Những góc nhìn Văn hoá
Bản lĩnh Hồ Tông Thốc trong nền văn hóa Thăng Long - Đại Việt
Tranh minh hoạ: Trạng nguyên Hồ Tông Thốc( nguồn internet)
Văn hóa Thăng Long luôn luôn xứng đáng tiêu biểu cho cả nền văn hóa Đại Việt & thành tựu văn hóa Thăng Long không chỉ bó hẹp trong thành tựu của những người sinh trưởng ở đấy, mà còn gồm cả những tác phẩm của biết bao người con ở các địa phương trên cả nước viết một cách sâu sắc về kinh đô, về đất nước Đại Việt & cống hiến năng lực sáng tạo hết mình cho trung tâm kinh tế, văn hóa hàng đầu đất nước & cho cả nước. Tình yêu đối với Thăng Long không còn là sở hữu riêng của những người sinh ra tại Thăng Long mà còn là sở hữu chung của mọi người dân Đại Việt yêu quý kinh đô, trong đó có một người con ưu tú của xứ Nghệ là Hồ Tông Thốc胡宗鷟. Hồ Tông Thốc vừa là nhà thơ lỗi lạc, vừa là nhà sử học lớn. Các tác phẩm của ông thường có sức hấp dẫn của văn, sự rạch ròi công minh của sử & chiều sâu của triết.
Thời Trần (1225-1400) văn hóa Thăng Long đa dạng, uyển chuyển trong hệ tư tưởng cởi mở tam giáo đồng nguyên. Nhân tài Đại Việt nở rộ. Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1783) nhận xét: “Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng, vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách…”(1)
Thời gian này xứ Nghệ còn là đất trại, nhân vật thưa thớt tuy đã có một số tên tuổi ngời sáng như các Trạng nguyên Bạch Liêu, Hồ Tông Thốc, Sử Hy Nhan. Bạch Liêu (? - ?) đậu Trại Trạng nguyên năm 1226, chỉ làm gia khách cho Tri châu Nghệ An Trần Quang Khải, không ra làm quan và cũng không thấy tác phẩm để lại. Sử Hy Nhan (?-1421) đậu Trạng nguyên đời Trần Dụ Tông (1341-1369), viết Trảm xà kiếm phú 斬蛇劍賦 (phú kiếm chém rắn)và có người nói ông còn là tác giả bộ Đại Việt sử lược大越史略 nhưng cũng chưa gắn bó gì nhiều với văn hóa Thăng Long. Chỉ có Hồ Tông thốc là đáng chú ý hơn cả.
Hồ Tông Thốc (1324 - ?) người làng Quỳ Trạch, huyện Đông Thành (nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) nổi tiếng thông minh, học giỏi từ nhỏ. Lớn lên, ông được gia đình cho đi tầm sư, học đạo ở huyện Đường Hào, lộ Hồng Châu (nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên), rồi đậu Trạng nguyên năm 1341(2). Ông nhiều năm giữ chức Hàn lâm học sĩ, kiêm Trung thư lệnh, Đông các đại học sĩ ở kinh đô và đã từng sang sứ nhà Minh. Tài năng, nhân cách Hồ Tông Thốc được thăng hoa nhờ có dịp cọ xát trong môi trường văn hóa Thăng Long. Nam Ông mộng lục 南翁夢錄của Hồ Nguyên Trừng (đầu kỷ XV) chép: “Hồ Tông Thốc thi đỗ từ hồi còn rất trẻ, rất có tài danh. Mới đầu chưa nổi tiếng lắm. Nhân tiết Nguyên tiêu, có đạo nhân Pháp quan họ Lê giăng đèn mở tiệc để mời khách văn chương. Hồ Tông Thốc nhận giấy mời đề thơ. Trong một đêm, ngay trên bàn tiệc làm trăm bài thơ, uống trăm chén rượu, mọi người đều xúm xít thán phục, không ai địch nổi. Từ đấy danh lừng chốn kinh đô. Về sau dùng tài văn học làm thầy thợ cho người. Thời Trần Nghệ Tông, quan đến chức Hàn lâm học sĩ, Thừa chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ. Thơ & rượu không ngày nào vắng. Tuổi ngoài tám mươi mất tại nhà”(3).
Đáng tiếc là tập thơ Thảo nhàn hiệu tần 草 閒 效 顰 & các tác phẩm Việt Nam thế chí 越南世誌, Việt sử cương mục 越史綱目 của Hồ Tông Thốc đã mất từ hồi Đại Việt bị quân Minh đô hộ (1407-1427). Tác phẩm của ông hiện nay còn lại 3 bài văn bia: 1. Từ Ân tự bi minh tịnh tự慈恩寺碑銘并序 ông viết cho chùa Từ Ân ở xã Đông Hải phủ Thái Bình, sách Thơ văn Lý Trần đã công bố 2. Yên đăng Lưu quân thủy sơn Báo Ân viện minh安登劉君水山報恩院銘được chép trong sách Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên của Văn Bồng Nguyễn Tử Mân soạn năm 1862 mới được Trần Thị Kim Anh giới thiệu trên Thông báo Hán Nôm học 2009. 3.Phổ Thành tự bi 普成寺碑 được Trần Tử Quang, Nguyễn Phạm Bằng giới thiệu trên Thông tin Khoa học & Công nghệ Nghệ An số 1+2/2014 (4). Ngoài ra, gia phả họ Hồ, các tác phẩm Truyền kỳ mạn lục 傳奇漫錄 của Nguyễn Dữ, Hoàng Việt thi tuyển 皇越詩選 của Bùi Huy Bích còn chép được mấy bài thơ như Du Đông Đình họa Nhị Khê nguyên vận 遊東亭和蘂溪原韻 (2 bài) 遊東亭和蘂溪原韻. Sau đây là bài 1:
才識如君尚少年,Tài thức như quân tuổi thiếu niên,
文章嗟我老無緣。Văn chương ta ngã lão vô duyên.
已將得喪遺形外,Dĩ tương đắc táng di hình ngoại
不復功名到枕邊。Bất phục công danh đáo chẩm biên
變豹只堪閑隱客,Biến báo chỉ kham nhàn ẩn khách
羡魚何必苦臨川。Tiễn ngư hà tất khổ lâm xuyên
幸能日月頻來訪,Hạnh năng nhật nguyệt tần lai phỏng,
休怪東亭似磬懸 Hưu quái Đông Đình tự khánh huyền.
(Tài năng, tri thức như ông mà hãy còn trẻ, Văn chương, thương cho ta mãi vô duyên! Đã đem việc được mất đặt ngoài hình hài, Không để mộng công danh đến bên gối nữa. Biến báo, chỉ nhàn nhất người ở ẩn, Khen cá, hà tất làm khổ kẻ bên sông. Mong được ông ngày ngày tới thăm hỏi, Đừng ngại Đông Đình hiu quạnh như chiếc khánh treo)
Bài Thị ý 示意có 2 câu thể hiện rõ bản lĩnh nhà thơ: Hàn mặc tranh vi Vương Bột hậu, Văn chương thùy thí Giả Sinh tiền.翰墨爭為王勃後, 文章誰譬賈生前 (Tài bút mực quyết không chịu đi sau Vương Bột/Nghiệp văn chương ai biết ta còn đứng trước Giả Sinh)(5).
Bài tứ tuyệt Đề Hạng Vương từ 題項王祠(Đề đền Hạng Vương) cũng cùng một bản lĩnh ấy khi nhà thơ mỉa mai Hạng Vũ:
Quân bất quân hề, thần bất thần/Như hà miếu mạo tại giang tân? Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu, Hà tích tiêu tiền bách vạn cân?君不君兮臣不臣,如何廟 冒 在江濱? 江東昔日 猶 嫌 小 , 何 惜 消 錢 百 萬 斤? (Vua chẳng ra vua, tôi chẳng tôi, Bên sông miếu mạo để thờ ai? Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ, Tiền giấy sao nay lại vật nài?)(6).
Đề Hạng Vương từ còn một bài luật:
百二山河起戰烽,Bách nhị sơn hàkhởi chiến phong
攜將子弟入關中。Huề tương tử đệ nhập Quan Trung.
煙消函谷珠宮冷,Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh,
雪散鴻門玉斗空。Tuyết tán Hồng Môn ngọc đấu không.
一敗有天忘澤左,Nhất bại hữu thiên vong Trạch Tả,
重來無地到江東。Trùng lai vô địa đáo Giang Ðông.
經營五載成何事,Kinh dinh ngũ tải thành hà sự ?
銷得區區葬魯公。Tiêu đắc khu khu tángLỗ Công.
Non nước trăm hai nổi lửa chiến tranh, Đem đoàn tử đệ vào Quang Trung.
Khói tan nơi Hàm Cốc cung châu lạnh, Tuyết tan chốn Hồng Môn đấu ngọc vỡ tan. Số trời phải thua, chạy theo đường Trạch Tả, Lúc về không còn nẻo để đến Giang Đông. Năm năm lăn lộn được việc gì? Chỉ còn được vùi trong mả Lỗ công.
Đúng là bản lĩnh của một sứ thần Đại Việt thời Trần, sứ thần của một quốc gia đã từng nhiều lần chiến thắng Thiên triều hết sức vẻ vang! Đó là bản lĩnh của một người rất tự tin ở tài năng của mình, cũng như tự tin vào nhân tài Đại Việt! Các bài thơ đó dù không trực tiếp viết về Thăng Long, nhưng thật sự góp phần làm phong phú nền văn học Thăng Long!
Lòng tự tin của Hồ Tông Thốc hoàn toàn có cơ sở. Ông thật sự có đóng góp rất xuất sắc cho nền văn hiến Thăng Long - Đại Việt bằng tác phẩm Việt sử cương mục. Tác phẩm này được đại sử gia Ngô Sĩ Liên thời Lê sơ (1428 - 1527) rất mực đề cao. Tác giả của nó được xem là vượt cả Lê Văn Hưu & Phan Phu Tiên.
Đây là lời bình của sử gia họ Ngô: “Văn Hưu là đại thủ bút thời Trần, Phu Tiên là bậc cố lão của thánh triều ta,đều vâng chiếu biên chép lịch sử nước ta, tìm thêm các sách sử còn sót lại, gom hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa là được. Song ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa đáng, văn tự còn có chỗ chưa ổn; người đọc không khỏi có chỗ còn chưa vừa ý. Riêng có bộ Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc làm là ghi chép thận trọng mà có phương pháp, bình luận sự việc thiết đáng mà không rườm rà, cũng gần hy vọng được. Nhưng sau cơn binh lửa, sách ấy không truyền”(7)
Không thấy Ngô Sĩ Liên nhận xét gì về tác phẩm Việt Nam thế chí 越南世誌của Hồ Tông Thốc, nhưng chính ông là người đã đi tiếp con đường Hồ Tông Thốc khai sáng: con đường đưa thời đại Hùng Vương vào lịch sử nước ta. Nguyên bản Việt Nam thế chí đã mất, nhưng may mắn “Lời tựa” tác phẩm này được đại sử gia Phan Huy Chú (1782 - 1840) chép lại đầy đủ trong thiên Văn tịch chí 文 籍 誌 bộ Lịch triều hiến chương loại chí 歷朝憲章類誌 đồ sộ. Lời tựa này cho ta biết Việt Nam thế chí chép 18 đời vua Hùng & các đời nhà Triệu. Hồ Tông Thốc là người đầu tiên đưa ra danh xưng Việt Nam với ý nghĩa là quốc hiệu; người đầu tiên có quan điểm độc đáo, đúng đắn về thời Hồng Bàng (cũng tức là thời Hùng Vương), về mối quan hệ giữa huyền thoaị & lịch sử: “Huống chi đất Việt ta ở vào cõi xa, sự hiểu biết cũng khác, từ thời Hồng Bàng thời gian xa cách, trong lúc mở mang, sách vở chưa đủ, lễ nhạc chưa làm, nếu cho là có thực thì bởi đâu mà biết? Nếu cho là không có thì bởi đâu mà xét ra?Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt được ở tiếng vang, chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký từng đời mà thôi, còn những sự tích lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bậc quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Độc giả nếu lưu tâm nhận kỹ, có sức suy nghiệm thì ngọc & đá đều sẽ rõ ràng, những hình bóng tiếng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ…”(8)
Dù tác phẩm đã mất mát quá nhiều, nhưng nhờ có tài năng lớn, bản lĩnh vững vàng, thành tựu của danh nhân Hồ Tông Thốc vẫn mãi mãi là niềm kiêu hãnh của người dân xứ Nghệ, mãi mãi để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho văn nghệ sĩ, trí thức quê hương, trước hết là bài học sớm biết giao lưu, hội nhập văn hóa Thăng Long!
chú thích:
(1) Lê Quý Đôn toàn tập, T2 Kiến văn tiểu lục Nxb Khoa học Xã hội,H.1977,tr.258
(2), (6) Theo Nguyễn Trung Hiền: Hồ Tông Thốc in trong Người xứ Nghệ T2, Nxb Nghệ An, 2007,tr.37,39. Về học vị & năm thi đậu của Hồ Tông Thốc, của Sử Hy Nhan & của nhiều danh sĩ thế kỷ XIV chính sử đều chép thiếu. (Điều đó đễ hiểu vì Lê Văn Hưu mới chỉ chép sử triều Lý, Phan Phu Tiên chép sử triều Trần là người của thế kỷ XV (ông đậu Tiến sĩ năm 1429). Các bộ sử của 2 ông nay không còn nhưng đã được Ngô Sĩ liên (chưa rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết ông đậu Tiến sĩ năm 1442) tham khảo để đưa vào bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên từng phê phán các bộ sử của Lê Văn Hưu & Phan Phu Tiên là “ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa ổn”). Các tác giả hiện đại viết về họ thường theo tài liệu dã sử nên không thống nhất. Sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X - XVII T2Đinh Gia Khánh cb. H.1976 ghi Hồ Tông Thốc đậu Trạng nguyên năm 1372, sách Lược truyện các tác gia Việt Nam Tràn Văn Giáp cb Nxb Văn học.H.2000 ghi Hồ Tông Thốc đậu Trạng nguyên đời vua Trần Nghệ tông (1370 - 1372). Rõ ràng hai sách này chép sai vì Hồ Tông Thốc đậu lúc còn rất trẻ, không thể chỉ đậu trước Nguyễn Phi Khanh vài năm. Trong khi Nguyễn Phi Khanh thân sinh Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tuy không rõ năm sinh, năm mất nhưng biết ông đậu Thái học sinh năm 1374, mà khi Nguyễn Phi Khanh còn “thiếu niên” thì Hồ Tông Thốc đã lên lão: Tài thức như quân thượng thiếu niên/Văn chương ta ngã lão vô duyên 才識如 君尚少年, 文章嗟我老無緣 (Tài giỏi như ông tuổi hãy còn trẻ/Than cho ta theo đuổi văn chương, già vẫn vô duyên) (Hồ Tông Thốc: Du Động Đình họa Nhị Khê nguyên vận 遊東亭和蘂溪原韻(Đi chơi Động Đình, họa vần bài thơ của ông Nguyễn Phi Khanh làng Nhị Khê)
(3) Hồ Nguyên Trừng: Nam Ông mộng lục, Nxb Văn học, H.2001,tr.66.
(4)Trên Thông tin Khoa học & Công nghệ Nghệ An số 03 & số 04/2014 công bố Di văn danh sĩ Hồ Tông Thốc trên đất Bắc của Trần Tử Quang & cộng sự còn giới thiệu 2 tấm bia mà Thơ văn Lý Trần và Trần Thị Kim Anh đã công bố trước đó như chúng tôi đã nói ở trên.
(5)Vương Bột (王勃) (650 - 676): nhà thơ nổi tiếng thời sơ Đường; Giả Sinh tức Giả Nghị (賈誼): (201 TCN - 169 TCN), nhà văn nổi tiếng đời Tây Hán
(7) Ngô Sĩ Liên & Quốc sử quán triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư T1, Nxb Văn hóa - Thông tin, H.2003,tr.122.
(8) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, T3, Nxb Khoa học Xã hội, H.1992,tr.163.
tin tức liên quan
Videos
Các di sản văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thừa Thiên Huế
Quê hương Nghệ Tĩnh trong lòng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
Khu di tích Kim Liên hành trình đến với trẻ em miền núi
Người Amish ở Mỹ
Đền Hồng Sơn
Thống kê truy cập
114511662
2325
2336
22036
218535
121356
114511662