hiện thực chất sự chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng.Đổi mới tư duy về khái niệm tâm linh như vậy là giải pháp để nâng cao đức tính trung thực, sống chân thật của mỗi công dân trong cộng đồng, quốc gia; ngăn chặn các biểu hiện phản tâm linh khi nhiều địa phương đua nhau xây dựng nhiều đền, chùa, miếu, mộ to, cao, đồ sộ để trục lợi trong kinh doanh, gây lãng phí nhân lực, tài nguyên đất, nước, rừng của quốc gia.
Bốn là, đổi mới tư duy về khái niệm văn hoá tâm linh. Khái niệm văn hoá tâm linh biểu hiện thực chất mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa các khái niệm văn hoá và tâm linh. Trong mối liên hệ này, văn hoá là khái niệm biểu hiện bản chất đời sống vật chất hay vật chất sống chân tâm của các nhóm; tâm linh là khái niệm biểu hiện tính chất đời sống tinh thần hay tinh thần sống thật tâm của các cá nhân; còn văn hoá tâm linh là khái niệm biểu hiện thực chất đời sống văn hoá cộng đồng hay ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Tuy nhiên, nhiều năm nay, các nhà khoa học chỉ chú trọng vào nghiên cứu đời sống vật chất và đời sống tinh thần, chứ không chú trọng vào nghiên cứu đời sống văn hoá tâm linh, tức không chú trọng vào nghiên cứu ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Do vậy, đổi mới tư duy về khái niệm văn hoá tâm linh tức là cần phải giáo dục công dân hiểu biết rõ thực chất ý thức sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Đổi mới tư duy về khái niệm văn hoá tâm linh như vậy có thể được coi là giải pháp thiết thực để đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân còn nhiều khiếm khuyết về nhận thức các khái niệm nói chung, khái niệm văn hoá tâm linh nói riêng, nâng cao ý thức sống chân thật, hay sống có văn hoá tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người.
Tài liệu tham khảo:
[1], [2], [3], [4], [6], [8], [9], [10], [13], [14] Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 454, 1100, 447, 896, 570, 176, 178, 1124, 1100, 897.
[5]https://phatgiao.org.vn/chan-tam--ban-tam--dao-tam-vay-tam-nay-la-tam-nao-d35717.html
[7] https://www.chuahoangphap.com.vn/tin-tuc/chi-tiet-tam-that-va-tam-gia-2418/
[11]CD-ROM Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, t. 10, tr. 399.
[12] https://www.dkn.tv/the-gioi/chu-nghia-hoi-giao-cuc-doan-he-tu-tuong-nguy-hiem-nhat-cua-the-gioi-hien-dai.html
[15] https://giaoduc.net.vn/van-hoa/dao-duc-van-hoa-xuong-cap-tram-trong-chua-co-giai-phap-triet-de-post192332.gd
[16] https://baophapluat.vn/su-kien-ban-luan/xam-luoc-van-hoa-ro-rang-den-vay-sao-co-quan-van-hoa-khong-co-y-kien-gi-481373.html
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 125.
[18] https://nguoidothi.net.vn/truc-loi-tam-linh-la-phan-van-hoa-phi-dao-duc-18924.html
[19]https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/ngan-chan-tinh-trang-truc-loi-tu-du-lich-tam-linh-349779
[20]https://viettimes.vn/nu-hoang-van-hoa-tam-linh-viet-nam-xin-mien-nhiem-chuc-pho-truong-ban-chong-hang-gia-360181.html
[21] https://laodong.vn/thoi-su/chan-chinh-hanh-vi-phan-van-hoa-trong-cac-hoat-dong-tin-nguong-661076.ldo
[22]https://nhandan.org.vn/cung-suy-ngam/ngan-chan-hanh-vi-phan-cam-tai-cac-di-san-van-hoa-371700/
[23] https://www.sggp.org.vn/hanh-vi-phan-cam-giua-khong-gian-van-hoa-593512.html
[24]http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-phat-trien-o-viet-nam-123029
[25]CD-ROM Hồ Chí Minh (2013), Sđd, t. 7, tr. 123.
[26] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2651-doi-moi-tu-duy-nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.html
tin tức liên quan
Videos
Đền Hồng Sơn
Chuyển đổi số và liên thông Thư viện - xu hướng phát triển tất yếu
Một nước Nhật quá xa xôi!
Kí hiệu không gian rừng sim trong tác phẩm điện ảnh "Mắt biếc"
Lenk
Thống kê truy cập
114513524
2310
2315
21461
220397
121356
114513524