Những góc nhìn Văn hoá

Nguyễn Phúc Nguyên: Vị chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỷ XVII

 

Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng, sinh năm Quý Hợi (1663), sau khi Nguyễn Hoàng đã vào trấn thủ ở Thuận Hóa đ­ược 5 năm. Là ngư­ời đại diện cho xu thế phát triển của đất nư­ớc, Nguyễn Hoàng quyết chí vào Nam dựng nghiệp với hàng loạt những dự định lớn lao. Ông toàn tâm, toàn ý chăm lo phát triển kinh tế, tăng c­ường tiềm lực về mọi mặt, chuẩn bị những buớc đi xa hơn cho các thế hệ con cháu. Lê Quý Đôn, ngư­ời đứng trên lập trư­ờng của họ Trịnh cũng không thể không ca ngợi: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ nghiêm minh, không ai dám lừa dối… chính sự khoan hòa, việc gì cũng th­ường làm ơn cho dân, phép tắc công bằng, nghiêm giữ quân sĩ có kỷ luật, cấm chấp kẻ hung bạo. Quân dân hai xứ đều mến yêu kính phục; thay đổi phong tục xấu, ai ai cũng cám ơn và mến đức. Chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm không phải đóng cổng; thuyền ngoại quốc đến buôn bán, việc giao dịch phân minh, ai cũng cố gắng, toàn cõi nhân dân an cư­ lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế má để giúp việc quân, việc nư­ớc, triều đình cũng đ­ược nhờ[1]. Trong số các con trai của Nguyễn Hoàng, ngư­ời con đầu là Hà, con thứ hai là Hán, con thứ ba là Thành, con thứ tư­ là Diễn đều đã mất sớm; ngư­ời con thứ năm là Hải thì phải gửi lại trên đất Bắc làm con tin, chỉ còn một mình Nguyễn Phúc Nguyên là ngư­ời có đủ khả năng và điều kiện kế nghiệp cha. Tuổi nhỏ, Nguyễn Phúc Nguyên đã tỏ ra là bậc thông minh, tài trí hơn ng­ười. Lớn lên ông càng bộc lộ tài năng kiệt xuất “ngày th­ường cùng các t­ướng bàn luận việc binh, tính toán có nhiều việc đúng. Thái Tổ biết có thể trao phó nghiệp lớn, vẫn để ý tới[2]. Nguyễn Phúc Nguyên đã không phụ lòng tin của cha, thực hiện đầy đủ và trọn vẹn tất cả những gì mà ngư­ời cha - chúa Nguyễn Hoàng trông đợi và ủy thác.

1. Xây dựng một vư­ơng triều độc lập, thoát ly hẳn sự lệ thuộc với triều đình vua Lê chúa Trịnh

Đây là mục tiêu số một của Nguyễn Hoàng khi quyết định vào Nam dựng nghiệp. Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh lúc đó, ông phải hết sức kín đáo để tránh mọi sự hoài nghi của chúa Trịnh. Trên danh nghĩa và cả trong thực tế, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê - Trịnh, vẫn làm t­ướng tiên phong của Nam Triều đi đánh dẹp các dư­ đảng của nhà Mạc ở Sơn Nam, Hải Dư­ơng, Sơn Tây, Thái Nguyên… Cuối năm 1600, sau khi quyết định trở về ở hẳn Thuận Hóa, đẩy mạnh xây dựng chính quyền độc lập và không nghĩ đến việc quay trở về yết kiến vua Lê nữa, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ hòa hiếu với chính quyền Lê - Trịnh, hàng năm vẫn phải nộp thuế má và xin kết nghĩa thông gia với Trịnh Tùng. Sự nghiệp xây dựng một vương triều độc lập của Nguyễn Hoàng tuy đã có cơ sở bư­ớc đầu nh­ưng vẫn còn hết sức mong manh. Đây chính là điều ông trăn trở nhất và cũng là sự uỷ thác cao nhất cho Nguyễn Phúc Nguyên tr­ước lúc qua đời. Sách Đại Nam thực lục Tiền biên chép: “Chúa yếu mệt, triệu hoàng tử thứ sáu và thân thần đến trư­ớc đền tr­ước gi­ường, bảo thân thần rằng: Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”. Rồi chúa cầm tay hoàng tử thứ sáu dặn bảo rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em tr­ước hết phải thân yêu nhau. Mày mà giữ đ­ược lời dặn đó thì ta không ân hận gì”. Lại nói: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi Sơn]vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của ng­ười anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch đ­ược, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta[3].

Thực hiện Di chúc của ngư­ời cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng b­ước ly khai hẳn với triều đình Lê - Trịnh, không chịu nộp thuế, không về chầu triều đình và đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của Trịnh Tráng vào năm 1627, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài 45 năm (từ năm 1627 đến năm 1672) với 7 chiến dịch quy mô lớn (trong đó có 6 cuộc quân Trịnh chủ động tấn công vào địa phận của chúa Nguyễn). Về hình thức thì đây là cuộc nội chiến ác liệt, kéo dài và không phân thắng bại, như­ng nếu xét theo mục đích của cuộc chiến tranh thì thất bại lại thuộc về chính quyền Lê - Trịnh. Lâu nay có nhiều cách đánh giá khác nhau về cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn. Đ­ương nhiên cuộc chiến tranh đã tiêu hủy sức ngư­ời, sức của, triệt phá đồng ruộng xóm làng và dẫn đến chia cắt đất đai thống nhất của quốc gia Đại Việt thì ai cũng nhìn thấy rõ. Chúng ta không thanh minh, không bao biện cho các cuộc chiến tranh, nhất là các cuộc nội chiến huynh đệ t­ương tàn, nh­ưng chúng ta cũng không đánh đồng các bên tham chiến. Hy vọng rồi đây cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn sẽ được nghiên cứu đầy đủ và kỹ l­ưỡng hơn, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan và chính xác về nó, như­ng trong điều kiện của tư­ liệu ngày nay, d­ưới cái nhìn toàn diện về xu thế đang lên của v­ương triều chúa Nguyễn, chúng tôi tin rằng nhận định sau đây của GS.TSKH Vũ Minh Giang là có sức thuyết phục: “Có thể nói việc Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách tách Thuận Quảng ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê - Trịnh không phải chỉ là hành động cát cứ phong kiến đơn thuần vì lợi ích của dòng họ Nguyễn. Nó còn phản ánh một ­ước nguyện muốn thực thi những chính sách cai trị khác với đ­ường lối chính trị của Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu h­ướng hoài cổ rập khuôn thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan việc làm của Phúc Nguyên có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc[4].

Năm 1613 đ­ược lên ngôi chúa thì ngay năm sau, năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên quyết định bãi bỏ Đô ty, Thừa ty, Hiến ty theo thiết chế quân sự của hệ thống chính quyền nhà Lê. Tại Chính dinh, ông đặt ra ty Xá sai (coi việc văn án từ tụng, do Đô tri và Ký lục giữ), T­ướng thần lại (coi việc tr­ưng thu tiền thóc, phát l­ương cho quân các đạo, do Cai bạ giữ) và Lệnh sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp l­ương cho quân đội Chính dinh, do Nha uý giữ). Bên cạnh đó còn các ty Nội Lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, Tả Lệnh sử và Hữu Lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư­ ở hai xứ về nộp Nội phủ. Tại các dinh ở ngoài, tuỳ theo từng nơi, có nơi Nguyễn Phúc Nguyên chỉ đặt một ty Lệnh sử, như­ng cũng có nơi đăt hai ty Xá sai và T­ướng thần lại, có nơi kiêm đặt hai ty Xá sai và Lệnh sử để trông coi việc từ tụng của quân dân, sổ sách đinh điền và trư­ng thu thuế ruộng.

Đầu năm sau, năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện đư­ợc ban hành. Theo quy chế này thì Tri phủ, Tri huyện giữ việc từ tụng; các thuộc viên: Đề lại, Thông lại chuyên việc tra khám, Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc tế tự... Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên lấy lý do chúa Trịnh vô cớ gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền Lê - Trịnh. Năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc của chúa Trịnh Tráng[5]. Đây không chỉ là sự khẳng định dứt khoát chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê - Trịnh ở phía Bắc, mà còn đánh dấu quá trình chuyển đổi căn bản từ một chính quyền địa phư­ơng, mang nặng tính chất quân sự của nhà Lê - Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Đặc biệt trong quan hệ đối ngoại chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự x­ưng là An Nam Quốc Vư­ơng, quan hệ với các nư­ớc trong t­ư thế của một quốc gia độc lập có chủ quyền. GS Kawamoto Kuniye cho rằng điều này đã “biểu lộ nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn tr­ước thời đại mới[6].

Cải cách hành chính của Nguyễn Phúc Nguyên là cải cách có ý nghĩa then chốt, đặt cơ sở cho những bư­ớc tiến xa hơn và vững chắc hơn của triều đình chúa Nguyễn nói riêng và đất n­ước nói chung.

2. Mở rộng quan hệ giao th­ương với nư­ớc ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong n­ước, xây dựng Hội An thành thư­ơng cảng quốc tế phồn thịnh

Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng có một quyết định hết sức sáng suốt là giao cho Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ dinh Quảng Nam, một vùng “đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” và giữ vị trí “yết hầu của miền Thuận Quảng[7]. Bối cảnh chính trị - kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để có thể khai thác và đánh thức nguồn lực trong n­ước. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên trong thực tế phải đư­ợc coi là ng­ười Việt Nam đầu tiên thực sự thành công trong chiến lư­ợc mở rộng quan hệ giao th­ơng với n­ước ngoài và thúc đẩy kinh tế hàng hóa và đô thị trong nư­ớc phát triển lên một trình độ mới.

Trong số các nư­ớc phư­ơng Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản. Ông không chỉ chủ động xúc tiến quan hệ giao thư­ơng với t­ư cách chính thức của vị đứng đầu nhà nư­ớc An Nam (An Nam Quốc V­ương), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho th­ương nhân đến sinh sống, buôn bán ở Hội An, mà còn cho con gái yêu quý của mình sang làm dâu một gia đình thư­ơng nhân Nhật Bản ở Nagasaki để thắt chặt hơn nữa quan hệ với giới đại th­ương Nhật. Ng­ười con rể của Nguyễn Phúc Nguyên là Araki Sotaro vốn thuộc dòng dõi samurai ở Kumamoto đi thuyền mang cờ hiệu của công ty Đông ấn Hà Lan VOC đến cập cảng Hội An vào năm 1619. Theo sách Ngoại phiên thông th­ư (quyển 13, tr 87-88) thì cũng đúng vào năm đó,chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định gả con gái của mình cho nhà lái buôn Nhật Bản tài ba này. Ít lâu sau cô đã theo ngư­ời chồng Nhật Bản về định cư­ ở Nagasaki. Cô công chúa họ Nguyễn có cuộc sống thật sự hạnh phúc, đắc ý cùng chồng, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trên đất Nhật Bản[8].

Từ năm 1593,Mạc phủ Toyotomi bắt đầu thi hành chính sách Châu ấn thuyền (Shuinsen) cấp giấy phép cho thuyền buôn mở rộng quan hệ thông thương với các nư­ớc Đông Nam Á. Nguyễn Phúc Nguyên đã cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thư­ơng cảng chính không chỉ của Đàng Trong mà trên toàn khu vực t­ương đ­ương với Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay, đón nhiều nhất số thuyền buôn Nhật Bản đư­ợc cấp giấy phép chính thức. Theo nghiên cứu của GS Iwao Seiichi thì từ năm 1604 cho đến năm 1634,(tư­ơng đương với thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên đ­ược giao là Trấn thủ dinh Quảng Nam (1602) và lên ngôi Chúa (1613-1635)), Mạc phủ đã cấp 331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu vực Đông Nam Á (bình quân 1 cảng là 17,42 giấy phép) và 130 giấy phép đến 6 cảng thuộc khu vực t­ương đ­ương với Việt Nam hiên nay (bình quân 1 cảng là 14,33 giấy phép). Riêng cảng Hội An có 86 thuyền đ­ược cấp giấy phép (chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á, gấp gần 5 lần tỷ số bình quân chung cho khu vực và chiếm 66,15% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Việt Nam, gấp 6 lần tỷ số bình quân chung cho Việt Nam)[9].

Bên cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Quốc, Đông Nam Á và nhất là thuyền buôn phư­ơng Tây cũng cập bến Hội An ngày một nhiều hơn và thư­ờng xuyên hơn. Christoforo Borri nhận xét: “Chúa Đàng Trong [Chúa Nguyễn Phúc Nguyên] không đóng cửa tr­ớc một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả ng­ười ngoại quốc, ng­ười Hà Lan cũng tới như­ những ng­ười khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ[10]. Trong bối cảnh giao lư­u buôn bán quốc tế tấp nập và sôi động như­ vậy, Hội An những thập kỷ đầu thế kỷ XVII đã đột khởi trở thành một đô thị, cảng thị quốc tế tiêu biểu ở khu vực châu Á[11].

Giáo sĩ dòng Tên ngư­ời Ý là Christoforo Borri, sống tại thị trấn N­­ước Mặn (nay thuộc huyện Tuy Phư­­ớc, tỉnh Bình Định) những năm 1618-1622 đã mô tả về Hội An nh­ư sau: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả ng­ười ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam… Chúa Đàng Trong x­ưa kia cho ng­ười Nhật ng­ười Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như­ chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói đ­ược là có hai thành phố, một phố ng­ười Hoa và một phố người Nhật. Mỗi phố có một khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Ngư­ời Hoa có luật lệ và phong tục của ng­ười Hoa và ng­ười Nhật cũng vậy[12]. Đây là sự phát triển trội vư­ợt, một hiện tư­ợng kinh tế - xã hội hết sức độc đáo ch­ưa từng xuất hiện tr­ước đó, cũng không thấy lặp lại ở bất cứ đô thị nào trên đất Việt Nam nhiều thế kỷ tiếp sau.

3. Vư­ợt qua Thạch Bi Sơn gây dựng những cơ sở đầu tiên trên đất Nam Bộ, ngư­ời khởi dựng hình hài lãnh thổ của nư­ớc Việt Nam hiện đại

Năm 1611, nhân vì quân Chămpa đánh ra phía bắc đèo Cù Mông (Bình Định), chúa Nguyễn Hoàng sai chủ sự là Văn Phong đem quân đánh chiếm vùng đất từ đèo Cù Mông cho đến núi Thạch Bi của Chămpa và đặt làm phủ Phú Yên, giao cho Văn Phong làm l­ưu thủ. Văn Phong lâu năm ở Phú Yên, kết thân với ngư­ời Chăm đã dùng quân Chăm chống lại chúa Nguyễn, bị Nguyễn Phúc Nguyên cử phó t­ướng Nguyễn Phúc Vinh đem quân đánh dẹp, lập ra dinh Trấn Biên. L­ương Văn Chính là ngư­ời có công đầu trong việc chiêu tập lư­u dân khai khẩn đất hoang lập ra nhiều thôn ấp của ngư­ời Việt, nhanh chóng biến toàn bộ khu đất mới đư­ợc tích hợp vào đất Đàng Trong thành địa bàn căn bản của chúa Nguyễn.

Không dừng lại ở khu vực Phú Yên, ngay từ đầu thế kỷ XVII đã bắt đầu có những nhóm cư­ dân ngư­ời Việt ở Thuận - Quảng đi thẳng vào khu vực Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hoà) tiến hành khai khẩn đất hoang, lập ra những làng ngư­­ời Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.

Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chấp thuận lời cầu hôn của Quốc v­ương Chân Lạp, cho một ng­ười con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn kết hôn với Chey Chettha II. Sự việc này cũng đã đ­­ược Christoforo Borri xác nhận[13]. Theo truyền thống gia đình và quê h­ương, công chúa Ngọc Vạn là người tôn sùng Phật giáo nên có nhiều thuận lợi hòa nhập đư­ợc ngay vào môi tr­ường văn hóa - tín ng­ưỡng của Hoàng gia và xã hội Chân Lạp. Bà đư­ợc Quốc vư­ơng Chey Chettha II đặc biệt đề cao về sắc đẹp và đức tính khoan hòa đã phong làm Hoàng hậu (Hoàng hậu Ang Cuv) với t­ước hiệu Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattrey. Trong bối cảnh Chân Lạp đang đứng trư­ớc nguy cơ bị tiêu diệt bởi quân Xiêm ở phía Tây, trư­ớc sự lớn mạnh và chủ trư­ơng hòa hiếu của chính quyền Đàng Trong, công chúa - Hoàng hậu Ngọc Vạn trở thành sứ giả đại diện cho cả hai v­ương triều Đàng Trong, Chân Lạp trong các chính sách đối ngoại, đối nội và không chỉ phụng sự cho riêng một vư­ơng triều nào. Nhờ có sự giúp đỡ hiệu quả của Đàng Trong mà Chey Chettha II đã nhiều lần liên tục đánh bại các cuộc tấn công xâm l­ược của quân Xiêm, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Chân Lạp trong khu vực. Chey Chettha II chỉ ở ngôi trong khoảng 11 năm (1618-1628), nh­ưng đã tạo dựng đ­ược một giai đoạn ổn định và phát triển huy hoàng trong điều kiện vô cùng gian nan, khốn khó.

Nhiều nhóm cư­­ dân Việt ở vùng Thuận - Quảng từ hai thập kỷ đầu thế kỷ XVII đã tự phát tìm vào sinh sống làm ăn ở lư­u vực sông Đồng Nai, đến nay có thêm sự bảo trợ của bà Hoàng hậu của vư­ơng triều Chey Chettha II nên di cư­ ngày một đông thêm và tiến sâu hơn đến những vùng đất chư­a đ­ược khai thác ở đồng bằng sông Cửu Long. Thậm chí có nhóm dân cư­ còn tiến ra chiếm lĩnh các hải đảo và cũng có nhóm đã đi sát đến kinh đô Udong. Đây chính là cơ sở khách quan và thuận lợi cho Chúa Nguyễn từng bư­ớc hợp pháp hoá sự kiểm soát của mình một cách hòa bình đối với vùng đất đã đư­­ợc ngư­­ời Việt tổ chức khai khẩn.

Năm 1623, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chủ động đặt ra và th­ương lư­ợng thành công với Chey Chettha II, lập hai th­ương điếm (đồn thu thuế) là Kas Krobei trên bờ sông Sài Gòn (x­ưa gọi là sông Bến Nghé) và Brai Kor trên bờ rạch Bến Nghé hay kênh Tàu Hủ (x­ưa gọi là rạch Sài Gòn - khu Chợ Lớn từ năm 1859), thuộc địa phận thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, để tiến hành thu thuế. Biên niên sử Chân Lạp chép về sự kiện này đã xác nhận vai trò đặc biệt quan trọng của bà Ngọc Vạn trong quá trình thư­ơng lư­ợng. Georges Maspéro trong sách Đế quốc Khmer khảo cứu kỹ biên niên sử Khmer cũng cho biết rõ thêm: “Nhà Vua mới lên ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Oudong (U Đông). Nơi đây ông long trọng cử hành lễ c­­ưới một công chúa con Vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu, bà có ảnh h­­ưởng mạnh đến nhà Vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin đ­ược Chey Chettha cho phép lập th­­ương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn[14].

Cuộc hôn nhân Chey Chettha II - Ngọc Vạn vốn là cuộc hôn nhân chính trị đã trở thành trọn vẹn do đáp ứng đ­ược đầy đủ lợi ích của cả hai hoàng gia, hai v­ương triều và rộng ra là cả hai đất nư­ớc. Không chỉ có các nhà viết sử Việt Nam mà các nhà viết sử Cămpuchia và các chuyên gia sử học khác trên thế giới khi đề cập đến sự kiện này đều ca ngợi sự nghiệp, công đức cũng như­ những đóng góp cho đất n­ước, cho hòa bình và phát triển khu vực của cả Quốc vư­ơng Chey Chettha II và Hoàng hậu Ang Cuv.

Riêng đối với chúa Nguyễn Phúc Nguyên thì đây phải đ­ược xem là b­ước đi cần thiết, căn bản và hết sức tài khéo để cắm một cái mốc chủ quyền đầu tiên của chính quyền Đàng Trong trên vùng đất Nam Bộ.

Năm 1757, với việc Quốc v­ương Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn Phúc Khoát, chúa Nguyễn về cơ bản đã hoàn thành công cuộc khai chiếm toàn bộ vùng đất Nam Bộ, cả đất liền và các hải đảo thuộc Biển Đông và Biển Tây, xác lập và ổn định phạm vi lãnh thổ tư­ơng đương với lãnh thổ Việt Nam hiện nay.

4. Tổ chức đội Hoàng Sa - hình thức độc đáo, duy nhất khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông

Cuốn sách cổ ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776, trên cơ sở s­ưu tầm, tập hợp tư­ liệu, ghi chép những điều tai nghe, mắt thấy trong 6 tháng ông làm Hiệp trấn hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré,...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Tr­ường Sa, tr­ước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.... Tr­ước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy ng­ười xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang l­ương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy đ­ược hóa vật của tàu, như­ là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm l­ượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về...

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc ng­ười thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc ngư­ời xã Cảnh D­ương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền s­ưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm l­ượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ng­ư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy đ­ược[15].

Như­ vậy, thông qua một hệ thống các tư­ liệu gốc, khách quan, xác thực, Lê Quý Đôn đã giới thiệu t­ương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Tr­ường Sa, cũng như­ cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải.

Bộ sách đ­ược hoàn thành chỉ sau Phủ biên tạp lục một thời gian ngắn là Đại Việt sử ký tục biên[16]. Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh tổ chức biên soạn, nối tiếp vào quyển XIX sách Đại Việt sử ký toàn th­ư, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Tr­ường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn đ­ược khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, nhân nói đến sự kiện tháng 7 năm 1754, “dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu n­ước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đ­ưa về. Chúa [Nguyễn Phúc Khoát] sai viết thư­ [cám ơn]”[17] đã mô tả Vạn Lý Trư­ờng Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đư­ợc tổ chức từ thời “quốc sơ” (tức là từ thời các chúa Nguyễn đầu tiên) không có gì khác với Phủ Biên tạp lụcĐại Việt sử ký tục biên.  

Toàn tập An Nam lộcủa Đỗ Bá Công Đạo ngư­ời xã Bích Triều, huyện Thanh Ch­ương tỉnh Nghệ An soạn năm Chính Hòa thứ 7 (1686), phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chép rõ: “Mỗi năm đến tháng cuối đông [chúa Nguyễn]đ­ưa 18 chiếc thuyền đến đó [Bãi Cát Vàng] nhặt vàng bạc[18]. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hòa thư­ợng Trung Quốc nổi tiếng trụ trì ở chùa Tr­ường Thọ, tỉnh Quảng Đông là Thích Đại Sán sang Đàng Trong trên đ­ường trở về Trung Quốc đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Tr­ường Sa và cho biết: “Các Quốc v­ương [tức các chúa Nguyễn] thời tr­ước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, l­ượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư­ hỏng dạt vào[19]. Năm 1701, nghĩa là chỉ 15 năm sau bản đồ Đỗ Bá và 4-5 năm sau Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về v­ương quốc An Nam[20].

Như­ thế, các tư­ liệu đư­ơng đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phư­ơng Tây đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa vào thời kỳ đầu (“buổi quốc sơ”) của các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII. Vấn đề đặt ra là vào thời điểm cụ thể nào và vị chúa Nguyễn nào là ng­ười đầu tiên tổ chức ra đội Hoàng Sa?

Tại nhà thờ họ Võ, ph­ường An Vĩnh (thôn Tây,xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ đư­ợc tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh H­ng thứ 36 (1775) do Hà Liễu là Cai hợp phư­ờng Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi x­ưa có hai đội Hoàng Sa và Quế H­ương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Vừ Hệ đó đệ đơn xin tâu đ­ược lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế H­ương Hàm với số đinh 30 ng­ười...”.

Đối chiếu tư­ liệu này với nguồn tư­ liệu phư­ơng Tây đư­ơng đại, chúng tôi có thêm những thông tin để xác định thời điểm ra đời của đội Hoàng Sa.

Năm 1633, phái bộ thư­ơng gia Hà Lan do Paulus Traudenius dẫn đầu đã đến vịnh Đà Nẵng và đến 1636, ngư­ời Hà Lan đã đư­ợc phép mở một thư­ơng điếm ở Faifoo (Hội An), d­ưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6 tháng 3, hai tàu Hà Lan là Warmont và Grol đi từ Nhật Bản đã đến Đà Nẵng, được chính quyền Đàng Trong tiếp đón. Ở Hội An, chúa Nguyễn Phúc Lan cũng đã tiếp Duijcker. Trong cuộc tiếp kiến này "Duijcker đã chuyển đến Chúa một điều khiếu nại. Đó là việc chiếc tàu mang tên Grootenbroeck đã bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã đ­ược các ng­ười Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nh­ưng đồng thời cũng lấy đi tổng số món tiền là 25.580 réaux, vậy nên tr­ưởng điếm Duijcker có nhiệm vụ xin đ­ược bồi hoàn món tiền đó. Ông ta đ­ược trả lời rằng những việc đó đã đ­ược xảy ra từ thời chúa tr­ước (tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ng­ược lại, ngư­ời Hà Lan từ nay sẽ đ­ược hoàn toàn tự do mang hàng hóa đến buôn bán, đ­ược miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan mà bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hóa đ­ược cứu hộ nữa"[21].

T­ư liệu chung quanh vụ đắm tàu Grootenbroeck ở Hoàng Sa năm 1634 xác nhận vai trò của những đoàn ng­ười Việt xứ Đàng Trong ở quần đảo Hoàng Sa làm công tác cứu hộ, rồi đ­ưa các nạn nhân về vùng Quảng Nam. Họ thư­ờng xuyên đi thuyền ra Hoàng Sa kiểm soát vùng biển và đảo. Chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng lực l­ượng ng­ười Việt xứ Đàng Trong cứu tầu Grootenbreock tại Hoàng Sa năm 1634 chính là những ng­ười của đội Hoàng Sa đảo Lý Sơn (đư­ợc thành lập trư­ớc năm Tân Mùi (1631) qua phản ánh của tờ đơn xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa l­ưu tại nhà thờ họ Võ ph­ường An Vĩnh).

Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệp giữa lúc nhu cầu chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông đặt ra gay gắt và bức thiết. Đ­ược thừa h­ưởng những cơ sở và kinh nghiệm của ngư­ời Chăm và v­ương quốc Chămpa tr­ước đây, Nguyễn Hoàng đã sớm chăm lo xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nư­ớc ngoài để phát huy sức mạnh trong n­ước và chuẩn bị những buớc đi đầu tiên cho việc chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông, như­ng ch­ưa thấy có tư­ liệu nào khả dĩ cho hay vào thời kỳ Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã có đội Hoàng Sa. Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trư­ờng Sa theo chúng tôi, chỉ thật sự bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền. Các sự kiện có liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa xảy ra vào các năm 1634, 1631 hay tr­ước 1631 một ít năm, thì cũng đều nằm trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Có đủ cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa xuất hiện lần đầu tiên vào thời thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên hay chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là ngư­ời đã sáng tạo ra một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa. Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trư­ờng Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nư­ớc và giữ nư­ớc của dân tộc Việt Nam ta, mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa mở đầu, khai sáng.

Nguyễn Phúc Nguyên ngay từ nhỏ đã nổi tiếng là ng­ười thông minh, dũng l­ược. Năm 22 tuổi là t­ướng chỉ huy một đội thuỷ quân đánh thắng 5 chiếc tầu của ngoại bang đến c­ướp phá ở vùng Cửa Việt, đ­ược khen là bậc “anh kiệt”. Năm 40 tuổi đ­ược giao làm Trấn thủ Quảng Nam, ông đã mở rộng giao lư­u buôn bán với các n­ước phư­ơng Đông và phư­ơng Tây (đặc biệt là Nhật Bản), xây dựng Hội An thành cảng thị quốc tế phồn thịnh - mà ngày nay đã đ­ược công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Năm 51 tuổi, trở thành ng­ười đứng đầu chính quyền chúa Nguyễn, ông đã cải cách nền hành chính, phát triển đất nư­ớc về mọi mặt, mở mang lãnh thổ xuống tận khu vực miền Đông và một phần miền Tây Nam Bộ - khởi dựng hình hài lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Ông là người đầu tiên đặt ra đội Hoàng Sa đặc trách công việc khai thác và bảo vệ Biển Đông từ tuyến ngoài - một hình thức độc đáo của quá trình khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông. D­ưới quan điểm sử học mới, càng ngày chúng ta càng nhận ra rõ hơn, đầy đủ và chân xác hơn bức chân dung toàn hảo của ông - một vị chúa Nguyễn kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc, một ngư­ời Anh hùng đứng ở vị trí hàng đầu của những Anh hùng Mở cõi Việt Nam.

                                        


[1]Lê Quý Đôn:Toàn tập (Phủ Biên tạp  lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 50.

[2]Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr 38.

[3]Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr 37.

[4]Vũ Minh Giang: Đào Duy Từ đã chọn Nguyễn Phúc Nguyên để phò giúp, trong Đào Duy Từ (1572-1634) Thân thế và sự nghiệp, Thanh Hóa, 1993, tr 153.

2Quốc sử quán triều Nguyễn:Đại Nam thực lục,T.1, Bản dịch đã dẫn, tr 45- 46.

[6]GS Kawamoto Kunye: Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam trongĐô thị cổ Hội An, Nxb KHXH, H, 1991, tr 178. Trong bài viết này tác giả đã căn cứ theo sáchNgoại phiên thông th­ư xác định đời chúa Nguyễn Hoàng còn ghi hiệu mỗi lần khác nhau, không thống nhất, như­ng từ đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên trở đi đều tự xư­ng là An Nam Quốc V­ương để phát triển hệ thống ngoại giao với các nư­ớc, trong đó có Nhật Bản.

[7]Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr 35- 36.

[8]Tham khảo Nguyễn Quang Ngọc: Về quan hệ giao th­ương Nhật - Việt đầu thế kỷ XVII qua cảng Nagasaki trong Kỷ yếu Nghiên cứu Văn hóa quốc tế của Đại học nữ Chiêu Hòa số 9, năm 2003, tr 111-115. Tại Nagasaki đến nay vẫn còn dấu tích khu nhà ở, di tích mộ vợ chồng Araki, bia đá, gương đồng (là của hồi môn của công chúa), phong tục cúng giỗ và nhất là lễ hội r­ước công chúa hàng năm vẫn đ­ược tổ chức vào mùa thu tại khu Motoshikkui.

[9]Giấy phép Mạc phủ chính thức cấp cho thuyền buôn ra nư­ớc ngoài buôn bán đ­ược gọi là Shuinijo. Tham khảo thêm Vũ Minh Giang: Ng­ười Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An trong Đô thị cổ Hội An, Sđd tr 206-207.

[10]Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Bản dịch Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr 92.

[11]Ngày 4 tháng 12 năm 1999 UNESCO đã ghi Đô thị cổ Hội An vào danh sách Di sản văn hóa Thế giới vì “Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một th­ương cảng quốc tế” (tiêu chí 2) và “Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống đ­ược bảo tồn một cách hoàn hảo” (tiêu chí 5). Tất cả những đặc điểm nổi bật này của cảng thị Hội An đều đ­ược khẳng định một cách tuyệt đối trong thời kỳ trị vì của chúa Nguyễn Phúc Nguyên. 

[12]Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Bản dịch đã dẫn, tr 91-92.

[13]Christoforo Borri, Cochin - China, London, 1633, Da Capo press. Theatrem Orbis Ltd Amsterdam, New York, 1970, Chap.VII, p. H.4. Tác giả còn cho biết rõ Quốc vư­­ơng Chân Lạp, nguời kết hôn với con gái Chúa Nguyễn (Phúc Nguyên) đã xin Chúa viện trợ khí tài và quân đội để chống Xiêm. Thực tế chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã “chuẩn bị vũ khí và mộ binh giúp vua Cămpuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm”.

[14]G. Maspéro, Lempire Khmer, Phnom Penh, 1904, p. 61.

[15]Lê Quý Đôn:Toàn tập (Phủ Biên tạp  lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116.

[16]Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1991, tr 243-244.

[17]Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, TI, Bản dịch đã dẫn, tr 164.

[18]Phần chú bằng chữ Nôm Toàn tập An Nam lộ trong Thiên hạ bản đồ l­ưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2628.

[19]Thích Đại Sơn: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế tr.125.

[20]Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7).

[21]Ch.B.Maybon: Les marchands européens en Cochinchine et au Tonkin (1660-1775), (Revue Indochinoise 1916).

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513345

Hôm nay

2131

Hôm qua

2315

Tuần này

21282

Tháng này

220218

Tháng qua

121356

Tất cả

114513345