Trong số những nhà văn hoá hoạt động ở Nga nửa sau thế kỷ XIX, Vladimir Soloviev (1853-1900) chiếm giữ một vị trí cao quý đặc biệt. Theo sự đánh giá nhất trí của người Nga, ông là triết gia lớn nhất của nước Nga, là “một biểu hiện ngời sáng của thiên tài triết học Nga”, “một tên tuổi mà chúng ta (những người Nga - P.V.C.) có thể đem ra đối sánh với những cây đuốc vĩ đại của triết học thế giới” (lời của S. L. Frank, một hiền triết lớn của thế kỷ XX).
I- Con người và đường đời
1- Khởi phát của một triết gia thần-nhân luận
Vladimir Sergejevich Soloviev sinh ngày 16 tháng 1 năm 1853 (theo lịch Nga cũ) tại Moskva, trong một gia đình đại trí thức. Thân phụ của ông, Sergei Mikhailovich Soloviev (1820-1879) là một sử gia rất nổi tiếng, có tư tưởng tiến bộ, tác giả bộ Lịch sử nước Nga đồ sộ nhất trong thế kỷ XIX (29 tập) và là giáo sư và hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Moskva. Rất bận với công việc khoa học và giảng dạy, ông hầu như không còn thì giờ để chăm sóc những đứa con của mình (mà cả thảy có những 12 người), tuy vậy tinh thần yêu chuộng tự do, công lý, căm ghét cường quyền, bạo lực, toát ra từ toàn bộ trước thuật và nhân cách của người cha, đã thấm sâu từ thời niên thiếu và ở lại mãi mãi trong Vladimir Soloviev, làm nên một tố chất quan trọng trong hệ tư tưởng của ông. Ông nội Soloviev là một linh mục đạo Kitô chính thống; đức tin tôn giáo sâu sắc, lòng đôn hậu ở con người này, kết hợp với óc trào lộng hóm hỉnh thích vui đùa, hình như đã di truyền cho đứa cháu trai lỗi lạc của ông. Soloviev suốt đời ngưỡng kính cha và ông mình và sẽ đề tặng hương hồn họ tác phẩm triết học lớn nhất của mình - Biện chứng cái thiện. Sự qua đời của người cha yêu kính vào tuổi chưa đầy 60, giữa lúc tài năng khoa học của ông đang rộ nở, đã trở thành một trong những trải nghiệm đau đớn nhất trong cuộc đời của Soloviev, xúc tác sự hình thành sớm trong triết học và thơ ca của ông một môtip nổi trội thường trực - môtip không chấp nhận cái chết, môtip khát vọng bất tử được quan niệm như là kiểu tồn tại xứng đáng duy nhất với con người. Thân mẫu Soloviev - người đảm đương mọi việc trong gia đình và trực tiếp lo lắng giáo dưỡng con cái, trong đó một số người sẽ thành tài trong lĩnh vực văn chương và học thuật - mang trong mình hai dòng máu: Tiểu Nga (Ucraina) và Ba Lan. Phải chăng điều ấy giải thích một phần mối cảm tình nồng nàn của Soloviev đối với dân tộc Ba Lan, thời ấy còn mất nước, bị biến thành một bộ phận không bình đẳng trong đế quốc Nga khổng lồ. Người Ba Lan tuyệt đại đa số theo đạo Công giáo. Mối cảm tình đối với dân tộc ấy sau này sẽ trở thành một trong những nhân tố thôi thúc Soloviev dành rất nhiều công sức đấu tranh cho sự hoà giải và hoà hợp hai giáo hội lớn nhất thù địch lẫn nhau của đạo Kitô - Công giáo và Chính giáo.
Về thời thơ ấu và niên thiếu của Soloviev chúng ta có không nhiều tư liệu. Có điều chắc chắn là từ nhỏ ông đã ham học và học giỏi. 16 tuổi, ông tốt nghiệp trung học với huy chương vàng. Nhà triết học tương lai thông thạo nhiều ngoại ngữ - ngoài những Âu ngữ chính: Pháp, Đức, Anh, ý, Hy lạp, Latinh Soloviev còn biết nhiều tiếng Xlavơ và đọc không khó khăn Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái cổ và cuối đời cả kinh Coran bằng tiếng Arập. Sự uyên bác lạ thường, am thông đông tây kim cổ sau này sẽ cho phép Soloviev cất tiếng nói có trọng lượng về rất nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực rất xa nhau (bạn đọc cuốn sách này có thể nhận biết điều đó thí dụ qua thiên khảo luận Trung quốc và châu Âu). Về sự phát triển tinh thần của Soloviev từ tuổi thiếu niên sang thanh niên chúng ta có những hồi ký đáng tin cậy của nhà triết học L. Lopatin, từ nhỏ chơi thân với ông. Như L. Lopatin kể lại, con người ấy, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống sùng đạo, thời nhỏ cũng tỏ ra rất mộ đạo. Thế nhưng từ 13-14 tuổi, Soloviev đã trải qua một thời kỳ say mê chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần - say mê cuồng nhiệt đến nỗi không chịu đi lễ nhà thờ nữa và có lần đã bực tức vứt ra khỏi buồng mình những bức tranh thờ, khiến người cha vốn hiền hậu của ông phải nổi giận. Sau này chính Soloviev nói hóm hỉnh rằng thời ấy trong tâm thức ông sách giáo lý của giáo chủ Nga Filaret đã bị thay thế bằng sách giáo lý của Mochelotte và Buchner - hai nhà duy vật chủ nghĩa dung tục của Tây Âu làm mưa làm gió một thời. Cùng với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần, người thanh niên Soloviev cũng say mê tìm hiểu những học thuyết xã hội chủ nghĩa, đọc nhiều trước tác của những người khởi xướng phong trào này. Một số yếu tố xã hội chủ nghĩa - lòng yêu chuộng công bằng bác ái xã hội, sự khẳng định quan hệ liên đới giữa xã hội và cá nhân, sự phủ nhận sở hữu tư nhân như là nền tảng bất di bất dịch của tổ chức xã hội - sẽ mãi mãi ở lại trong tư tưởng Soloviev. Nhưng cũng trong những năm niên thiếu ấy, Soloviev bắt đầu mê say khám phá triết học thế giới, và ở đây mối tình đầu của ông là nhà triết học Hà Lan gốc Do Thái Baruch Spinoza (1632-1677), người đã đồng nhất Thượng Đế với thiên nhiên, tôn thờ thiên nhiên như Thượng Đế. ở Spinoza trực giác sống động về bản thể thần thánh thống nhất của vạn vật kết hợp với một lối tư duy mang tính lôgic hình thức rất chặt chẽ - cả hai tố chất này ta sẽ tìm thấy trong triết học và thần học Soloviev sau này, chúng làm nên nét đặc trưng dễ nhận thấy của ngòi bút Soloviev.
Với niềm say mê khoa học tự nhiên và một phần bị thu phục bởi thuyết tiến hoá của Darwin, Soloviev sau khi tốt nghiệp trung học vào học khoa toán-lý Đại học tổng hợp Moskva, chọn chuyên ngành lịch sử tự nhiên. Ba năm ông miệt mài nghiên cứu khoa học về sự sống, đặc biệt về thế giới động vật dưới sự hướng dẫn của những giáo sư có uy tín - những kiến thức sâu rộng trong lĩnh vực này sẽ bộc lộ trong nhiều công trình triết học của ông. Nhưng sang năm thứ tư, Soloviev bỗng nhiên bỏ học: khoa học thực chứng, với tất cả những thành tựu vang dội của nó, đã không còn thỏa mãn người thanh niên khao khát tìm tới chân lý cuối cùng về thế giới và con người. Soloviev chuyển sang học dự thính khoa văn-sử, chỉ đi nghe những bài giảng về triết học và sau một năm thi tốt nghiệp đặc cách. Luận văn tốt nghiệp của ông - Tiến trình thần thoại trong thế giới đa thần cổ đại (1873) - được công bố trên Tạp chí của Bộ giáo dục quốc dân Nga, cho đến ngày nay vẫn chưa mất giá trị khoa học. Ngay sau khi ra trường, Soloviev bất ngờ cho tất cả những người thân, xin vào học dự thính tại Chủng viện Chính giáo Moskva, miệt mài nghiên cứu thần học và giáo thuyết của đạo Kitô, nhưng chỉ sau một năm giã từ chủng viện, trở về với triết học, nhanh chóng hoàn thành và, 21 tuổi đời, bảo vệ thành công mỹ mãn luận án thạc sĩ dưới tiêu đề tự nó nói lên sức bao quát của công trình - Sự khủng hoảng của triết học phương Tây (chống chủ nghĩa thực chứng). Chính sau cuộc bảo vệ này, một sử gia, viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga đã nói một câu được nhanh chóng lan truyền trong giới học thuật: “Hình như có thể chúc mừng nước Nga có thêm một thiên tài”.
Chỉ qua những sự kiện bên ngoài vừa mới điểm, ta có thể ít nhiều hình dung được hành trình tinh thần khúc khuỷu và quyết liệt, diễn ra với vận tốc lớn bên trong người thanh niên Soloviev. Những bức thư còn lưu giữ được của ông gửi một người em gái họ, yêu ông say đắm và cũng được ông thương yêu, cho thấy đến tuổi hai mươi, ở Soloviev đã hình thành một thế giới quan và nhân sinh quan xác định mà thực chất sẽ không biến đổi trong suốt cuộc đời còn lại của ông. Trong bức thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1872, ông tâm sự với người yêu: “Anh rất vui mừng trước thái độ nghiêm túc của em đối với vấn đề lớn nhất (và theo anh là duy nhất) của cuộc sống và tri thức - vấn đề tôn giáo (…) Chúng ta biết rằng tất cả những nhà tư tưởng vĩ đại - niềm vinh quang của loài người - đều là những người tin đạo một cách chân chính và sâu sắc (…) Bacon, người sáng lập khoa học chính thực, đã nói một câu nổi tiếng: “Một ít trí thông minh, một ít triết học đẩy con người rời xa Thượng Đế, nhiều trí thông minh hơn, nhiều triết học hơn lại dẫn đến với Ngài” (…) Một tín đồ Kitô giáo có ý thức, thông hiểu bằng trí tuệ học thuyết của đạo Kitô, tìm thấy trong đó giải pháp cho mọi nan vấn cao nhất của trí thức - một kho tàng tư tưởng phong phú và sâu sắc đến mức trước nó mọi hư cấu của trí khôn con người đều đáng thương hại”. Tiếp theo, Soloviev thuật lại quá trình khổ ải của mình trở về với đức tin tôn giáo: “Vào tuổi ấy (thời niên thiếu - P. V. C.) anh không chỉ hoài nghi và phủ định những niềm tin trước đây của mình, mà còn căm ghét chúng bằng cả trái tim - thật xấu hổ nhớ lại những điều báng bổ thánh thần hết sức ngu ngốc mà anh đã nói và làm. Rốt cuộc là tất cả mọi niềm tin đều bị bác bỏ và trí tuệ non trẻ thấy mình được tự do hoàn toàn. Nhiều người dừng lại ở cái tự do khỏi mọi xác tín ấy và thậm chí còn rất kiêu hãnh về nó. Còn những ai không có khả năng thỏa mãn với số phận ấy thì cố gắng tạo ra một hệ thống xác tín mới kế vị hệ thống cũ, thay thế tín ngưỡng bằng tri thức duy lý. Và họ hướng tới khoa học thực chứng, nhưng cái khoa học ấy không thể tạo nên những xác tín minh tuệ, bởi vì nó chỉ biết có thực tại bên ngoài, chỉ rặt những thực tại và không có cái gì khác; ý nghĩa chân chính của thực tại, sự giải thích thấu đáo thiên nhiên và con người - cái đó khoa học không làm nổi. Một số người tìm đến với triết học trừu tượng, song nền triết học ấy luôn luôn ở lại trong lĩnh vực tư duy lôgic; thực tế, cuộc sống không tồn tại đối với nó. Nhưng xác tín thực thụ của con người thì không thể mang tính trừu tượng, mà phải là sống động, phải thẩm thấu không chỉ lý trí, mà toàn bộ sinh linh tinh thần của nó. Một xác tín sống như thế cả khoa học lẫn triết học đều không thể đem lại. Vậy tìm nó ở đâu? Thế là một tâm trạng tuyệt vọng khủng khiếp ập đến - một sự trống rỗng hoàn toàn bên trong, bóng tối và sự chết trong khi mình đương sống. Nhưng bóng tối ấy là khởi điểm của ánh sáng; bởi vì khi mà con người bắt buộc phải nói: tôi không là gì cả, - bằng cách ấy nó nói: Thượng Đế là tất cả”.
Như vậy, không thỏa mãn với cả khoa học thực chứng lẫn triết học tư biện, người thanh niên Soloviev sớm trở về với tôn giáo, nhìn thấy ở đức tin tôn giáo vấn đề hệ trọng nhất, thiết yếu nhất của đời sống con người. Thế nhưng tình trạng tôn giáo thời ấy lại cũng không thỏa mãn Soloviev một tí nào. “Tôn giáo thời nay là một cái gì đó đáng thương đến thảm hại, - Soloviev sẽ nói sau này trong một bài thuyết trình công cộng, - nếu nói đúng thì tôn giáo với tư cách một yếu tố thống ngự, một trung tâm của lực hấp dẫn tinh thần, tuyệt không còn nữa, mà thay thế nó có một cái gì đó được gọi là “tính mộ đạo” - như là một não trạng, một thị hiếu cá nhân: ở người này có, ở người kia không có, chẳng khác nào có những người yêu và những người không yêu âm nhạc”. Nguyên nhân của tình trạng ấy Soloviev nhìn thấy ở những sai lầm lịch sử của các tôn giáo, trong trường hợp cụ thể này là của đạo Kitô. Trong một bức thư khác gửi cũng người em gái họ ấy, ông viết: “Bản thân đạo Kitô trong lịch sử của mình đã chịu ảnh hưởng của cuộc sống sai trái, của cái ác mà lẽ ra nó phải tiêu diệt; và sự sai trái ấy đã làm tối, đã che khuất tôn giáo ấy đến nỗi ngày nay hiểu được chân lý từ trong nội bộ đạo Kitô hay tự mình tìm đến chân lý ấy đều là việc khó khăn như nhau”. Soloviev sẽ luôn luôn giữ thái độ phê phán không những đối với những lầm lỗi thực tiễn lịch sử của dạo Kitô, mà cả đối với nền thần học của nó, nhất là trong giáo hội Chính thống - một nền thần học đã chững lại không phát triển hơn nghìn năm, đã không quan tâm thích đáng đến nhân học, không làm sáng rõ tận tường chân lý về con người và quan hệ của nó với thánh thần và trong vũ trụ luận của mình đã tụt hậu quá xa, mâu thuẫn sâu sắc với những kết luận của khoa học thực nghiệm. Từ đấy mà Soloviev đặt ra cho mình nhiệm vụ “dẫn đưa nội dung vĩnh hằng của đạo Kitô vào một hình thức mới tương thích với nó, tức là hình thức hữu trí tuyệt đối”, có sức thu phục và cải hoá nhân quần. Việc ấy chỉ có thể làm được bằng cách thực hiện một cuộc tổng hợp giữa tôn giáo với triết học và khoa học hiện đại. Nhà tư tưởng trẻ ý thức rất rõ sự khó khăn vô cùng của công việc ấy nhưng quyết tâm cống hiến cả cuộc đời mình cho nó. Ông chối từ hạnh phúc cá nhân, chia tay với người bạn gái tâm tình của mình và sẽ không bao giờ lập gia đình riêng, nhìn thấy ở đó một trở ngại cho sự nghiệp của mình. Về phương diện này, Soloviev chỉ noi gót nhiều triết nhân lớn đi trước ông, từ Platon đến Kant. Nét đặc biệt của ông so với họ là ông sẽ suốt đời sống như một lữ khách trên mặt đất này, trú ngụ nay đây mai đó, không bao giờ có nơi ăn chốn ở ổn định, song điều đó không cản trở ông viết nên nhiều công trình đồ sộ hết sức hàn lâm.
Tác phẩm đầu tiên của Soloviev, vừa hàn lâm vừa táo bạo về tư tưởng, khẳng định con đường riêng của ông đi ngược dòng chủ lưu của triết học Tây Âu là luận văn thạc sĩ mà chúng tôi đã nói đến. Sau luận văn này, Soloviev được giữ lại làm giảng viên Đại học tổng hợp Moskva, nhưng chỉ ba năm sau, không chịu đựng được sự kèn cựa phe phái trong giới các đồng nghiệp, ông chuyển sang làm phó giáo sư Đại học tổng hợp Peterburg, đồng thời giữ chức ủy viên hội đồng khoa học của Bộ giáo dục quốc dân Nga. Giữa hai sự kiện bên ngoài ấy có một sự kiện khác, kỳ bí sẽ đặt dấu ấn sâu sắc lên toàn bộ sáng tác của Soloviev. Năm 1875 ông được cử sang London nghiên cứu triết học thần bí Tây Âu trung cổ. Soloviev, ngoài những gì chúng ta đã biết về ông, còn là một nhà ngoại cảm và nhà thần hiệp. Tại London, khi ông đang dùi mài kinh sử, một hôm ông bỗng nghe thấy tiếng nói của một sinh linh vô hình kêu gọi ông sang Ai Cập vì một cuộc hội ngộ kỳ diệu. Soloviev đã nghe theo tiếng gọi ấy, và tại Ai Cập ban đêm giữa sa mạc ông đã thấy tận mắt và nghe những lời cổ lệ của một sinh linh nữ giới hiện ra trước ông trong ánh hào quang rực rỡ. (Cuộc kỳ ngộ này sẽ được vĩnh cửu hoá trong một loạt thi phẩm của ông.) Trong linh thị ấy, Soloviev nhận ra sự hiển hiện của Nữ tính Vĩnh hằng hay là Linh hồn Vũ trụ, trong kinh sách Kitô giáo còn được gọi là Sophia - Minh triết của Chúa Trời. Từ đấy, nhà triết học và nhà thơ tài hoa (Soloviev sáng tác thơ từ thời niên thiếu, thi phẩm sớm nhất của ông còn lưu giữ được viết năm 1872) xác định mình là một hiệp sĩ trọn đời phụng sự Nữ tính Vĩnh hằng thần thánh. Trong sáng tác triết học, linh thị nói trên đã làm cơ sở cho Soloviev kiến tạo học thuyết về Sophia (sophiologie), nó cũng là học thuyết về Thần-Nhân loại (bởi vì, theo Soloviev, Sophia là nhân loại lý tưởng trong ý đồ của Thượng Đế). Học thuyết này trong thế kỷ XX sẽ được nhiều triết gia Nga lỗi lạc (Florenski, Bulgakov,Viacheslav Ivanov…) phát triển sâu rộng và hiện đang thu hút sự quan tâm của nhiều học giả phương Tây cũng như phương Đông (Đức, Pháp, Nhật).
Học thuyết về Thần-Nhân loại, mà nội dung chúng tôi sẽ còn nói đến, lần đầu tiên được Soloviev trình bày có hệ thống trong một loạt buổi thuyết trình công cộng tại Peterburg vào mùa xuân 1878. Là một bước phát triển mới, mạnh bạo thần học và nhân học Kitô giáo, nó đã làm chấn động dư luận trong giới trí thức thượng lưu Nga thời ấy (chỉ cần nêu một chi tiết: cả Dostoievski lẫn Lev Tolstoi đều thấy cần phải đến nghe những buổi thuyết trình ấy), nhưng lại gây ra sự dị nghị lớn trong giới tăng lữ chính thống không tìm thấy trong kinh sách một lời nào về Thần-Nhân loại - quả thật, từ ngữ và khái niệm này là sáng tạo thuần túy của Soloviev. Bằng Những thuyết trình về Thần-Nhân loại (được in thành sách ngay năm 1881) Soloviev xuất hiện như là một nhà thần học thế tục không có tiền bối trong xã hội Nga (nếu không kể đến Khomiakov, nhà thần học nghiệp dư mà những trước tác lúc ấy đa số chưa được công bố). Cùng với thần học, cũng trong những năm ấy, Soloviev nhanh chóng phác thảo hệ thống triết học của mình bao gồm lý thuyết nhận thức, siêu hình học, đạo đức học và triết học lịch sử được trình bày tập trung trong hai tác phẩm: Những nguyên lý triết học của tri thức toàn vẹn (1877) và Phê phán những nguyên lý trừu tượng (1877-1880), công trình sau, có quy mô lớn, được Soloviev bảo vệ thành công vang dội như là luận án tiến sĩ triết học vào năm 1880.
Danh giá của Soloviev như một triết gia và một diễn giả có tài hùng biện xuất chúng đương nổi như cồn thì một bước ngoặt trong đời đã đột ngột xảy ra với ông. Tháng 3 năm 1881 Xa hoàng Alexandre đệ Nhị bị những người cách mạng ám sát. Tuyệt không đồng tình với những người đã giết vua Nga, nhìn thấy ở hành động của họ triệu chứng của một căn bệnh trầm kha của cả xã hội Nga, Soloviev tuy vậy trong một buổi diễn thuyết công cộng vẫn tuyên bố dõng dạc: Xa hoàng mới phải ân xá cho các phạm nhân vì sự nghiệp hoà giải dân tộc và để chứng minh mình là con chiên chân chính của Chúa Kitô. Không dừng lại ở đấy, nhà triết học của chúng ta còn viết thư trực tiếp cho Alexandre đệ Tam, một lần nữa khuyến nghị ân xá những người đã giết chết cha ông ta. Nhà văn Nga số một thời ấy, Lev Tolstoi cũng làm như thế, nhưng ý kiến của cả hai người đã đều không được đếm xỉa. Song nếu nhà đương cục không dám đụng đến Tolstoi, thì với Soloviev người ta đã xử lý khắc nghiệt hơn. Chiếu cố đến việc ông là con một sử gia trứ danh có công với tổ quốc, người ta đã chỉ trừng phạt ông bằng cách yêu cầu từ bỏ nghề nhà giáo và từ nay trở đi không được diễn thuyết công cộng, trừ những trường hợp được chính quyền cho phép. Trước Soloviev chỉ còn lại một con đường: sống bằng ngòi bút của mình. Ông tạm thời gác lại triết học, chuyển sang viết chính luận, hoạt động xã hội và tôn giáo.
2. Đấu tranh cho thần quyền và nhân quyền
Soloviev, theo ngay khí chất bẩm sinh của mình, là một chiến sĩ. Giả sử có điều kiện, ông cũng sẽ không sống một cuộc sống phẳng lặng, tĩnh tại, chỉ dạy học và viết sách như Kant, Hegel, Schelling - những đại triết gia mà ông kính nể và muốn đua tài thi sức với họ. Đối với Soloviev, và về mặt này ông là một người Nga thực thụ, chỉ nhận thức và diễn đạt được chân lý là không đủ - điều quan trọng hơn là phải đưa nó vào cuộc sống, làm sao cho nó được thực hiện trong mọi hoạt động của con người và xã hội loài người. Tin tưởng sắt đá vào “chân lý vĩnh hằng của đạo Kitô”, nghiên cứu rất kỹ lịch sử của nó và lịch sử thế giới nói chung, Soloviev đau khổ nhận thấy rằng chân lý ấy mới chỉ ở lại trong tín ngưỡng, chứ chưa thẩm thấu đời sống của nhân loại Kitô giáo. Các dân tộc và quốc gia Kitô giáo trong nội bộ và nhất là trong quan hệ với nhau vẫn tiếp sống không theo giới luật của Chúa Trời và những răn dạy của Kitô, mà theo luật “tự nhiên”, luật người với người là chó sói, tạo căn cứ cho phong trào phản tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục ngày một ưu thắng. Bản thân đạo Kitô từ một giáo hội thống nhất có quy mô toàn cầu, từ lâu đã chia xẻ thành nhiều giáo phái thù địch và phủ định lẫn nhau. Sự thù địch, quay lưng lại nhau ấy, theo Soloviev làm suy giảm trầm trọng sức mạnh của đạo Kitô, trực tiếp cản trở sự nghiệp thiêng liêng - thực hiện công lý của Chúa Trời trong thế gian này. Đặc biệt, theo Soloviev, sự chia rẽ giữa đạo Công giáo và Chính giáo là không thể chấp nhận, vì nó không có một cơ sở giáo lý nào nghiêm túc mà chỉ là hệ quả của chính sách không đúng đắn của cả hai giáo hội. Tuyên xưng một đạo Kitô thống nhất hợp quần toàn thế giới (theo đúng biểu thức tín ngưỡng của đạo này), Soloviev nhìn thấy sứ mệnh của mình ở việc hoà giải và hoà hợp hai giáo hội anh em, ý thức đầy đủ được rằng đây là công việc hết sức khó khăn gian khổ, vượt quá sức một cá nhân. Nhưng ông hy vọng bằng sức mạnh của lời nói chính luận của mình sẽ thu phục được nhân tâm, tập hợp được một đội ngũ những người cùng tư tưởng thuộc cả hai giáo hội Chính giáo và Công giáo, dần dần làm chuyển biến ý thức xã hội, tạo nên một phong trào đấu tranh cho sự thống nhất đạo Kitô. Trong tâm tưởng của mình, nhà triết học Nga khao khát một điều còn to lớn hơn rất nhiều - một thế giới đại đồng, mà trong đó đạo Kitô thống nhất, được tẩy rửa khỏi mọi lỗi lầm lịch sử, làm ngời sáng chân lý của mình như là tôn giáo Thần-Nhân loại, sẽ trở thành tín ngưỡng sống động, tự nguyện và có sức mạnh chi phối tất cả của toàn thể loài người, của mọi dân tộc và quốc gia. Thế giới ấy, mà Soloviev gọi là thế giới của “nền thần quyền tự do” (đối lập với thần quyền cưỡng chế đã và đang phá sản) sẽ là giai đoạn phát triển cao nhất và đích cuối cùng của lịch sử nhân loại. Để xác định những đường nét cụ thể của thế giới lý tưởng ấy, Soloviev dự kiến viết một công trình khổng lồ dưới tên chung Lịch sử và tương lai của thần quyền (nghiên cứu con đường lịch sử toàn thế giới đi tới cuộc sống chân chính) gồm ba quyển, trong đó chỉ hai quyển được hoàn thành, nhưng đều không được kiểm duyệt cho phép ấn hành ở trong nước, mà phải in ở nước ngoài; quyển thứ nhất,mang tên nói trên, ra mắt độc giả tại Serbie (Nam Tư ngày nay) năm 1887, quyển thứ hai dưới tiêu đề Nước Nga và Hội thánh toàn thế giới được viết bằng tiếng Pháp và xuất bản ở Paris năm 1888. Ngoài hai cuốn sách lớn này, trong thập niên 1880-1890 Soloviev đã viết hàng chục tác phẩm chính luận và khảo luận về vấn đề tôn giáo - tín ngưỡng, một số được in ở trong nước, một số phải công bố ở ngoài nước. Sau đây là tên một số tác phẩm quan trọng nhất: Về sự phân liệt trong nhân dân và xã hội Nga (1882), Cuộc tranh chấp vĩ đại và nền chính trị Kitô giáo (1883), Những cơ sở tâm linh của đời sống (1884), Người Do Thái với đạo Kitô (1884), Sự phát triển giáo thuyết của đạo Kitô (1885), Học thuyết của mười hai thánh tông đồ (1886), ý tưởng Nga (1888). Cũng trong thập niên này, Soloviev trao đổi thư từ và tiếp xúc với nhiều nhà hoạt động tôn giáo ở trong và ngoài nước, trong đó có một vài chức sắc cao cấp của đạo Công giáo và theo một số tư liệu đã hội kiến với chính Giáo hoàng Léon XIII. Quan niệm rằng đạo Kitô thống nhất toàn thế giới không thể thiếu được người lãnh đạo tối cao, Soloviev, hệt như một người công giáo chân tín, nhìn thấy người lãnh đạo ấy ở vị Giáo hoàng La Mã - người kế vị của thánh tông đồ Pierre (Phêro) đã được chính Chúa Kitô chỉ định chăn các con chiên của Ngài trên trái đất. Trong sách Nước Nga và Giáo hội toàn thế giới ông kêu gọi tất cả các dân tộc Xlavơ noi gương nhiều vị sư phụ của giáo hội phương Đông, thừa nhận uy tín tinh thần tối cao của vị giáo chủ thành Roma. Nhưng với toà thánh Vatican ông lại đưa ra những yêu sách mà nó đã bác bỏ ngay lập tức: a) thừa nhận tính đa dạng của các lễ thức mang bản sắc dân tộc - khu vực; b) thừa nhận quyền tự trị của các giáo hội dân tộc và liên dân tộc phương Đông. Tương truyền, Giáo hoàng Léon XIII đọc xong cuốn Nước Nga và Hội thánh toàn thế giới, mà trong đó Soloviev trình bày đầy đủ hơn cả học thuyết của mình về “nền thần quyền tự do” thống hợp toàn nhân loại, đã phán một câu: “Cái đó chỉ có thể xảy ra bằng phép mầu”. Phản ứng của giáo hội Nga còn gay gắt hơn: một loạt học giả chính thống đã đả kích Soloviev kịch liệt, báo chí Nga bị cấm không được đăng những bài viết của ông về đề tài tôn giáo.
Như vậy, tính bất khả thi của những ý đồ to tát của Soloviev về “cuộc tổng hoà giải và hoà hợp của thế giới Kitô giáo” trong bối cảnh thời ấy là quá rõ ràng. Nhưng, lạc lõng trong thời đại của mình, khát vọng của Soloviev sẽ từng bước trở thành hiện thực trong các thời đại sau. Phong trào vì một giáo hội toàn thế giới (oecuménisme), phát sinh từ những năm 30 thế kỷ trước và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng (chúng được thể hiện thí dụ trong những văn kiện chính thức của công đồng Vatican II) hiện nay đánh giá rất cao những công lao của Soloviev, xem ông là một trong những bậc tiền bối và nhà tiên tri của mình. Có điều nhà tiên tri này đã phải hứng chịu số phận của một “người báo tin quá sớm về mùa xuân đến muộn”. Nếu ở ngoài nước còn có những người cảm tình với tư tưởng của ông, mặc dù họ thấy nó là không tưởng, thì ở trong nước Nga, nơi chủ nghĩa bảo thủ còn thống trị đầu óc của hàng giáo phẩm và tuyệt đại đa số giáo dân, Soloviev bị rơi vào thế cô lập hầu như tuyệt đối. Nhiều “chiến hữu” cũ của ông thuộc phái thân Xlavơ, trung thành với đạo Kitô chính thống hẹp hòi và coi nó là quốc hồn quốc túy của nước Nga, vĩnh viễn quay lưng lại với ông. Phái thân phương Tây, hồi ấy đã có ảnh hưởng trong xã hội Nga thì, do chủ nghĩa vô thần của mình, hoàn toàn bàng quan đối với những hoạt động tôn giáo của Soloviev. Bị căm ghét, bị hiểu lầm và bị thờ ơ, Soloviev không nao núng tinh thần, không đổi thay những chủ kiến của mình. Năm 1892, trong một bức thư gửi một đối thủ tư tưởng (V. Rozanov), ông viết: “Do tệ bài Giáo hoàng một phần gian dối, một phần thật thà một cách ngu ngốc nhưng trong mọi trường hợp đều phản đạo ở nước ta, tôi đã thấy và vẫn thấy là cần thiết chỉ ra cái ý nghĩa chính diện của hòn đá nền mà chính Kitô đã đặt (ngụ ý thiết chế giáo hoàng La Mã - P. V. C.), nhưng tôi không bao giờ xem hòn đá ấy là chính Hội thánh - không xem cái nền là cả toà nhà. Tôi cũng xa lạ với tính hạn hẹp La tinh (ám chỉ đạo Công giáo - P. V. C.), cũng như tính hạn hẹp Byzance (ám chỉ đạo Chính thống), hay Ausburg (ám chỉ giáo phái Luther), hay Genève (ám chỉ giáo phái Calvin). Tôn giáo của Thần Khí mà tôi tuyên xưng rộng lớn hơn và đồng thời có nội dung phong phú hơn tất cả các tôn giáo riêng rẽ: nó không phải là số tổng, cũng không phải là chất chiết xuất từ chúng, cũng như một con người toàn vẹn không phải là số tổng, cũng không phải là chất chiết xuất từ các cơ quan riêng rẽ của mình.” Để chứng tỏ mình vẫn trung thành với lý tưởng đạo Kitô thống nhất của toàn thế giới và đứng bên trên những dị biệt và xích mích giữa các giáo phái, Soloviev về cuối đời, khi mọi hy vọng về sự hoà giải và hoà hợp thế giới Kitô giáo đã tan biến, một lần với sự chứng kiến của mấy người quen đã thụ lễ ban thánh thể ở một nhà thờ Công giáo ở Moskva.
Chống chủ nghĩa giáo phái hẹp hòi, Soloviev trong hoạt động chính luận của mình đồng thời cũng cương quyết chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Cái chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ấy ở nước Nga thời Soloviev gắn với tư trào (hậu kỳ) thân Xlavơ và là hậu thuẫn tư tưởng cho chính sách sôvanh nước lớn của nhà nước Nga Xa hoàng. Soloviev thời trẻ chịu ảnh hưởng của hai nhà tư tưởng đã khởi xướng phong trào này mà tên tuổi ông luôn luôn đề cao - A Khomiakov ( 1804-1860) và I. Kirejevski (1806-1856). ở họ, thái độ phê phán đối với nền văn minh tư sản phương Tây đi đôi với những nỗ lực tìm kiếm con đường phát triển riêng cho dân tộc mình. Soloviev trong những trước tác thuộc những năm 70 tán đồng những chí hướng ấy, khiến phái thân Xlavơ xem ông là người của mình. Nhưng từ đầu những năm 80, giữa Soloviev với những người thân Xlavơ bắt đầu bộc lộ những bất đồng tư tưởng sâu sắc. Tinh thần dân tộc, nơi Khomiakov và Kirejevski kết hợp với thái độ tỉnh táo phê phán những tệ nạn, ung nhọt xã hội, những lầm lạc trong quá khứ và hiện tại của dân tộc mình, ở những hậu sinh của họ thoái hoá thành óc sùng bái dân tộc, bài xích tất cả những gì ngoại lai, cổ xúy cho sự bành trướng của quốc gia mình, nhìn thấy ở đó sự thực hiện “sứ mệnh cứu thế” của người Đại Nga. Soloviev thì ngược lại, càng trưởng thành như là một nhà tư tưởng thì càng ghét cay ghét đắng óc tự phụ và chủ nghĩa ích kỷ dân tộc, càng không thỏa mãn với thực tại xã hội Nga, càng bất bình với nhiều mặt trong chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Xa hoàng. Dưới ánh sáng những nhận thức mới, ông xem xét lại hai vấn đề quan trọng trong hệ tư tưởng của mình: vấn đề thái độ đối với phương Tây và vấn đề con đường riêng của dân tộc Nga. Tuyệt không sùng mộ, không lý tưởng hoá xã hội phương Tây, mà ông có nhiều dịp quan sát tận mắt, Soloviev cương quyết bác bỏ luận điệu của phái thân Xlavơ về sự “mục nát” của phương Tây, khẳng định sự phát triển phong phú của nó trong quá khứ cũng như hiện tại. Nhìn thấy cả những mặt phải và những mặt trái của sự phát triển ấy, Soloviev cho rằng con đường mà xã hội phương Tây đã và đang đi có ý nghĩa toàn nhân loại và sẽ được lặp lại trong sự phát triển của các dân tộc chậm tiến hơn, trong đó có nước Nga. Vì thế đối lập mình với châu Âu, khẳng định mình là một nền văn minh độc lập, có con đường phát triển riêng, khác hẳn phương Tây, như những nhà tư tưởng thân Xlavơ (Danilevski, Strakhov) làm, là một lầm lạc nguy hại. Soloviev xem văn hoá Nga là nền văn hoá nằm trong gia đình vĩ đại của các nền văn hoá châu Âu có nền tảng tinh thần chung là đạo Kitô. Người Nga, theo Soloviev, không được kiêu hãnh bởi những ưu việt tưởng tượng của mình, không được mơn trớn mình bằng “sứ mệnh đặc biệt” của dân tộc mình mà phải học tập các nước đã đi trước mình trong phát triển xã hội, tiếp thụ những thành tựu của họ, hợp tác với họ tìm kiếm những giải pháp đúng đắn cho những vấn nạn xuất hiện trong thời đại mới của lịch sử loài người. Soloviev nhắc đi nhắc lại: “Sự giàu có tưởng tượng là nguyên nhân chính của sự nghèo thiếu; sự thỏa mãn với hiện tại cản trở việc chăm lo cho những nhu cầu thiết yếu của tương lai”. “Mong muốn cho dân tộc mình một sự vĩ đại và ưu việt chân chính là tự nhiên cho từng con người”, nhưng “những ưu việt lớn không được cho không và khi vấn đề đặt ra không chỉ là sự ưu việt bề ngoài, mà là sự ưu việt nội tại, mang tính văn hoá thì nó chỉ có thể đạt được bằng lao động văn hoá cật lực, mà trong việc này không thể bỏ qua những điều kiện chung, cơ bản cho mọi nền văn hoá của con người, đã được sự phát triển của phương Tây hun đúc nên”. So sánh xã hội phương Tây với xã hội Nga, Soloviev nhận thấy sự kém phát triển yếu tố cá nhân trong xã hội Nga. Khác những người thân Xlavơ đề cao một chiều chủ nghĩa tập thể, tính công xã, đối lập nó một cách tuyệt đối với chủ nghĩa cá nhân của phương Tây, ông nhìn thấy ở đây một điểm yếu, chứ không phải điểm mạnh của bản tính dân tộc Nga. Trong một bài tiểu luận về thi hào Nga A. K. Tolstoi mà ông ái mộ, ông nói: “Nhân dân Nga có nhiều đức tính quan trọng làm nên nét ưu việt của nó trước các dân tộc phương Tây - đó là những đức tính mà chúng ta có chung với các dân tộc phương Đông gần gũi với chúng ta: tính ưa thích chiêm nghiệm, tính khiêm nhường tự tốn, tính kiên nhẫn. Những đức tính ấy đã giữ gìn được khá lâu mẫu quốc tinh thần của chúng ta - Byzance, nhưng chúng đã không cứu vớt được nó khỏi sự diệt vong. Có nghĩa là chỉ một mình những thuộc tính và những nét ưu việt ấy là không đủ. Chúng không bảo toàn được một dân tộc vĩ đại, nếu không thêm vào đấy một thành tố khác, thành tố này tất nhiên không xa lạ với nước Nga với tư cách một nước Âu châu và Kitô giáo, nhưng do điều kiện lịch sử cho đến bây giờ vẫn còn được phát triển yếu ở ta (cũng như ở Byzance xưa kia) - tôi muốn nói đến ý thức về phẩm giá tuyệt đối của con người, nguyên tắc tự lập và tự hoạt động của cá nhân (Soloviev nhấn - P. V. C.). Nhà thơ mà chúng ta vừa nói đến sinh thời là một đại diện rất hiếm hoi ở ta cho cái nguyên tắc nhân sinh chân chính ấy, mà sự phát triển nó là điều kiện cốt yếu cho tương lai của từng dân tộc. Cả về phương diện ấy những tác phẩm của A. Tolstoi cũng hấp dẫn vầ giàu ý nghĩa do tính chân thành của chúng: trong chúng ông cổ xúy cho cái nằm sâu trong ông - bởi vì bản thân ông là một ngã thể mạnh mẽ và tự do, là một nhân cách có phẩm giá nội tại, một con người trước hết của danh dự và công lý. Những phẩm chất ấy không phải là những đức tính duy nhất, nhưng không có chúng thì những đức tính khác kém giá trị; không có chúng thì mỗi con người riêng lẻ chỉ là sẩn phẩm của môi trường bên ngoài, còn bản thân môi trường ấy là bầy đàn”.
Đề cao yếu tố cá nhân, coi sự phát triển nó là điều kiện cốt yếu cho tương lai của dân tộc mình, Soloviev trong những trước tác chính luận (ban đầu đăng trên báo chí, chúng dần dần hợp thành hai tập sách dày dưới tiêu đề chung Vấn đề dân tộc ở Nga, tập đầu in năm 1888, tập sau - năm 1891) không mệt mỏi đấu tranh cho việc thực hiện những quyền con người ở nước ông, trước hết quyền tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng và ngôn luận. Là tín hữu nhiệt thành của đạo Kitô, bằng ngòi bút tài hoa chứng minh chân lý hoàn hảo của nó, Soloviev cương quyết chống lại chế độ kiểm duyệt tôn giáo ở nước Nga Xa hoàng, nơi đạo Kitô chính thống được xem là quốc giáo, đòi sự tự do thảo luận mọi vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo; ông cất tiếng nói phản đối chính sách phân biệt đối xử với những người theo những tôn giáo hay giáo phái khác, phản đối những biện pháp Nga hoá cưỡng bức các vùng ngoại vi dân tộc, cổ xúy cho sự bình quyền hoàn toàn của tất cả các dân tộc và tôn giáo trong đế chế Nga. ở một nước mà chủ nghĩa bài Do Thái phát triển cực mạnh và thấm sâu vào tâm thức dân tộc (những đại văn hào Nga như Gogol và Dostoievski là những người bài Do Thái) Soloviev là nhà tư tưởng Nga đầu tiên hơn một lần phát biểu công khai bênh vực dân tộc Do Thái và bằng những lập luận không thể bắt bẻ chứng minh rằng nhân danh đạo Kitô chèn ép, ngược đãi người Do Thái tức là trên thực tế phản bội đạo Kitô. Soloviev quan tâm đến vấn đề Do Thái đến mức trước khi tắt thở còn cầu nguyện cho dân tộc ấy. Sau khi ông qua đời, một nhà hoạt động xã hội người Do Thái đã viết: “Có thể tiên đoán rằng trong tương lai tên tuổi quang vinh của Vladimir Soloviev sẽ được cả dân tộc Do Thái nhắc đến với niềm yêu kính và biết ơn.”
Sau khi đã trở về với triết học, Soloviev vẫn tiếp tục viết chính luận và cả phê bình văn học, bên cạnh những bài khảo luận dài in trong các tạp chí lớn, có vai vế trong xã hội, ông đăng trên các nhật báo và tuần báo những bài viết ngắn có nội dung hàm súc. Phạm vi những vấn đề mà ngòi bút ông đề cập ngày một mở rộng, khai triển từ lĩnh vực những vấn đề nội bộ của nước Nga sang lĩnh vực chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế, từ khu vực đời sống xã hội sang khu vực quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Soloviev là một trong nhà tư tưởng Nga đầu tiên đã lưu ý công luận đến nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ thiên nhiên, cảnh báo về khủng hoảng sinh thái sẽ đến do việc con người khai thác thiên nhiên theo lối ác thú. Những phán xét của ông về những vấn đề quốc tế không phải lúc nào cũng đúng đắn, nhưng luôn luôn sắc sảo và công tâm. Thí dụ, không có cảm tình với nước láng giềng Trung Quốc và lo ngại một cuộc “xâm lăng” của chủng tộc da vàng sang châu Âu Kitô giáo mà ông xem là trung tâm văn hoá thế giới (tư duy Soloviev dẫu sao vẫn mang nặng tính “lấy châu Âu làm trung tâm”, về phương diện này cũng như một số phương diện khác ông là con của thời đại mình) trong bài viết Trung Quốc và châu Âu ông biết giải thích bí quyết trường tồn của nền văn minh Trung Hoa, thừa nhận lẽ phải minh triết (tuy theo ông là minh triết hạn hẹp) của đạo lý Khổng giáo, kêu gọi người Âu học tập tinh thần tôn trọng quá khứ của người Trung Quốc, biết kết hợp hài hòa trong sự phát triển của mình yếu tố canh tân với yếu tố bảo tồn. Hoặc, bình luận cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ (bài Nemezida* trong loạt Những bức thư chủ nhật), Soloviev nhìn thấy cội rễ sâu xa của sự chiến bại của Tây Ban Nha ở những tội lỗi lịch sử của dân tộc này - sau khi đã giành lại độc lập quốc gia từ tay những người Hồi giáo, người Tây Ban Nha trong vòng ba thế kỷ đã thực hiện chính sách diệt chủng đối với người Hồi và người Do Thái và bằng toà án dị giáo đã giết chết hàng trăm ngàn đồng bào của mình để bảo đảm sự thống nhất tín ngưỡng của đế chế Tây Ban Nha và sự bành trướng của nó. “Chỉ có thể gắn bó nhiều dân tộc khác nhau thành một chỉnh thể bằng sức mạnh nội tại của tình yêu và công lý” - Soloviev kết luận. Đối với đế chế Nga, mà ông là một công dân, ông cũng luôn luôn đề ra yêu cầu tương tự. Trả lời những nhà ái quốc chủ nghĩa mong ước mở mang bờ cõi của nước Nga tới tận Constantinople (thủ đô đế quốc Byzance xưa kia), ông viết trong tiểu luận về nhà thơ thiên tài Tiutchev: “Vận mệnh của nước Nga phụ thuộc không phải vào Constantinople hay cái gì đó tương tự, mà vào kết quả của cuộc đấu tranh tinh thần nội tại giữa yếu tố tươi sáng và yếu tố đen tối ở chính trong nó. Điều kiện để nó thực hiện sứ mệnh toàn thế giới của mình là sự chiến thắng nội tại của cái thiện đối với cái ác bên trong nó, còn Constantinople và những cái khác chỉ có thể là hệ quả chứ tuyệt nhiên không phải điều kiện của kết quả mong muốn. Hãy để cho nước Nga, dù không có Constantinople, dù chỉ trong biên cương hiện nay của mình trở thành vương quốc Kitô giáo theo đầy đủ ý nghĩa của chữ ấy - vương quốc của công lý và lòng nhân từ - khi ấy thì tất cả các thứ còn lại chắc chắn sẽ tự đến với nó.”
Thật khó không nghe thấy ở những lời ấy tiếng nói của lương tri dân tộc Nga nói với những người Nga thời ấy và các thời tiếp theo, cho đến tận hôm nay. Văn chính luận của Soloviev, kết hợp cảm hứng tôn giáo thực thụ với tinh thần nhân văn sâu sắc, đề cao tự do, công lý và tiến bộ xã hội, được nhiều người cùng thời đánh giá cao. Sinh thời, nhiều người Nga biết đến ông như một nhà chính luận nhiều hơn một triết gia. Nếu có thể lấy làm tiếc rằng hoạt động chính luận đã thu hút nhiều thời gian vật chất của con người tài trời nhưng đoản mệnh này, thì mặt khác không thể không nhận thấy rằng nhờ đã qua “trường học” chính luận mà văn triết luận của Soloviev thuở chín muồi đã trở nên rất mực trong sáng, mạch lạc, giàu hình ảnh, dễ tiếp thụ đối với người đọc. Ta hãy đọc hai đoạn văn bình phẩm triết học của Kant và Hegel trong Triết học lý thuyết của Soloviev: “Nếu chủ nghĩa duy linh của Descartes quả là không có ý nghĩa và sự lý thú triết học, thì nhận thức ___________________
* Nemezida - nữ thần báo thù trong thần thoại Hy Lạp.
luận của Kant mang tính hàm hồ một cách triệt để, và chủ thể nhận thức ở đấy luôn luôn chao đảo giữa vai trò người lập pháp có toàn quyền đối với tất cả những gì được nhận thức và vai trò kẻ nô lệ càng bất hạnh hơn bởi vì y không biết ai là chủ của y và y phải ngoan ngoãn chấp nhận những điều kiện phát ra không biết từ đâu cho hoạt động của mình. Tất nhiên, “lý trí thuần tuý” của Kant gần chân lý hơn “bản thể tư duy” của Descartes, nhưng dẫu sao đi nữa thì trong tư tưởng của Kant nó vẫn không đi tới chân lý và thực ra nó mãi mãi chỉ là cái lý trí hình thức có trong thực tại ở chúng ta, nhưng (ở Kant) thiếu mọi phương tiện để trở thành sự trí hội chân lý”. Tiếp theo, về Hegel: “Học thuyết Hegel vĩ đại, nhưng không phải như một dòng nước sống vĩ đại có thể đưa chúng ta ra đại dương, mà chỉ như một đài phun nước cực cao mà càng phun cao thì lại càng đổ xuống nhanh hơn, trở về với cái bể chứa hữu hạn của nó - thực tại nghiệm chứng. Trong học thuyết Hegel chủ thể triết học tiến gần nhất đến cái định danh đích thực và cuối cùng của nó - như là sự trí hội đương hình thành của chân lý. Nhưng cất mình lên cao điểm ấy, nó bị choáng váng và điên rồ tưởng rằng sự khởi đầu nhận thức chân lý ở nó là sự xuất đầu lộ diện của chính chân lý, sự tăng trưởng và phát triển của nó là sự tăng trưởng và phát triển của bản thân chân lý (…) Giữa những triết gia đến gần với chân lý không có ai lớn hơn Hegel, nhưng ngay người nhỏ nhất trong số những triết gia xuất phát từ chân lý cũng lớn hơn ông.” Nhà triết học S. Trubetskoi, bạn và môn đồ của Soloviev, viết không sai trong bài tưởng niệm ông: “Tính nghệ thuật của tư tưởng trong các trước tác của ông ứng với tính hoàn hảo nghệ thuật của sự diễn đạt nó, và chúng ta có thể mạnh dạn xem ông là một trong những nghệ sĩ ngôn từ vĩ đại không chỉ của văn học Nga, mà cả văn học toàn thế giới”. Không phải ngẫu nhiên mà cuối đời Soloviev, cùng với Chekhov và Korolenko, được bầu làm viện sĩ danh dự của Viện hàn lâm khoa học Nga, theo ngành “mỹ văn”.
3- Xây dựng một triết học về cái tận Chân, tận Thiện, tận Mỹ
Không đạt được kết quả mong muốn trong hoạt động xã hội, nhưng qua đó mà tu dưỡng được cho mình những phẩm chất của người dựng xây (mà tất yếu phải làm cả công việc của người giải phóng mặt bằng) trong thế giới tinh thần, Soloviev trong mười năm cuối đời trở về với nhiệm vụ đã vạch ra từ thời niên thiếu - kiến tạo hệ thống triết học của riêng mình với ba thành phần cơ bản - triết học lý thuyết (nhận thức học và siêu hình học), triết học đạo đức và mỹ học. Như một bước trù bị, năm 1891 ông nhận lời mời phụ trách ban triết học trong bộ biên tập Từ điển Brokhaus và Efron - bộ bách khoa toàn thư lớn nhất và có uy tín nhất của nước Nga trước cách mạng, và trong mấy năm đã viết cho nó trên 200 mục từ, trong đó có những khảo luận dài về những triết gia lớn của thế giới như Platon, Duns Scotus, Kant, Hegel, Comte. Những bài viết cho bộ bách khoa toàn thư này cho thấy sự am tường của Soloviev không chỉ về triết học và thần học châu Âu, mà cả phương Đông (ấn Độ, Do Thái, Arập), đặc biệt về những dòng tư tưởng thần bí và bí truyền như Qabbalah của người Do Thái, đạo ngộ (gnosis) trong thế giới Hy-La, học thuyết giả kim (hermetisme) ở Ai Cập thời cổ đại và ở châu Âu thời trung đại. Cũng trong những năm này, Soloviev viết một loạt công trình sử học nghiêm túc như Trung Quốc và châu Âu, Nhật Bản, Đạo đa thần nguyên thủy, Người Do Thái: giáo thuyết và đạo lý của họ, Mohammed: cuộc đời và học thuyết.
Năm 1893-1894 trên tạp chí Những vấn đề triết học và tâm lý học của Hội triết học Moskva xuất hiện 5 bài viết dưới tiêu đề chung Siêu lý tình yêu. Chuyên luận này thuộc số những tác phẩm triết học của Soloviev đã sớm gây tiếng vang, được nhiều người đọc hâm mộ và cũng gây nhiều tranh luận. Cho đến nay, nó vẫn là trước tác trứ danh nhất, được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất và được bình phẩm nhiều nhất của ông. Trên trường quốc tế, kiệt tác này đóng vai trò một danh thiếp có chân dung tác giả đối với những độc giả lần đầu tiên làm quen với triết học Soloviev.
Ngay sau Siêu lý tình yêu, cứ như thấy trước là số phận sẽ không cho ông hoàn thành sự nghiệp lớn của đời mình, Soloviev bắt tay vào viết công trình cơ bản về triết học đạo đức - việc mà ông xem là sẽ có ý nghĩa tác dụng thiết thực hơn cả cho dân tộc ông và cả loài người. Công trình đồ sộ này, được đăng tải từng chương một trên các tạp chí Nga từ năm 1894 đến hết 1896, đầu năm 1897 in thành sách riêng dưới tên Biện chính cái thiện. Nó đã nhanh chóng gây nên một cuộc tranh luận rất sôi nổi trên báo chí Nga. Giữa tháng 6 năm ấy, Soloviev viết cho một người bạn Pháp: “Cuốn sách này đã trút xuống đầu tôi những lời mắng chửi tệ hại nhất và những lời khen ngợi cuồng nhiệt nhất”. Nếu thể hiện ý kiến của nhiều độc giả, nhà triết học N. Grot cho rằng “Biện chính cái thiện là một thử nghiệm đầu tiên ở nước ta xem xét một cách có hệ thống và hoàn toàn độc lập những nguyên lý cơ bản của triết học đạo đức. Đây là một hệ thống đạo đức học đầu tiên của một nhà tư tưởng Nga”, thì những triết gia khác như B. Chicherin và A. Vvedenski lại bày tỏ sự cương quyết không tán đồng những luận điểm cơ bản của đạo đức học Soloviev. Soloviev đã trả lời các đối thủ của mình vừa bằng những bài báo sắc sảo, có lập luận chặt chẽ, vừa bằng cách xem lại, chỉnh lý và mở rộng công trình của mình. Sách Biện chứng cái thiện, chứa đựng học thuyết về việc thực hiện cái thiện tuyệt đối, được tái bản có sửa chữa và bổ sung vào mùa hè 1899, một năm trước khi nhà tư tưởng vĩ đại qua đời. Nó là tác phẩm lớn nhất mà ông để lại cho chúng ta.
Vào những năm này, sức khoẻ của Soloviev đã suy giảm nhiều (đẻ non lúc bảy tháng, ông suốt đời có thể lực không dồi dào và vào tuổi 30 đã trải qua một đợt ốm nặng thập tử nhất sinh), nhưng ông vẫn làm việc cật lực, nhiều khi quên ăn quên ngủ. Đến đây, cần nói thêm đôi lời về nhân cách Soloviev. Như ta đã biết, vô gia cư, ông suốt đời sống nay đây mai đó, lúc thì ở nhà anh chị em, lúc thì ở nhà bạn bè, lúc thì ở khách sạn hạng xoàng. Nói chung đa tình, từ tuổi 23 ông nuôi dưỡng một tình cảm đặc biệt đối với một người phụ nữ quý tộc nhiều tuổi hơn ông và đã có chồng có con mà ông xem là hiện thân của Nữ tính Vĩnh hằng trên mặt đất này. Về mối tình ấy, nhiều điều quan trọng chúng ta không thể biết được vì tất cả các thư từ trao đổi đã bị tiêu hủy theo ý nguyện của hai người. Có thể phỏng đoán là vì nó mà ông - một nam nhi rất điển trai và lại có khoa nói - đã không kết hôn với ai và không được ai chăm sóc hàng ngày. Không cầu kỳ trong sinh hoạt, ăn chay một nửa, tức là chỉ ăn cá chứ không ăn thịt, ông có thể sống hàng tháng ở trang trại của một ai đó, tự nấu nướng, giặt giũ cho mình. Viết nhiều và được hưởng nhuận bút khá cao, ông không bao giờ dư dật vì luôn luôn sẵn sàng cho mọi người vay tiền mà không bao giờ đòi nợ. Do tính hào phóng của mình ông hơn một lần đã phải nhịn đói ngủ qua đêm ở nhà ga đường sắt, không có tiền thuê phòng trọ. Không biết từ chối giúp đỡ bất cứ một ai, ông đã có lần cởi chiếc áo đại hàn trên người mình cho người ăn xin để sau đó suốt một mùa đông giá buốt giữa kinh thành Peterburg chỉ mặc một chiếc áo khoác mỏng. Không tiếc tiền cho người khác, ông cũng không tiếc thời gian của mình, sẵn sàng gác lại việc của mình để làm việc người khác nhờ. Nhiều công trình mà ông ấp ủ suốt đời còn lại dở dang một phần vì lẽ ấy. Năm 1897 trong một bài báo bàn về vấn đề “tính ngoạn mục trong hội họa”, trả lời đối thủ của mình, ông viết rằng để giải quyết đúng đắn vấn đề ấy cần phải kiến lập có hệ thống ít nhất hai khoa học triết học: siêu hình học và mỹ học, vì thế xin gác lại vấn đề ấy ba bốn năm, ngụ ý chừng nào ông chưa viết xong hai công trình tương ứng. Nhưng ông đã chỉ kịp viết ba chương đầu mang nội dung nhận thức luận của Triết học lý thuyết của mình - ba chương lộng lẫy, hứa hẹn một kiệt tác cách tân bất hủ; chính dựa vào ba chương ấy, một học giả Đức thời nay (H. Dahm) trong một công trình về những cơ sở của tư tưởng Nga khẳng định: “không còn nghi ngờ gì nữa, triết học Soloviev, đặc biệt từ năm 1892 đến 1897 đã đạt tới những kết luận đoán định trước hầu như toàn bộ hệ thống công cụ phương pháp luận của hiện tượng học Đức.” Song công trình hệ thống về mỹ học thì thậm chí chưa được Soloviev bắt đầu. Quá nhiều ý đồ sáng tạo chen chúc trong đầu óc ông trong khi sức khoẻ không ngừng suy yếu. Mấy năm cuối đời, Soloviev tiếp tục viết văn chính luận, xuất hiện trên mặt báo với Những bức thư chủ nhật đề cập những vấn đề xã hội nóng bỏng khác nhau, bình luận những sự kiện ở trong và ngoài nước. Cùng với em trai, ông dự định dịch ra tiếng Nga có chú giải cặn kẽ toàn bộ tác phẩm của Platon - triết gia mà ông suốt đời yêu mến (sau này sẽ có người gọi ông là “một Platon của Nga”), và ông đã kịp cho ra mắt độc giả tập một với những bản dịch, bài tổng luận và những chú thích của mình (tạp hai được ấn hành sau khi ông đã qua đời). Tiếp tục đề tài triết học tình yêu, mà ở châu Âu Platon là người khởi xướng, ông viết thêm một kiệt tác nữa - khảo luận Bi kịch cuộc đời Platon (1898). Triết học Nietzsche, đang trở nên thời thượng ở châu Âu và cả ở Nga, cũng thu hút sự quan tâm sát sao của Soloviev, thể hiện ở bài viết ý tưởng siêu nhân (1899) và một số bài khác.
Song tác phẩm quan trọng nhất trong hai năm cuối đời của Soloviev là Ba cuộc đàm thoại về chiến tranh, về sự tiến bộ và khánh chung của lịch sử toàn thế giới cùng với truyện ngắn về kẻ phản Chúa (1898-1990). Ra mắt độc giả mấy tháng trước khi ông qua đời, nó thường được xem là một kiểu chúc thư của ông. Nhiều nhà phê bình là những giáo hữu chân tín của đạo Kitô nhìn thấy ở nó một trước tác tiên tri thiên tài. Vô luận thế nào đi nữa thì được viết trong những tháng ngày, khi mà Soloviev cảm thấy cái chết đang đến gần với ông, nó tổng kết những suy ngẫm lâu năm của ông về lịch sử thế giới, bản tổng kết ấy có nhiều nét dị biệt với tất cả những gì ông đã viết trước đó, nhưng nó không bất ngờ đối với bạn bè thân tín của ông. Sống trong một thế kỷ tương đối bình ổn của lịch sử thế giới, chứng kiến nhiều bước tiến vượt bậc của nhân loại trong các lĩnh vực xã hội và khoa học - công nghệ, Soloviev cũng như rất nhiều nhà tư tưởng cùng thời với ông trong nhiều năm tin vào tiến bộ như là quy luật của lịch sử loài người và trong các trước tác chính luận cũng như triết luận của mình cổ xúy nhiệt thành và truyền cho độc giả niềm tin vào sự tiến bộ ấy. Tất nhiên khác với các nhà duy vật chủ nghĩa, ông không xem sự tiến bộ ấy là quy luật thuần túy nội tại, mà là kết quả thấy được của quá trình gặp gỡ, liên kết giữa hoạt động hướng đích của toàn thể loài người với thiên ân hay là ý Thượng Đế - cái mà ông gọi là quá trình Thần-Nhân loại. Có điều quá trình ấy trong một số tác phẩm của Soloviev được vẽ họa như một con đường thẳng tiến, không có những bước giật lùi lớn, không có những điểm ngoặt, những kịch biến, cho nên dẫu sao vẫn phảng phất dấu ấn duy lý và duy ý chí. Song con người của Soloviev sâu sắc hơn và phức tạp hơn những gì ông viết. Trong ông, mâu thuẫn với niềm tin và nhu cầu tin vào tiền đồ tươi sáng của nhân loại, luôn luôn sống một linh cảm về những tai biến long trời lở đất sẽ đến trong tương lai gần. Mong ước một sự khánh chung lịch sử tốt đẹp, trong sự liên kết vĩnh viễn ý chí hướng thiện của nhân loại với ý chí chí thiện của sức mạnh siêu nhân loại, ông đồng thời lo âu về một sự khánh chung tồi tệ, trong sự ngự trị của cái ác trên thế gian này, trong sự bất tín và bội phản của loài người đối với Đấng chí thiện chí tôn. Tư duy theo những quan niệm tôn giáo, Soloviev, tương tự như Dostoievski trước ông (với nhà văn và nhà tư tưởng này Soloviev có quan hệ thân tín nhiều năm, và ai đã ảnh hưởng nhiều hơn đến ai là câu hỏi còn để ngỏ) hãi hùng trước viễn cảnh loài người, sau nhiều cuộc giao chiến đẫm máu vì “bánh mì (tức là sự no ấm, tiện nghi) trần gian” sẽ quy phục kẻ phản Chúa (Antechriste) mang lại cho họ sự no ấm tiện nghi ấy và chối bỏ Chúa Trời, quên lãng tổ quốc của mình trên trời. Hội thánh của Kitô sẽ không ưu thắng trên thế gian này, và ngày tận thế sẽ là ngày phán xử đáng sợ của Chúa đối với loài người bội tín - đó là tư tưởng chính của Ba cuộc đàm thoại, được viết với một tài nghệ phi thường. “Thế kỷ XX là thời đại của những cuộc đại chiến, những nội chiến và đảo chính vĩ đại” - câu mở đầu Truyện về kẻ phản Chúa khiến độc giả thời đại ngày nay phải rùng mình trước linh cảm tiên tri của Soloviev. Truyện kể kẻ phản Chúa sẽ xuất hiện như một cứu tinh của nhân loại, đem lại cho cả thế giới hoà bình, ổn định và no đủ vật chất. Những tín hữu trung thành với đạo Kitô, lúc ấy chỉ còn lại vài triệu người trên cả trái đất, sẽ tập hợp lại thành một lực lượng thống nhất, vạch mặt tên phản Chúa tự xưng là con Chúa Trời và sẽ bị tàn sát hàng loạt, phải chạy vào sa mạc tìm nơi ẩn náu. Và khi ấy, giữa những thiên tai địa họa khủng khiếp, Chúa Kitô sẽ tái giáng trần với toàn bộ sức mạnh và vinh quang để thiết lập vương quốc nghìn năm của Ngài trên thế gian này.
Như vậy bằng tác phẩm lớn cuối cùng của mình, Soloviev giã từ chủ nghĩa lạc quan lịch sử, xác định cho mình lập trường trung thành đến cùng với chân lý càng ngày càng bị loài người thế tục hoá lãng quên và khinh rẻ. Có thể có những ý kiến khác nhau về những tư tưởng mạt thế luận của Soloviev, có thể chỉ ra sự mâu thuẫn của nó với ý tưởng “Thần-Nhân loại” là cốt lõi của toàn bộ triết học và thần học Soloviev, song khó phủ nhận sự nhạy cảm nghệ sĩ của ông đối với những đại biến lịch sử sẽ diễn ra trong tương lai gần cận của nhân loại, con mắt tinh tường của một hiền triết nhận ra cái ác lớn nhất ẩn náu dưới hình hài của cái thiện lớn nhất. Những quan điểm triết học lịch sử của Soloviev có thay đổi hay không, nếu ông được sống lâu hơn và chứng kiến những tai biến xã hội sẽ xảy ra ngay trên đất nước ông? Khó mà đoán định, ta chỉ biết một điều chắc chắn qua hồi ức của những người bạn chứng kiến những ngày cuối cùng của ông là trước khi qua đời - ông tạ thế ngày ngày 31 tháng 7 năm 2000 (theo lịch Nga cũ) - ông đã nhiệt thành cầu nguyện Đấng Tối Cao cho dân tộc ông, đất nước ông mà ông yêu bằng một tình yêu chân chính - tình yêu nồng nàn nhưng tỉnh táo và đòi hỏi cao.
Cái chết quá sớm của nhà tư tưởng thiên tài đã làm xôn xao dư luận nước ông. Hai thập niên đầu của thế kỷ XX ở Nga được đánh dấu bằng tác động mãnh liệt của di sản Soloviev tới đời sống tinh thần của xã hội Nga, thể hiện đặc biệt rõ rệt trong triết học và thơ ca. Năm 1916, nhà danh họa Nga M. Nesterov (1862-1942) vẽ một bức tranh tượng trưng hoành tráng dưới tiêu đề Nước Nga: tâm hồn dân tộc. Trên bức tranh ấy, giữa đoàn người đông đúc rước cây thánh giá - biểu tượng của sự khổ ải tìm kiếm chân lý - ta thấy chỉ ba khuôn mặt lịch sử: Dostoievski, Lev Tolstoi và Vladimir Soloviev. Theo lời của chính họa sĩ, “thiếu ba khuôn mặt ấy thì bức tranh sẽ không đầy đủ, không hoàn bị. Không thể nào vứt bỏ Dostoievski, Tolstoi và Soloviev ra khỏi đời sống dân tộc. Có những đường mòn đặc biệt của nhân dân dẫn đến họ và tỏa ra từ họ”.
Như vậy, đã một thế kỷ Vladimir Soloviev sống trong tâm thức dân tộc Nga như là một trong ba con người Nga vĩ đại nhất - cùng với Dostoievski và Tolstoi- suốt đời tìm kiếm cái tận Chân, nó cũng là cái tận Thiện, tận Mỹ cho dân tộc mình và cho cả loài người.
II- hệ thống triết học trong chỉnh thể sáng tác Soloviev
Có thể nói được hay không về hệ thống triết học Soloviev nếu, như ta biết, ông mới chỉ hoàn thành một trong ba bộ phận của nó - triết học đạo đức? Quả là cuối đời mình, trong sách Biện chính cái thiện, Soloviev đã tập hợp, phát triển và xắp xếp thành hệ thống hoàn chỉnh những tư tưởng và quan điểm của ông về đạo đức học, song giả dụ ông không kịp viết nên tác phẩm ấy, thì chúng ta vẫn có thể căn cứ vào những trước tác đã viết trước đó, mà ở đấy ngòi bút Soloviev bàn luận sâu rộng về những vấn đề luân lý - đạo đức, để xác định trong những đường nét chung triết học đạo đức của ông. Cũng tương tự như vậy, lý thuyết nhận thức và siêu hình học mà theo ý đồ của Soloviev phải hợp thành triết học lý thuyết của ông, thời trẻ đã được ông phác thảo trong những công trình cơ bản như Những nguyên lý triết học của tri thức toàn vẹn, Phê phán những nguyên lý trừu tượng, Những thuyết trình về Thần-Nhân loại. Soloviev, như đã nói, thuộc số những triết gia có thế giới quan và nhân sinh quan định hình sớm. Trong một bức thư năm 1890, khi ông đã sắp đạt tuổi tứ tuần, ta đọc một câu nặng trĩu ý nghĩa tự truyện: “Giai đoạn hoài nghi và không tin tưởng thuộc thời non trẻ của tôi; còn khi bắt đầu xuất hiện trước công chúng, tôi đã có những lý thuyết siêu hình hoàn bị, và chúng vẫn ở lại trong tôi đến tận hôm nay”. Do đó hoàn toàn có thể xem ba công trình cơ bản nói trên cùng với một loạt bài viết sau này bổ khuyết cho chúng là những cứ liệu đáng tin cậy để xác định trong những đường nét lớn triết học lý thuyết của Soloviev. Còn mỹ học Soloviev thì một phần quan trọng được trình bày trong hai khảo luận: Cái đẹp trong thiên nhiên (1889) và ý nghĩa chung của nghệ thuật (1990), phần khác tiềm ẩn trong những bài phê bình văn học rất giàu nội dung triết-mỹ của ông. Dựa vào chúng, ta hoàn toàn có thể hình dung được, tất nhiên cũng trong những đường nét chính, hệ thống mỹ học của Soloviev.
1 – Những nguồn ảnh hưởng và cổ lệ
Nhà triết học và thần học S. N. Bulgakov, một môn đồ tinh thần của Soloviev, gọi hệ thống triết học của ông là “một hợp âm đa thanh nhất trong toàn bộ lịch sử triết học”. Có nghĩa là hệ thống triết học ấy, thuần toàn trong chỉnh thể hữu cơ của mình, được hợp thành bởi nhiều tư tưởng và môtip có nguồn gốc rất xa nhau. Các nhà nghiên cứu Soloviev trong thế kỷ qua đã vạch ra một phổ rất rộng những ảnh hưởng của triết học thế giới đến Soloviev, từ Platon và trường phái tân Platon thông qua các dòng triết học thần bí và bí truyền Trung cổ - Phục hưng đến các triết gia và trường phái triết học thời mới, đặc biệt triết học cổ điển Đức (Kant, Fichte, Hegel, Schelling), nhưng phải thêm vào đấy cả những triết thuyết đương thời xa nhau một trời một vực như của Schopenhauer và Comte. Xét về năng lực tiếp thụ và tiêu hoá những tư tưởng rất khác nhau đến từ bên ngoài, biến chúng thành cái của mình, người ta hay so sánh Soloviev với Leibniz - nhà bác học và triết học thiên tài của thế kỷ XVII. Không dừng lại lâu hơn (song sẽ còn trở lại) với những nguồn ảnh hưởng ngoại lai ấy, chúng tôi muốn lưu tâm đặc biệt đến những tư tưởng minh triết của dân tộc Nga mà Vladimir Soloviev - một triết gia Nga chính thực - đã hấp thụ sâu sắc và nhuần nhuyễn, biến thành tinh thần sống, thành cảm hứng chủ đạo của triết học và thần học của mình.
Như ta đã biết, văn hoá Nga trong một nghìn năm phát triển đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ - chỉ cần nhắc đến hội họa và kiến trúc tôn giáo Nga thời Trung cổ, văn học và âm nhạc thời mới - nhưng trong lĩnh vực triết học thì cho đến cuối thế kỷ XIX nước Nga vẫn còn là nước chậm tiến (về phương diện này, nó giống như Nhật Bản so với Trung Quốc hay ấn Độ hoặc Tây Ban Nha so với Pháp hay Anh). Bản thân Soloviev hơn một lần than phiền về tình trạng nghèo nàn đến đáng thương của triết học nước mình và ao ước khắc phục thật nhanh sự thua kém này so với các nước Tây Âu. Nhưng phê phán sự nghèo nàn chậm tiến ấy, Soloviev không bỏ qua một thành tựu đáng kể nào đã đạt được của tư tưởng triết học dân tộc, luôn luôn giữ thái độ trân trọng đối với những nhà tư tưởng Nga ưu tú đi trước ông hay hoạt động cùng thời với ông (Chaadaiev, Khomiakov, I. Kireievski, Iurkevich, Leontiev, Fiodorov…), hưởng ứng nhạy bén những tư tưởng tâm huyết của họ, tiếp sức họ khai mở những nẻo đường mới cho nền triết học non trẻ của nước mình. Nền triết học ấy, thời Soloviev còn đương ở trong giai đoạn hình thành, đã bắt đầu phân chia thành hai dòng đối lập: dòng duy tâm - duy linh và dòng duy vật - thực chứng, trong đó dòng thứ nhất rõ ràng có lực lượng hùng hậu hơn và mang đậm bản sắc dân tộc hơn. ứng với lòng mộ đạo sâu sắc của dân tộc Nga - một thực tại đập vào mắt các du khách nước ngoài và được ghi lại trong nhiều sách du ký của họ - ứng với cảm hứng tôn giáo là đặc điểm nổi bật của nền văn học Nga cổ điển, khu biệt nó với các nền văn học Tây Âu cùng thời, triết học Nga ở những hiện tượng sâu sắc nhất, độc đáo nhất và có ảnh hưởng bền lâu nhất (như Soloviev với những tiền bối và hậu bối của ông) về bản chất là nền triết học tâm linh-tín ngưỡng, triết học tôn giáo luận. ở Nga, khác với ở Tây Âu, đã không diễn ra cuộc ly hôn giữa triết học và thần học. Ra đời muộn mằn trong một xã hội đã được thế tục hoá về nhiều mặt và chịu ảnh hưởng mãnh liệt của nền khoa học và triết học thế tục phương Tây, triết học Nga ở dòng chủ lưu của nó vẫn nuôi dưỡng quan hệ huyết thống với tôn giáo, nhìn thấy ở những chân lý thần khải của tôn giáo những tiền đề bất biến của mình. Không ấp ủ ảo tưởng về sức mạnh vô biên của trí tuệ con người, nó luôn luôn tìm kiếm sự liên minh giữa trí tuệ với tín ngưỡng, cố gắng thiết lập quan hệ tương hỗ với thần học, dẫn đưa nhiều vấn đề thần học vào nội dung triết học của mình, kiến giải theo quan điểm thần học sáng tạo, thần học phi giáo điều những thực tại lịch sử mới và thành tựu khoa học mới. Tất nhiên, quan hệ giữa triết học với thần học ở Nga thời Soloviev không diễn ra một cách thuận buồm xuôi gió. Như đã nói, do tính bảo thủ thâm căn cố đế của giáo hội Chính thống Nga được nhà nước Xa hoàng bảo hộ, những tư tưởng thần học mới mẻ của các triết gia Nga thường bị giới tăng lữ đả kích quyết liệt và nhiều khi bị cấm đoán truyền bá ở trong nước. Song bất chấp mọi khó khăn trở ngại các triết gia Nga vẫn kiên trì theo đuổi mục tiêu tái hợp triết học với thần học. ở châu Âu trong thế kỷ XX, sau thời đại ngự trị của chủ nghĩa thực chứng, khi trong triết học lại thức tỉnh mối quan tâm đến những vấn đề siêu hình học và tôn giáo - tín ngưỡng, ta sẽ chứng kiến khuynh hướng tương tự trong sáng tác của một loạt triết gia lớn như Theillardde Chardin, Schweitzer, Buber, Maritain, Marsel, Simone Weil, Mounier… Sinh sau đẻ muộn, triết học tôn giáo luận Nga về một phương diện nhất định lại hoá ra đi trước triết học Tây Âu.
Về ảnh hưởng tác thành của hai nhà tư tưởng Nga lớn - I. Kirejevski và A. Khomiakov - đến triết học Soloviev thời trẻ chúng tôi sẽ còn nói đến khi giới thiệu lý thuyết nhận thức của ông. Song thiết nghĩ có một điều to lớn hơn và hệ trọng hơn những ảnh hưởng một chiều từ nhà tư tưởng này sang nhà tư tưởng kia trong nội bộ một nền văn hoá dân tộc - đó là những nguồn cảm hứng sáng tạo chung, những đề tài và ý tưởng chung phát sinh từ một tâm thức dân tộc thống nhất, từ những định hướng tinh thần, những ý tưởng, hoài bão, khát vọng chung làm nên hồn cốt của một nền văn hoá dân tộc và chi phối một cách vô thức (hay siêu thức) những tìm kiếm sáng tạo của những đại diện ưu tú của nó. Xin đơn cử một thí dụ. Soloviev nhiều lần lưu ý độc giả tới việc nhân dân Nga từ ngàn xưa nhất tề tán tụng một “nước Nga thánh thiện” (Svjataja Rus) của mình. Như ông phân tích, đây không phải là một định danh như chẳng hạn tổ từ cố định “nước Pháp tuyệt diễm” (la belle France) trong thơ ca Pháp trung cổ. Thành ngữ “nước Nga thánh thiện”, theo Soloviev, thể hiện lý tưởng dân tộc - quốc gia của người Nga và quan hệ mật thiết với những xác tín tôn giáo của họ. Hướng tới sự thánh thiện không chỉ là ý nguyện thực hiện cho bằng được cái thiện trong cuộc sống phù du đầy thăng trầm này. Hướng tới sự thánh thiện tức là ao ước một kiểu sinh tồn hoàn hảo tuyệt đối, xứng đáng tuyệt đối, mà cái hoàn hảo tuyệt đối, cái xứng đáng tuyệt đối là cái không thể bị tiêu diệt, không thể mất đi, là cái bất tử, cái vĩnh hằng*. Soloviev, ____________________
* Theo tín nhiệm của đạo Kitô, thánh mẫu Maria cùng các thánh nhân sau khi chết được ban thưởng sự sống vĩnh hằng trong thân xác và trở thành những thành viên của Vương quốc của Chúa Trời (Nước Chúa)
cũng như nhiều nhà văn hoá Nga, đặc biệt lưu tâm tới việc ở nước Nga, ngày hội hân hoan nhất, tưng bừng nhất của toàn dân là ngày phục sinh của Giêsu Kitô - cuộc phục sinh cá nhân của một thần-nhân hoàn hảo ấy, theo hàm nghĩa tôn giáo sâu xa của nó, tiên báo và dự liệu sự phục sinh của toàn thể nhân loại và toàn thể vũ trụ cho sự sống chí thiện, chân phúc và bất tử trong Vương quốc của Chúa Trời. Về sự phục sinh vĩnh viễn của tất cả trong cuộc sống tương lai ấy, mà không có nó thì sự hiện sinh của từng con người và cả loài người, cả hoàn vũ trở nên vô nghĩa, những nhà văn và nhà tư tưởng Nga đi trước Soloviev như Gogol, Dostoievski, Khovmiakov, Fiodorov đã để lại những trang viết xán lạn. Soloviev với tất cả nhiệt huyết và sức mạnh trí tuệ tiếp thụ và phát triển tư tưởng lớn ấy của văn hoá Nga, biến nó thành môtip chủ đạo, chủ đề quán xuyến của toàn bộ sáng tác của mình. Có thể nói tất cả những gì mà nhà triết học và thi sĩ này để lại là sự trải nghiệm nội tâm thường trực cái bí mật vĩ đại của sự sống và sự chết, là sự suy ngẫm không dứt về nguyên nhân của thân phận hữu tử của mọi con người trong thế gian này, về những điều kiện không thể thiếu được cho sự chiến thắng cái chết, cho sự sống bất tử của loài người trong linh hồn và thân xác. “Hai ước vọng rất gần gũi nhau - ông viết trong sách Những cơ sở tâm linh của cuộc sống - như đôi cánh vô hình cất bổng tâm hồn con người lên bên trên toàn bộ thế giới tự nhiên - đó là ước vọng bất tử và ước vọng chính nghĩa, hay là đạo đức thập toàn. Cái này không có cái kia sẽ mất giá trị. Sự sống bất tử không song hành với đạo đức thập toàn không phải là cái chân phúc - còn phải xứng đáng với sự bất tử ấy bằng việc thực hiện mọi điều hay lẽ phải trên đời. Thế nhưng đạo đức thập toàn mà lại nằm dưới quy luật của sự chết, sự diệt vong, cũng không phải là cái phúc. Sự sống vĩnh hằng không mang trong mình chính nghĩa trọn vẹn sẽ chỉ là sự lưu đầy vô thời hạn, còn chính nghĩa trọn vẹn không được hưởng sự vĩnh tồn sẽ là sự bất công tầy trời, sự bạc đãi vô độ.” Đạo Kitô trong con mắt của Soloviev sở dĩ là tôn giáo hoàn hảo nhất, đáng noi theo nhất là vì nó hứa hẹn và bảo đảm - thông qua cái chết và sự phục sinh của Kitô - một sự cải biến và tái sinh toàn thế giới, từng con người và tất cả mọi người cho sự sống hoàn hảo bất tử. Nhu cầu bất tử và quan niệm đinh ninh rằng chỉ có sự sống bất tử mới xứng đáng với con người với tư cách hình ảnh và thể tương đồng của Chúa Trời sống mãnh liệt trong Soloviev đến nỗi năng lực thực hiện sự bất tử ấy trong tư tưởng của ông trở thành tiêu chí để ông xác định giá trị cuối cùng của mọi học thuyết tôn giáo và xã hội. Chẳng hạn, đánh giá đạo thờ cúng tổ tiên của người Trung Hoa, Soloviev vừa thừa nhận chân lý có ý nghĩa toàn nhân loại của nó, vừa chỉ ra tính không đủ, tính bất túc của chân lý ấy. “Tổ tiên của chúng ta chưa có sự sống chân chính - điều này là rõ chỉ từ một thực tại là họ đã chết; bởi vì sự sống chân chính phải là bất tuyệt, nó phải tự mang trong mình sức mạnh cho sự tiếp tục mãi mãi, chứ không phải định mệnh của sự chấm dứt không thể tránh khỏi”. Từ đó ông đi đến kết luận: Không trong quá khứ và không trong hiện tại, sự sống chân chính đứng trước chúng ta như là tương lai, như là nhiệm vụ mà chúng ta phải gắng sức giải quyết. Bởi vì tương lai ấy không thể tự đến với chúng ta mà không cần đến sự tham gia của ta- nếu thế thì không có lý do vì sao nó đã không đến từ lâu rồi, - tương lai ấy phải được làm nên (Soloviev nhấn - P. V. C.) với sự hoạt động nỗ lực của bản thân loài người. Nếu sự gắn bó với quá khứ, sự thờ phụng tổ tiên là chân lý của thế giới quan Trung Hoa, thì chân lý ấy chỉ được phát triển đầy đủ trong ý tưởng Âu châu có nguồn gốc trong đạo Kitô về sự tiến bộ toàn thế giới như là con đường đạt tới sự sống chân chính. Nếu chúng ta quả thật gắn bó với quá khứ, nếu chúng ta kính yêu sâu sắc tổ tiên của chúng ta thì chúng ta không được giữ gìn không đổi thay những hình thức cũ của cuộc sống, mà với chúng những gì chúng ta yêu quý đã tử vong; ngược lại, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện cuộc sống của chúng ta, cho đến khi chúng ta đạt được thể viên mãn của sinh tồn, nó sẽ thống hợp trong mình tất cả và sẽ phục sinh quá khứ cho sự sống vĩnh hằng bất biến.” Cái sinh tồn viên mãn, mà ở đấy cả quá khứ (tức là các thế hệ người đã chết) cũng được phục sinh cho sự sống vĩnh hằng đương nhiên chỉ có thể là cái mà Thượng Đế chí thiện và toàn năng ban cho nhân loại, nhưng Ngài chỉ ban tặng với điều kiện có sự hoạt động nỗ lực, tự giác và hợp đích của toàn thể loài người - về tư tưởng cốt yếu này của Soloviev chúng tôi sẽ còn nói đến. Cái muốn được nhấn mạnh ở đây là Soloviev, không thỏa mãn với những tôn giáo dàn hoà với cái chết, cũng không chấp nhận cả những học thuyết cải tạo xã hội và con người mà ở đấy không đặt ra mục đích chiến thắng cái chết, giành lấy sự sống bất tử. Một thời say mê với những học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng, Soloviev đã chóng nguội lạnh với chúng vì nhận thấy chúng theo đuổi một chiều sự phân phối công bằng những lợi ích vật chất giữa những con người mà mãn nguyện để họ ở lại trong thân phận phải chết của họ. Những học thuyết khác nhau như nước với lửa nhưng đều có tiếng vang toàn cầu như thuyết tự tu dưỡng đạo đức của Lev Tolstoi hay thuyết “siêu nhân” của Nietzsche cũng bị Soloviev phê phán vì chúng đã nhắm mắt làm lơ, mỗi thuyết theo một cách, trước khát vọng bản thể không thể triệt tiêu ở con người - khát vọng bất tử. Theo Soloviev, sự cam chịu thân phận hữu tử của con người cùng với khuynh hướng đơn sơ hoá, nghèo nàn hoá đời sống của nó làm cho học thuyết đạo đức-xã hội của Tolstoi mất hết sức mạnh, trở nên một thứ chủ nghĩa duy đạo đức nhạt nhẽo và nông cạn. Còn “siêu nhân” của Nietzsche thì, theo Soloviev, chưa xứng đáng được gọi là siêu nhân, mà dấu chỉ đầu tiên phải là sự bất tử, là năng lực chiến thắng cái chết - không chỉ cho riêng mình, mà trong ý tưởng và tiềm năng còn cho cả nhân loại, cả hoàn vũ. Một siêu nhân như thế trong toàn bộ lịch sử thế giới mới chỉ có một - đó là Giêsu Kitô. Kitô - người đầu tiên phục sinh từ cõi chết - là tâm điểm của toàn bộ tư duy Soloviev.
Viacheslav Ivanov, một trong những trụ cột của dòng thơ tượng trưng chủ nghĩa Nga, triết gia và nhà bác học, viết không sai về người thầy tinh thần của mình: “Bởi đối với Soloviev tiêu chí của thần-nhân tính chân chính là sự chiến thắng cái chết, cho nên vấn đề ấy trở thành trung tâm của tất cả những suy biện nơi ông. Theo Soloviev, sợ hãi cái chết của cá nhân mình là sự hèn nhát và điên rồ, nhưng thái độ không dàn hoà với cái chết của cha ông, của những đồng loại mà ta yêu mến, của những hậu duệ của chúng ta sẽ bước vào thế giới này là một xung lực cao thượng và mang tính bắt buộc về phương diện đạo lý đối với toàn bộ những việc làm của chúng ta trong cõi đời này. “Hãy gọi thần chết vào cuộc chiến sinh tử” - đó là lời kêu gọi thực hiện một kỳ công cao nhất” (tiểu luận Sự nghiệp tôn giáo của Vladimir Soloviev, 1910).
Như vậy có thể nói không cường điệu rằng khát vọng bất tử - một khát vọng dưới con mắt của ai đó là hết sức hão huyền, không tưởng, nhưng thực ra đó là ý nguyện nhân bản nhất, tha thiết nhất của cả loài người, được thể hiện trong thần thoại và tôn giáo, thơ văn và triết học của rất nhiều dân tộc, trong đó có dân tộc Nga - đã trở thành nguồn cổ lệ chính, thành hứng cảm thường hằng của toàn bộ sáng tác Soloviev. Chính cái hứng cảm thường hằng ấy, được diễn đạt với một bút lực phi thường, làm nên sức sống trường cửu, sức hấp dẫn đối với mọi thời đại của di sản Soloviev. Dưới đây ta sẽ thấy sự bất tử của tất cả trong Thượng Đế chính là chân lý cuối cùng trong học thuyết của nhà tư tưởng Nga này.
2 – Những tự định hướng sáng tạo
Trước khi đi vào trình bày những thành phần của triết học Soloviev, xin dừng lại thêm đôi chút ở những đặc điểm cấu thành của cái “tôi” sáng tạo nơi ông - chính nó ấn định những tìm kiếm tinh thần nhiều khi rất khúc khuỷu nơi Soloviev, những sự xích lại gần hay lìa rời của ông đối với những dòng tư tưởng triết học và tôn giáo khác nhau. Soloviev, như ta đã thấy, là người đa tài, có điều những tài năng đa dạng nơi ông không tồn tại biệt lập, không biết đến nhau (như thí dụ tài chơi đàn vĩ cầm ở nhà vật lý Einstein) mà gắn bó mật thiết đến nhau, là những biểu hiện của một nhân cách, một bản ngã thống nhất. Trong nhân cách, trong bản ngã ấy có hai tố chất cơ bản đan bện làm nên hạt nhân của nó - đó là chất triết và chất thơ. Soloviev là triết gia trong những thi phẩm của ông, cái đó dễ nhận thấy. Nhưng cũng không khó nhận ra rằng ông là nhà thơ trong triết học. Chất thơ không chỉ nằm trên bề nổi, trong văn phong triết luận của Soloviev, làm cho ông giống Platon, Augustin, Schopenhauer và khác với Aristote, Kant, Hegel. Điều quan trọng hơn là nhiều định hướng trong hệ thống triết học Soloviev được ấn định sâu kín bởi vũ trụ quan và nhân sinh quan thơ ca nơi ông, nhiều luận điểm triết học và thần học, được Soloviev kiên trì bảo lưu và khẳng định, xuất phát từ những trực giác và những linh cảm của một thi sĩ, một nghệ sĩ. Đặc điểm này, hấp dẫn đối với nhiều độc giả, đã và vẫn đương gây không ít rắc rối cho Soloviev trong sự nhìn nhận, đánh giá của nhiều đồng nghiệp của ông, nhất là các nhà thần học. Cụ thể, hơn một người trong họ trách cứ, cáo buộc nhà tư tưởng Kitô giáo Soloviev đã xa rời những cơ sở giáo thuyết của đạo Kitô, sa vào một thứ dị thuyết phiếm thần luận (panthéisme). Cái thuyết phiếm thần ấy, ở phương Đông ta được gọi một cách sáng nghĩa hơn là thuyết “vạn vật chí linh”, ở phương Tây xưa nay vẫn bị xem là không thể dung hoà với đạo Kitô đến nỗi mà vì nó ba thế kỷ trước Soloviev Giordano Bruno (1548-1600) đã bị đưa lên dàn thiêu, và hơn nửa thế kỷ sau đó Spinoza (1632-1677) bị khai trừ ra khỏi giáo hội. Thần học Kitô giáo chính thống trong mọi giáo phái được kiến lập trên quan niệm rắn chắc về tính siêu tại của Thiên Chúa đối với thế giới, về sự khác biệt về bản chất giữa Đấng Sáng Tạo với tạo vật, giữa cái siêu nhiên với cái tự nhiên. Thiên nhiên, vũ trụ trong thế giới quan Kitô giáo chính thống vì thế mất đi tính linh thiêng, tính đáng tôn thờ mà nó vốn có trong thế giới quan cổ sơ của mọi dân tộc. Soloviev là tín đồ nhiệt thành của dạo Kitô, điều đó không ai phủ nhận, thế nhưng trong học thuyết của ông các nhà phê bình không tìm thấy ý niệm rõ ràng về sự sáng thế và về sự khác biệt về bản chất giữa thế giới thụ tạo với Đấng Sáng Tạo. Trong siêu hình học Soloviev, như ta sẽ thấy, thế giới được quan niệm như một “tha thể” (thể khác) của Thiên Chúa mà không có nó thì Chúa không tồn tại, bởi lẽ “Chúa là tình yêu”, Chúa sống trong thể khác của mình và vì nó. Với tư cách cái tha thể của Thượng Đế, thế giới lại trở thành đối tượng của lòng ngưỡng kính, tôn thờ; thái độ ngưỡng kính, tôn thờ vũ trụ ấy, được biện hộ trong triết học Soloviev, bộc lộ trực tiếp, với đầy đủ cảm hứng, trong thơ ông. Đây, một thi phẩm rất điển hình của Soloviev viết năm 1886:
Đất - Chúa-Tể! Tôi cúi vừng trán xuống sát mặt người
Và qua tấm thảm cỏ thơm nức
Lại cảm thấy hơi nóng của lửa sống thân thuộc
Lại nghe thấy tiếng đập của trái tim hoàn vũ.
Trong nắng chói giờ trưa, với tình yêu nồng nàn
Trời xanh lộng lẫy ban tặng ánh sáng hồng phúc
Và hoan hỉ đón nhận chất sáng không lời, sông ngòi róc rách
Và rừng núi rì rầm cất tiếng chào.
Và trong bí lễ hiển lộ ấy tôi lại thấy
Hồn trái đất giao hoà với ánh sáng siêu nhiên
Và trong lửa của tình yêu, mọi đau khổ trong đời
Bỗng tan biến như làn khói nhẹ.
Trong bài thơ này, “Đất- Chúa-tể” với trái tim và linh hồn của nó, với rừng núi sông ngòi có ngôn ngữ của chúng rõ ràng cũng được tôn kính như trời xanh lộng lẫy ban tặng ánh sáng hồng phúc, và sự giao hoà trọn vẹn, tình yêu nồng thắm giữa Trời và Đất, giữa cái siêu nhiên với cái tự nhiên, giữa Tinh thần và Vật chất được cảm nhận như là hạnh phúc cao nhất của sinh tồn. Bài thơ “phiếm thần luận” này gần gũi một cách lạ lùng với thế giới quan của các dân tộc á Đông và không phải ngẫu nhiên Soloviev trong bài viết bênh vực triết học Spinoza (1897) nhấn mạnh rằng “vốn là tôn giáo dân gian ở vùng Viễn Đông, thuyết vạn vật chí linh ở châu Âu từ lâu đã trở thành tôn giáo mến yêu của các nhà siêu hình học và các nhà thơ, với họ nó không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là cái được nghiệm chứng sống động”. Dựa vào những nghiệm chứng nội tâm của mình - những nghiệm chứng mang tính thần bí sâu sắc - Soloviev cùng với những triết gia đi trước ông như Platon, Plotin, Bruno, Schelling và những thi hào như Goethe, Shelley, Tiutchev, khẳng định sự tồn tại của Linh hồn Vũ trụ không được nói đến trong kinh sách đạo Kitô. Cái Linh hồn Vũ trụ ấy, là thực thể trung gian giữa Đấng Tạo Hoá với thế giới thụ tạo, truyền sự sống hữu linh cho toàn bộ thế giới ấy cũng như từng bộ phận nhỏ nhất trong nó. Thừa nhận chân lý khoa học về sự khác biệt cơ bản giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, Soloviev đồng thời kiên trì quan niệm cho rằng trong vũ trụ không có vật chất chết tuyệt đối, ở mức độ khác nhau tất cả đều được làm sống bởi linh hồn hoàn vũ tiếp thụ năng lượng và ý chí của Thượng Đế vĩnh hằng. Phê phán học thuyết nhị nguyên luận của Descartes, phân chia thế giới thành hai bản thể riêng rẽ: bản thể quảng tính (res extensa) hay là vật chất và bản thể tư duy (res cogitans) hay là tinh thần, cùng với tất cả các triết thuyết duy tâm và duy vật phiến diện phát sinh từ đó, Soloviev viết trong bài triết luận không dài, nhưng mang tính cương lĩnh đối với ông - Trên đường đi tới một triết học chân chính (1883): “Trong thực tế cả vật chất thuần tuý, mà thuộc tính chỉ là quảng tính, lẫn tinh thần thuần tuý, mà thuộc tính chỉ là tư duy, đều không tồn tại. Cái đó chỉ là những hư tưởng thuần tuý của trí tuệ chúng ta (…) Cả vật chất thuần tuý lẫn tư duy thuần tuý đều không có hoạt tính như nhau, bởi vì chúng được trừu xuất khỏi sự sống, sự sống chính là cái khuyết vắng cả ở tư duy thuần tuý lẫn vật chất thuần tuý. Sự sống là cái tên chung nhất và phổ quát nhất cho thực tại toàn vẹn ở mọi nơi và trong tất cả. Chúng ta có quyền như nhau nói về sự sống của thánh thần, về sự sống của con người và về sự sống của thiên nhiên”. Giữa ba lĩnh vực sự sống ấy luôn luôn “có quan hệ tương hỗ thường hằng và tương tác nội tại”. Xuất phát từ nhận thức sống động về cái tự nhiên bắt rễ sâu vào cái siêu nhiên, về sự liên lạc, tương tác thường hằng giữa hai thế giới ấy - mà nhận thức siêu hình học này, như Soloviev quan niệm, ăn nhập hoàn toàn với tín điều của đạo Kitô nói rằng Chúa Trời sáng tạo ra tất cả để cuối cùng hoá thần tất cả - nhà triết học Nga đi đến những ý niệm then chốt không chỉ về Thần-Nhân loại, mà còn Thần-Vật chất (Bogomateria), Thần-Đất (Bogozemlja), trong đó ý niệm cuối liên quan sâu kín với quan niệm tôn giáo cổ truyền của nhân dân Nga về Đất-Thánh mẫu (zemlja – bogoroditsa) - một quan niệm thâu tóm bằng trực giác chân lý tính nhất thể cuối cùng của Vật chất và Tinh thần.
Toàn bộ sáng tác triết học và thơ ca của Soloviev được cổ lệ bởi niềm tin vào thể thống nhất viên mãn cuối cùng ấy của vạn vật, niềm tin vào Thần-Vật chất, Thần-Nhân loại. Theo Soloviev, niềm tin ấy sẽ là điểm hội tụ giữa tôn giáo trong giai đoạn phát triển mới của nó với chủ nghĩa nhân văn được hiểu theo đầy đủ ý nghĩa của từ ấy. “Hình thức cổ truyền của tôn giáo, - ông nói trong Những thuyết trình về Thần-Nhân loại, - xuất phát từ niềm tin vào Thượng Đế, nhưng chưa dẫn đưa niềm tin ấy đến cùng. Nền văn minh phi tôn giáo thời nay xuất phát từ niềm tin vào con người, nhưng cả nó cũng không nhất quán - nó cũng không dẫn đưa niềm tin ấy đến cùng; được dẫn đưa triệt để và thực hiện đến cùng, cả hai niềm tin ấy - niềm tin vào Thượng Đế và niềm tin vào con người - gặp nhau trong một chân lý thống nhất, đầy đủ và vẹn toàn về Thần-Nhân loại”
Tính nhất thể của tất cả (vsejedinstvo) và Thần-Nhân loại (Bogochelovechestvo) vừa là hai trực giác nền, vừa là hai hệ hình liên hợp tạo nên cái khung của toàn bộ toà nhà triết học và thần học Soloviev. Nếu trong siêu hình học về tính nhất thể của tất cả, như các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, Soloviev có những tiền bối (mà gần nhất là Schelling, người đã ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đến triết học tôn giáo luận Nga) thì học thuyết về Thần-Nhân loại là một sáng tạo hoàn toàn độc đáo, một đóng góp rất cơ bản của Soloviev vào kho tàng tư tưởng của loài người.
3 - Lý thuyết nhận thức
Từ Kant trở đi, lý thuyết nhận thức ở châu Âu luôn luôn được xem là bộ phận đầu não của mọi hệ thống triết học. Soloviev từ thời trẻ đã quan tâm tạo dựng nhận thức luận của mình và cuối đời đã trở lại với nó, chỉnh lý và bổ sung. Như đã nói, trong nhận thức luận cũng như trong toàn bộ triết học của mình, Soloviev thời trẻ chịu ảnh hưởng khá rõ của hai nhà tư tưởng Nga lớn đi trước ông - I. Kirejevski và A. Khomiakov. Cả hai, ấp ủ hoài bão xây dựng một nền triết học dân tộc có khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ triết luận tâm thức và những trải nghiệm tinh thần của người Nga, những đặc trưng của đời sống, văn hoá và lịch sử Nga, đều cho rằng nền triết học ấy phải tránh được hai “tì vết” của triết học Tây Âu gắn bó mật thiết với bản chất của văn minh Tây Âu - đó là chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa cá nhân. Trong nhận thức luận Tây Âu, chủ nghĩa duy lý thể hiện ở sự tuyệt đối hoá vai trò của lý trí, của tư duy lôgic và xem nhẹ hoặc không đếm xỉa đến những nhân tố nhận thức khác như ý chí, tình cảm, trực giác, trí tưởng tượng, v. v…, còn chủ nghĩa cá nhân thì biểu lộ ở chỗ hoạt động nhận thức được xem xét chỉ trong khuôn khổ của ý thức cá thể và kinh nghiệm cá thể, những nhân tố liên cá thể - cộng đồng không được quan tâm. Đối lập với nền triết học và học thuật duy lý chủ nghĩa Tây Âu với tính hình thức, tính trừu tượng, tính phân tán thành những khoa môn riêng biệt của nó, Kirejevski đề xướng cho triết học và học thuật Nga một ý tưởng- nguyên tắc về “tri thức toàn vẹn” (còn gọi là “tri thức sống”) nhận biết thế giới trong chỉnh thể sống động của nó và về “trí tuệ toàn vẹn” được hiểu như là thể thống nhất hữu cơ giữa trí năng với lương năng và năng lực thẩm mỹ của con người. “Không chỉ bằng tư duy luận lý, mà bằng toàn thể sinh linh của mình con người mới có thể dự phần cái chỉnh thể thế giới mà nó nhận thức” - Kirejevski khẳng định. Còn Khomiakov thì, phê phán chủ nghĩa cá nhân trong đời sống và tư tưởng phương Tây, đề xuất nguyên tắc sobornost' - một từ không có tương đương trong các Âu ngữ mà có thể tạm dịch ra tiếng Việt là “tính cộng thông”. Chân lý, theo Khomiakov, mang tính cộng thông, giống như hội thánh của Kitô. Chân lý chỉ khai mở cho trí tuệ loài người trong sự giao tiếp thương yêu giữa người với người và trong lòng ngưỡng kính chung của họ đối với Thượng Đế anh minh. Nguyên tắc “tri thức toàn vẹn” cũng như nguyên tắc “cộng thông” được Soloviev tiếp thụ và phát triển, đưa vào cơ sở nhận thức luận của mình. Tư tưởng chủ toàn, chứ không chủ biệt, bộc lộ rất rõ trong hai tác phẩm nối tiếp nhau của Soloviev, mà ngay những tiêu đề đã trực tiếp gợi nhớ Kirejevski - Những nguyên lý triết học của tri thức toàn vẹn (1877) và Phê phán những nguyên lý trừu tượng (1877-1880)*. Tri thức toàn vẹn, Soloviev xác định, là cái chưa có ở đâu cả, là cái mà loài người còn phải tìm tới, đạt tới. Nó phải là kết quả của “cuộc tổng hợp vĩ đại” giữa các lĩnh vực tri thức đã lìa rời nhau trong quá trình phát triển lịch sử, mỗi lĩnh vực đã biệt lập với những nguyên lý, phạm trù, tiêu chí riêng được tuyệt đối hoá, mất đi khả năng thâu tóm đối tượng nhận thức trong chỉnh thể của nó và vì thế mà trở nên trừu tượng. “Sự phê phán những nguyên lý trừu tượng” mà Soloviev tiến hành, theo ý đồ của ông không nhằm mục đích bác bỏ những nguyên lý và phạm trù triết học cũ để khẳng định những nguyên lý và phạm trù mới do tự ông chế tác ra, mà chỉ hướng ______________
* Cần phải ghi chú rằng sự phê phán chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa cá nhân trong triết học phương Tây của Kirejevski, Khomiakov và cả Soloviev là đúng chỉ ở thời điểm nhất định và đến mức độ nhất định. Đối lập với triết học duy lý ở Tây Âu có nhiều dòng triết học khác, mà với ba dòng- triết học thực chứng (Comte), triết học ý chí (Schopenhauer-Hartmann) và triết học sự sống (Nietzsche) sinh thời Soloviev đã phải đối đầu. Còn chủ nghĩa cá nhân thì được khắc phục trong triết học thần hiệp châu Âu trung - cận đại và triết học đối thoại, triết học liên chủ thể hiện đại. tới sự “tổng hợp hữu cơ” chúng, đưa chúng vào một thể thống nhất mới, bảo đảm tính bổ sung lẫn nhau của chúng và tính ứng hợp của chúng với nhiệm vụ đích thực của nhận thức triết học - đó là “nhận thức cái chân tồn ở trong nó cũng như trong quan hệ của nó với thực tại nghiệm chứng của thế giới chủ quan và khách quan khởi phát từ nó” (Những nguyên lý triết học của tri thức toàn vẹn).
ý tưởng về “cuộc tổng hợp vĩ đại” chiếm lĩnh tâm trí Soloviev từ những bước đầu tiên của ông trên con đường triết học. Ngay trong công trình lớn đầu tay - Sự khủng hoảng của triết học phương Tây (1874) ông đã tuyên bố: “…triết học theo nghĩa hoạt động nhận thức trừu tượng, mang tính lý thuyết thuần tuý đã kết thúc sự phát triển của mình và vĩnh viễn lùi vào thế giới của quá khứ” và khẳng định: “Nền triết học mới nhất phải biết kết hợp tính toàn bích lôgic của hình thức phương Tây với nội dung sung mãn của các chiêm nghiệm tinh thần của phương Đông. Một mặt dựa vào những dữ liệu của khoa học thực chứng, nền triết học ấy mặt khác bắt tay với tôn giáo. Sự thực hiện cuộc tổng hoà chung giữa khoa học, triết học và tôn giáo sẽ là mục đích cao nhất và kết quả cuối cùng của sự phát triển trí tuệ”. Để làm được cuộc tổng hoà ấy cần phải thiết lập quan hệ đúng đắn giữa triết học với thần học, giữa lý trí với niềm tin. Đây là một trong những vấn đề mấu chốt trong nhận thức luận Soloviev. Ai đọc tác giả này cũng đều cảm nhận được ngay qua bút pháp, hành văn của ông một thái độ tin cậy cao vào lý trí con người, một sự tuân thủ triệt để những yêu cầu của tính hợp lý, một nỗ lực biến thành thói quen bảo đảm tính chí lý của tất cả những gì mà ông trình bày, đạt tới tính thuyết phục cao nhất về mặt luận lý trong tất cả những gì mà ông khẳng định và phủ định (Nikolai Berdiaev, một danh triết đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Soloviev, nhưng có lối viết khác hẳn ông, hơn một lần trách cứ ông hay sa vào chủ nghĩa duy lý trong hành ngôn). Thế nhưng, tin cậy cao vào lý trí và luôn luôn tuân thủ những yêu cầu của nó trong diễn ngôn, Soloviev không bao giờ dành cho nó quyền quyết định những vấn đề cuối cùng của nhận thức - những vấn đề như sự tồn tại của thế giới hay sự tồn tại của Thượng Đế (hoặc thánh thần nói chung). Có hay không có thế giới xung quanh chúng ta, có hay không có Thượng Đế trên đầu chúng ta - cái đó, theo Soloviev, phụ thuộc vào niềm tin của con người - một phạm trù nằm ngoài lý trí. Nếu niềm tin đinh ninh của chúng ta vào sự tồn tại của thế giới bên ngoài dựa vào sự tin cậy của ta vào những giác quan của ta, thì niềm tin của ta vào sự tồn tại của Thượng Đế dựa vào những nghiệm chứng nội tâm và những nhu cầu tinh thần nằm sâu hơn mọi đòi hỏi và năng lực của tư duy lý tính. Cho nên theo Soloviev và trái với nhiều nhà triết học và thần học khác xưa cũng như nay, không thể chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế bằng các lập luận lôgic*. Thế nhưng ___________
* Nói thế không có nghĩa là Soloviev không bao giờ thử chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế và thế giới lý tưởng, nhưng ông thường làm việc ấy theo phương pháp chứng minh từ cái ngược lại. Trong một bức thư thời trẻ gửi người em gái họ đã được nói đến ông viết: “Nếu thế giới thánh thần tuyệt đối không tồn tại, thì từ đâu chúng ta lại có ý niệm về nó?”. Trong bài viết cuối đời Số phận Pushkin (1897) ông lặp lại kiểu lập luận ấy: “Nếu mà thực tại tồi tệ của chúng ta là thực tại chân chính duy nhất, thì làm sao con người có thể đau khổ bởi cái thực tại duy nhất ấy của mình, chê trách nó và phủ định nó? Bởi vì một sự đánh giá như thế đương nhiên đòi hỏi sự so sánh với cái khác (…) Khi một kẻ thù đời ghét người thực sự đau khổ về đạo đức nhận thức Thượng Đế, nhận thức cái Tuyệt Đối (hay là cái chân tồn, cái thực tồn) lại là một nhu cầu thiết yếu và một nhiệm vụ tối cao của hoạt động nhận thức của con người. “Cái chân tồn”, hay là cái “bản nguyên siêu vũ trụ và siêu nhân loại”… “có thực tại tuyệt đối của riêng nó, độc lập hoàn toàn đối với thực tại của thế giới vật chất ngoại quan cũng như tư duy nội quan của chúng ta; ngược lại, chính thực tại tuyệt đối ấy ban truyền cho thế giới xung quanh chúng ta tính hiện thực của nó, cũng như cho tư duy của chúng ta nội dung ý tưởng của nó” (chương Ba kiểu triết học trong Những nguyên lý triết học…). Với cái thực tại siêu cảm tính và siêu lý tính ấy con người chỉ có thể tiếp cận bằng trực giác thần hiệp (misticheskaja intuitsia). Chỉ trực giác thần hiệp (mà theo Soloviev, nó tuyệt không phải là năng lực hi hữu của những cá nhân “đặc tuyển” nào đó, mà là cái thiên bẩm phổ biến, ai ai cũng có thể phát huy được ở mình, nhưng thường lại để nó bị vùi lấp bởi tro bụi đời thường) mới mang lại cho con người tri thức về cái Chân tuyệt đối, nó cũng là cái Thiện và cái Đẹp tuyệt đối. Trung thành với siêu hình học về “tính thống nhất chính diện của tất cả”, Soloviev khẳng định: “Tri thức về chân lý chỉ có thể là cái ứng hợp với ý chí hướng tới cái thiện và cảm quan về cái đẹp”, “cái chân theo nghĩa đích thực của từ ấy, tức là bản thân chân lý, chỉ có thể là cái mà đồng thời cũng là cái thiện và cái đẹp”. Giới định những năng lực và quyền hạn của lý trí trong hoạt động nhận thức, khẳng định hoạt động ấy không thể đi ngược lại những lợi ích và nhu cầu cơ bản khác của con người, Soloviev sớm cho thấy mình như một nhà tư tưởng nhìn xa thấy rộng.
Trong tác phẩm lớn Phê phán những nguyên lý trừu tượng, ở phần bàn về những vấn đề nhận thức luận, Soloviev phát triển và khơi sâu những quan điểm đã trình bày trong Những nguyên lý triết học của tri thức toàn vẹn. Trực giác thần hiệp hay là “cảm quan trực tiếp về thực tại tuyệt đối” cả ở đây tiếp tục được xem là cơ sở của triết học chân chính (“ Nằm sâu trong nền móng của tri thức chân chính là tri giác thần hiệp, hay là tôn giáo; chỉ từ nó mà tư duy lôgic của chúng ta thu nhận được tính hữu lý tuyệt đối và kinh nghiệm của chúng ta có được tính hiện thực tuyệt đối”). Cả ở đây Soloviev chứng minh tính bất túc của khoa học thực chứng và tính vô hiệu của triết học trừu tượng trong dạng biệt lập, không biết đến nhau của chúng, đồng thời phê phán tính hạn hẹp, cứng nhắc, thoát ly thực tại của nền thần học cũ và tuyên cáo sự tất yếu của một cuộc tổng hợp toàn diện thần học với triết học duy lý và khoa học nghiệm chứng. “Thái độ phủ định của lý trí và khoa học đối với chân lý tôn giáo được biện minh bởi tính giáo điều trừu tượng của bản thân thần học (…) do đó nhiệm vụ của chúng ta không phải là khôi phục thần học truyền thống trong vị trí chuyên nhất của nó, mà ngược lại, giải phóng nó khỏi chủ nghĩa giáo điều trừu tượng, dẫn đưa chân lý tôn giáo vào hình thức tư duy tự do hữu lý và hiện thực hoá nó thành những dữ liệu của khoa học thực nghiệm, đặt thần học vào trong quan hệ nội tại với triết học và khoa học và bằng cách ấy tổ chức toàn bộ lĩnh vực tri thức chân chính thành một hệ thống hoàn bị của nền thần không ra gì của môi trường nhân thế, thì bằng cách ấy anh ta làm chứng về sức mạnh chân chính của lý tưởng sống trong anh ta - nỗi đau khổ của anh ta là khởi thủy của một trật tự khác, tốt đẹp hơn”.
- triết học (théosophie) mang tính tự do và khoa học”. Cái mới ở đây là sự chỉ ra và trình bày cặn kẽ ba tiền đề của mọi nhận thức chân chính: a) niềm tin vào sự tồn tại của đối tượng nhận thức; b) trí tưởng tượng hay là năng lực chiêm nghiệm bằng trí tuệ ý tưởng (bản chất) của đối tượng và c) sự sáng tạo hay là sự biến thể ý tưởng ấy thành những cảm quan sống động, những hình ảnh của thế giới nội tâm. Tiếp nhận học thuyết của Kant về những phạm trù tiên nghiệm của ý thức, Soloviev đồng thời phản bác quan điểm của đại gia này về ranh giới không thể vượt qua giữa hiện tượng và “vật-tự-nó” và khẳng định khả năng nhận thức chân xác các sự vật. Tuy nhiên, theo Soloviev, để tổ chức được hệ thống tri thức chân xác, cần có sự tổ chức đúng đắn thực tại. “Quan hệ đúng dắn giữa các thành tố của nhận thức của chúng ta chỉ có thể có được, nếu có quan hệ đúng đắn giữa các thành tố của thực tại của chúng ta, của cái sinh tồn là đối tượng của nhận thức của chúng ta”. “Chỉ một cái thực tại cơ bản là thế giới mà trong đó chúng ta đang sống không phải là sự hiện thực hoá cái bản chất thần thánh sâu kín của chúng ta mà là thế giới ngoại tại và xa lạ đối với chúng ta - chỉ một cái đó đã có nghĩa rằng trong thực tại của chúng ta không có chân lý, rằng chúng ta không sống trong chân lý và vì thế mà không nhận thức được chân lý”. Mà tổ chức đúng đắn toàn bộ thực tại của con người có nghĩa là con người phải hiện thực hoá cái bản nguyên thần thánh tiềm ẩn cả ở trong nó lẫn trong giới tự nhiên, làm hiển lộ khắp nơi trong thế giới những sức mạnh thánh thần - cái mà Soloviev gọi là “thần thuật tự do” (svobodnaja teurgia).
Như vậy nhận thức luận của Soloviev xét cho cùng là một bộ phận của học thuyết siêu hình của ông về thế giới và con người. Trong lý thuyết nhận thức, cũng như trong toàn bộ triết học của mình, Soloviev luôn luôn chú mục cái đích cuối cùng - thực hiện cái tận Chân, tận Thiện, tận Mỹ.
Từ những gì đã nói, trở nên hết sức hiển nhiên là Soloviev cương quyết cự tuyệt chủ nghĩa cá nhân trong nhận thức. Nếu có chân lý tuyệt đối - cái chân lý cứu giải và hoá thần toàn nhân loại và cả thế giới - thì nhiệm vụ của mọi con người là phải hiệp lực kết đoàn (“kết đoàn” là một trong những chữ yêu chuộng nhất của Soloviev) tìm tới nó. Đứng ngoài chân lý, chủ thể nhận thức là cái hư ảo, cái không có tính thực thể - đó là tư tưởng chính của ba chương mở đầu Tiết học lý thuyết mà Soloviev viết trong những năm cuối đời mình. Các nhà nghiên cứu hiện đại chỉ ra rằng ở đây Soloviev đã tiến sát tới việc kiến tạo một thuyết nhân vị mới và một hiện tượng học mới khắc phục tính nhị nguyên truyền thống giữa chủ thể - khách thể. Như đã nói, trường phái hiện tượng luận trong triết học phương Tây hiện đại nhìn thấy ở Soloviev một trong những tiền khu của mình.
4 - Siêu hình học
Soloviev tự gọi học thuyết triết học của mình là triết thuyết về “tính nhất thể chính diện của tất cả”. Mọi triết thuyết thực thụ, Henri Bergson nói, đều khởi phát từ một trực giác cơ bản nào đó. Triết thuyết của Soloviev cũng thế, toàn bộ nó ngự yên trên trực giác mãnh liệt và thường hằng về một cơ sở khởi nguyên thần thánh thống nhất của vạn vật. Cảm quan về cái bản thể vĩnh hằng, bất biến, tuyệt hảo và tuyệt mỹ, đứng sau muôn triệu hiện tượng nay còn mai mất và có giá trị tương đối của thế giới này được diễn đạt trực tiếp trong nhiều thi phẩm của Soloviev bằng những lời có sức lay động nhân tâm:
Bạn yêu quý, lẽ nào bạn không nhận thấy
Rằng tất cả những gì chúng ta trông thấy
Chỉ là những hồi quang, những bóng chập chờn
Của cái mà mắt ta không thấy được?
Bạn yêu quý, lẽ nào bạn không nghe thấy
Rằng tất cả những tạp âm chối tai trên đời
Chỉ là hồi âm lạc sai
Của những hợp thanh huy hoàng chiến thắng?
Soloviev - nhà thơ lúc thì say đắm với vẻ đẹp lộng lẫy của thế giới này (như trong bài “Đất - Chúa tể…” đã dẫn) lúc thì cảm thấy mình bị giam hãm trong nó như trong nhà tù, nhưng không lúc nào đánh mất cảm giác sống động về quan hệ liên thông giữa nó với thực tại thần thánh.
Vẫn là tù nhân của cõi trần phù phiếm
Dưới cái vỏ thô nháp của vật chất
Tôi bỗng nhận ra áo lễ hồng thắm không phai
Và ánh hào quang chói lọi của Thượng Đế.
Sự hoà nhập của linh hồn cá thể bị xâu xé bởi những đam mê dục vọng phàm trần với bản thể thần thiêng siêu phàm trong thơ Soloviev thường được mô tả như là hạnh phúc cao nhất.
Bị vây hãm bởi tha lực của bão lòng cháy bỏng
Đã lãng quên những linh thị xán lạn thuở xưa
Tôi chợt nghe tiếng gọi khe khẽ từ xa
Của người bạn gái huyền bí.
Và với tiếng thét đau đớn kinh hoàng
Như con đại bàng bị nhốt trong lồng sắt
Hồn tôi lồng lên trong ngục tối
Xé toang lưới sắt bay lên cao.
Và trên đỉnh cao ngoài trần gian ấy
Giữa đại dương của những phép mầu rực lửa
Trước đấng linh thiêng ngời sáng hơn tất cả
Nó bốc cháy và tiêu tan.
Cái mà trong thơ ca hiện ra như là linh thị cuốn hút cảm xúc và trí tưởng tượng của ta, trong triết học phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ khái niệm tuân theo những quy luật của tư duy lôgic, để trở nên có sức thuyết phục đối với trí tuệ, để từ kinh nghiệm cá nhân có cơ may trở thành nhận thức của nhiều người. Học thuyết của Soloviev về “tính nhất thể của tất cả”, hình thành từ thời trẻ, có hai cách diễn đạt liên thông với nhau, cách diễn đạt triết học được trình bày trong Những cơ sở triết học của tri thức toàn vẹn và Phê phán những nguyên lý trừu tượng, cách diễn đạt thần học được triển khai chủ yếu trong Những thuyết trình về Thần-Nhân loại.
Soloviev bắt đầu sự diễn đạt triết học bằng phân tích phạm trù “cái tuyệt đối” (một tên gọi triết học của thần linh tối cao). Trước tiên ông nhấn mạnh: cái tuyệt đối là cái duy nhất đáp ứng những nhu cầu cuối cùng của sinh linh con người, thỏa mãn đến cùng những đòi hỏi của trí tuệ, ý chí và tình cảm của nó. Nhưng cái tuyệt đối ấy không chỉ là cái phải có, mà còn là cái có thật. Nó được nhận biết ở tầng sâu nhất của tâm thức con người. “Không nghi ngờ gì nữa, ở mọi sinh linh con người, sâu hơn mọi tình cảm xác định, mọi quan niệm và ý chí, tồn tại một cảm giác trực tiếp về cái thực tại tuyệt đối; trong cảm giác ấy tác động của cái tuyệt đối được chúng ta tiếp nhận trực tiếp, có thể nói, chúng ta tiếp xúc trực tiếp với cái tự tồn.” Cái bản thể tự tồn ấy từ cổ xưa ở phương Tây (trường phái Eléates ở Hy Lạp) cũng như phương Đông (Lão-Trang ở Trung Quốc, trường phái Vedanta ở ấn Độ) thường được xem là mang tính đơn nhất không thể chia cắt; so với cái đơn nhất, không chia cắt và không đổi thay ấy thế giới đa tạp của muôn triệu hiện tượng dị biệt nhất thời thường được xem là cái “huyền ảo” (maya), là hệ quả của sự “vô minh” (avidya). Soloviev suy luận một cách khác. Trước hết dựa vào từ nguyên của khái niệm này (absolutum trong tiếng Latinh), ông xác định cái tuyệt đối vừa là cái thoát ly mọi thứ, lại vừa là cái mang mọi thứ trong mình (bởi lẽ nó là cái hoàn bị, viên mãn, toàn vẹn). Nó vừa là cái tịnh không, vừa là tất cả. Nó là tịnh không, bởi vì nó không phải là bất cứ một cái gì xác định, cụ thể, hữu hạn. Nó là tất cả, vì không thể có một cái gì tồn tại ở ngoài nó (nếu thế thì nó sẽ mất đi tính hoàn bị, viên mãn, toàn vẹn). Do đó, theo Soloviev cái tuyệt đối tất yếu kết hợp trong mình tính đơn nhất với tính đa phức. “Tính đơn nhất tuyệt đối là định tính chính diện đầu tiên của cái khởi nguyên đầu tiên, và định tính ấy được tất cả các hệ thống siêu hình học tôn giáo cũng như triết học ít nhiều sâu sắc thừa nhận, nhưng nó hiện ra đặc biệt rõ ràng trong các tôn giáo tư biện của phương Đông. Phương Đông tĩnh quan nhận thức cái chân tồn chỉ trong định tính đơn nhất tuyệt đối của nó, loại trừ mọi thuộc tính khác (…) và chí hướng thường hằng của các tôn giáo phương Đông là khiến buộc con người từ bỏ mọi sự đa phức, mọi hình thức, và như thế tức là mọi sự tồn tại. Nhưng cái siêu tồn tuyệt đối đồng thời là khởi nguyên của mọi sự tồn tại, cái đơn nhất là khởi nguyên của cái đa phức, cái chỉnh thể là khởi nguyên của cái cục bộ, cái tự do khỏi mọi hình thức tạo tác ra tất cả các hình thức. Cái bản nguyên tuyệt đối vì vậy không chỉ là Một, mà là “Một-và-Tất-cả”. Như vậy, ngay trong ý niệm về cái tuyệt đối, như nó được Soloviev phô diễn, đã hàm chứa hạt nhân của học thuyết về “thể nhất thống chính diện của tất cả” được quan niệm như là “sự tự do hoàn toàn của các bộ phận cấu thành trong sự thống nhất hoàn toàn của chỉnh thể”.*
_____________
* Trong một bài viết năm 1894, Soloviev đưa ra một định thức khai triển hơn: “Tôi gọi là chân chính hay chính diện một thể thống nhất tất cả mà trong đó cái nhất thống tồn tại không trên lưng, hay là có hại, mà Là “Một-và-Tất-cả”, cái tuyệt đối, theo Soloviev, là thể thống nhất biện chứng của mình với cái khác mình. “Cái tuyệt đối, để là tuyệt đối, đòi hỏi cái khác, không tuyệt đối; cái đơn nhất, để là tất cả, đòi hỏi cái đa phức, tinh thần tuyệt đối, để có được tính hữu thực, đòi hỏi vật chất, bản tính siêu nhiên của Thượng Đế đòi hỏi giới tự nhiên để thể hiện thần tính của mình. Cái chân tồn, để là chân tồn, tức là vừa là một vừa là tất cả, phải là thể thống nhất của mình với cái tha thể của mình”. “Nếu mà cái tuyệt đối luôn luôn chỉ là mình, loại trừ cái khác mình, thì cái khác ấy sẽ phủ định nó, và do đó nó sẽ không còn là tuyệt đối nữa. Nói một cách khác, nếu mà nó khẳng định mình chỉ như là cái tuyệt đối, thì chính vì thế nó sẽ không thể là tuyệt đối nữa, bởi lẽ khi ấy cái khác nó, cái không tuyệt đối, sẽ nằm ở ngoài nó như là cái phủ định hay biên giới của nó, do đó mà nó sẽ trở thành cái hữu hạn, cái ngoại biệt và không tự do. Vì vậy, để là mình, cái tuyệt đối đồng thời phải là cái đối lập với mình, hay là thể thống nhất của mình với cái đối lập”. Những kết cấu biện chứng luận như thế trong những trước tác thời trẻ của Soloviev khá nhiều, và chúng cho người đọc nhận thấy tác giả của chúng đã qua “trường học” của Hegel. Nhưng diễn ngôn theo lối Hegel xem ra không truyền đạt một cách tương thích cái cảm cái nghĩ của nhà tư tưởng Nga mộ đạo, cho nên giữa những trang viết triết luận duy lý thuần tuý thỉnh thoảng lại nổi lên những đoạn văn mang cảm hứng thần luận linh hoạt. “Khi chúng ta nói rằng cái bản nguyên tuyệt đối theo ngay định danh là thể thống nhất của mình với cái phủ định mình, thì chúng ta chỉ nói lại dưới hình thức trừu tượng hơn lời của vị tông đồ vĩ đại: Thiên Chúa là tình yêu”. Tình yêu, Soloviev nói tiếp, là sự tự hạn chế mình, tự phủ định mình vì một cái gì đó khác mình, nhưng chính bằng sự tự phủ định ấy các sinh linh khẳng định mình một cách chân chính. Quy luật ấy vận hành trong thế giới con người cũng như trong thế giới thần thánh. Một sự chuyển hoá nhuần nhụy hơn từ diễn ngôn triết luận sang diễn ngôn thần luận chúng ta tìm thấy trong Những thuyết trình về Thần-Nhân loại, không phải ngẫu nhiên mà trong số những trước tác thời trẻ của Soloviev, sách này xưa nay vẫn được đọc nhiều hơn cả. Hầu như toàn bộ siêu hình học tôn giáo của Soloviev được trình bày ở đây bằng ngôn ngữ khá sáng sủa.
Như có thể thấy từ tiêu đề, đối tượng luận bàn của sách này là Thượng Đế và nhân loại. Song vì nhân loại không thể tách rời thiên nhiên, vũ trụ, cho nên Những thuyết trình về Thần-Nhân loại chứa đựng cả học thuyết siêu hình về vũ trụ. Trong khi trình bày, chúng tôi sẽ nói đến cả những bổ sung mà Soloviev sau này đã đưa vào siêu hình học tôn giáo của mình.
Thượng Đế, theo định nghĩa của Soloviev, là Sinh linh Tuyệt đối. Với tư cách sinh linh tuyệt đối, ngài mang trong mình đầy đủ những dịnh tính của cái tuyệt đối: ngài vừa là cái tịnh không vừa là hữu thể viên mãn nhất, hoàn hảo nhất, vừa là ________________
có lợi cho tất cả. Thể thống nhất sai trái, phản diện đèn ép hoặc hút thu những phần tử gia nhập nó và vì thế tự mình hoá ra cái trống không; thể thống nhất chân chính bảo toàn và gia tăng những phần tử của mình, hiện thực hoá mình trong chúng như là cái tồn tại sung mãn”. Một nhà thần học Nga hiện đại có lý nhìn thấy ở đây một sự diễn giải bằng ngôn ngữ triết học ý tưởng tôn giáo về Vương quốc của Chúa Trời.
một vừa là tất cả, là thể thống nhất của mình với cái khác mình, thể thống nhất của cái thường tồn với cái biến dịch. Trong bài Khái niệm Thánh thần viết vào những năm cuối đời, Soloviev đưa vào trong quan niệm về Thượng Đế (và thần thánh nó
chung) một định minh quan trọng nữa: ngài là sinh linh siêu ngã. Nếu ngã thể là đặc điểm đặc trưng của con người, phân biệt nó với giới tự nhiên vật chất phi ngã, thì Thượng Đế khác con người ở bản tính siêu ngã của mình. Ngã thể, tức là cái tôi có tự ý thức, có tính độc lập tự chủ, theo Soloviev, vừa là nét ưu việt vĩ đại của con người so với thế giới tự nhiên, vừa là một hạn chế lớn của nó so với Thánh Thần: mỗi một ngã thể (cá nhân) chỉ có thể là mình, mà không thể đồng thời là cá nhân khác, không thể thu nạp vào trong mình cuộc sống và bản ngã của những người khác, không thể trở thành tất cả. Còn Chúa Trời và các thành viên của Vương quốc của ngài thì mỗi sinh linh vừa là mình lại vừa là tất cả, sống bằng cuộc sống của mình và cuộc sống của tất cả. Với tư cách sinh linh siêu ngã, Chúa Trời trong đời sống nội tại của mình là Tam Vị Nhất Thể. Thi tài đua sức với rất nhiều nhà thần học Kitô giáo, Soloviev trong Những thuyết trình về Thần-Nhân loại thử nghiệm tường giải bằng phương pháp diễn dịch tín điều thần khải về Tam Vị Nhất Thể, nhưng sự diễn dịch ấy không được giới học giả xem là có sức thuyết phục. Cái được thừa nhận là cống hiến độc đáo của Soloviev cho thần học Kitô giáo là việc ông đã khẳng định tính Thần-Nhân nguyên thủy và vĩnh hằng của Chúa Trời. Từ “thần-nhân” trong giáo thuyết đạo Kitô, như ta biết, được dùng một cách phổ thông để chỉ Giêsu Kitô, con của Chúa Trời (đức Chúa Con) đã nhập thể thành người để chuộc tội cho loài người. Sự nhập thể thành người ấy được xem là ý đồ muôn thuở, có trước cuộc sáng thế, của Đấng Sáng Tạo, nhưng dẫu sao thì mục đích vẫn là để cứu vãn nhân loại và toàn thể thế giới thụ tạo. Soloviev nhìn nhận vấn đề một cách cơ bản hơn. Theo ông, Chúa Trời, ở ngôi thứ nhất là Tinh Thần thuần tuý, là khởi nguyên và tiềm năng tuyệt đối của mọi hữu thể, ở ngôi thứ hai, trong sự tự thể hiện mình (mà mọi sự tự thể hiện đều là sự tự giới hạn) ngay từ đầu đã là Thần-Nhân. Nhân tính là nội dung được hiện thực hoá, được khách thể hoá của Thần tính. Xuất phát từ quan niệm Kitô giáo “Thiên Chúa là Tình Yêu”, mà tình yêu bao giờ cũng là sự liên kết tự do và hoàn hảo của hai sinh linh hay hai bản nguyên, Soloviev cho rằng Chúa là Chúa chân chính chỉ với tư cách Thần-Nhân. “Chúa không trở thành Thần-Nhân, Ngài là Thần Nhân trong vĩnh hằng”. Chính với tư cách Thần-Nhân, Chúa tạo ra thế giới của mình bằng cách khách thể hoá nội dung của mình, tương tự như người nghệ sĩ khách thể hoá đời sống tinh thần của mình thành những tác phẩm nghệ thuật. Nhưng nếu những tác phẩm nghệ thuật, là tác phẩm của con người bất hoàn hảo, tất yếu mang dấu ấn bất hoàn hảo, thì thế giới của Chúa - cái tha thể của Thần-Nhân hoàn hảo - trong ý tưởng là Thần-Nhân loại. “Thực tại của thế giới ấy, mà nó tất yếu phong phú hơn một cách vô tận thế giới hữu hình của chúng ta, thực tại của thế giới thần thánh ấy rõ ràng chỉ có những ai thực sự thuộc về nó mới tri kiến được đầy đủ. Nhưng bởi lẽ cả thế giới tự nhiên của chúng ta cũng tất yếu có quan hệ mật thiết với thế giới thần thánh ấy (…), bởi lẽ giữa hai thế giới không có và không thể có vực ngăn cách không thể vượt qua, cho nên những tia sáng và hồi quang riêng lẻ của thế giới thần thánh phải thâm nhập cả vào thực tại của chúng ta và làm nên toàn bộ nội dung lý tưởng, toàn bộ cái đẹp và cái chân mà chúng ta tìm thấy ở trong nó”.
Thế thì thế giới tự nhiên của chúng ta nằm trong quan hệ xác định thế nào với thế giới thần thánh? Giải đáp của Soloviev không trùng hợp với giáo thuyết Kitô giáo chính thống. “Cái thế giới, mà theo lời vị thánh tông đồ, ngập ngụa trong độc ác, không phải là một thế giới mới nào đó, cách biệt tuyệt đối với thế giới thần thánh, được tạo thành từ những thành tố riêng biệt của mình, mà nó chỉ là tương quan khác, lẽ ra không được có, của chính những thành tố tạo nên cả sự tồn tại của thế giới thánh thần… Bởi nếu Thượng Đế, với tư cách cái tuyệt đối hay là cái thập toàn, hàm chứa trong mình mọi hữu thể hay là mọi sinh linh, thì tức là không thể có những sinh linh mà lại có cơ sở của sự tồn tại của mình ở ngoài Thượng Đế hay tồn tại như là những thực thể ở ngoài thế giới thần thánh; vì thế mà thế giới tự nhiên trong sự đối lập với Thượng Đế, chỉ có thể là vị thế khác hay là sự sắp đặt khác cũng những thành tố cơ bản thường tồn như là những thực thể trong thế giới thần thánh”. Chính vì thế giới bất toàn, đầy ác độc và khổ đau của chúng ta vẫn là thế giới của Thượng Đế và khởi thủy có chung bản chất với Ngài cho nên nó vẫn đáng được tôn quý, ngưỡng mộ. Soloviev - nhà thần học, thống nhất với Soloviev - nhà thơ, kiên định trong chí hướng khắc phục chủ nghĩa nhị nguyên trong quan niệm về Thượng Đế và thế giới.
Vậy thì cái ác, cái khổ ngự trị trong thế gian này phát sinh từ đâu? Soloviev có hai giải đáp cho câu hỏi này, một giải đáp gần như đồng nhất với thần học truyền thống, giải đáp khác chứa đựng nhiều hơn những tìm tòi, trăn trở của cá nhân ông. Giải đáp thứ nhất, được trình bày trong Những thuyết trình… khẳng định rằng nguyên nhân của cái ác, cái khổ là lòng ái kỷ, vị kỷ của các vật tạo muốn khẳng định sự tồn tại độc lập của mình đối với Đấng Sáng Tạo và bất hoà, thù địch lẫn nhau - cái chủ nghĩa vị kỷ ấy là hệ quả của tự do lựa chọn mà Thượng Đế, trung thành với bản chất tự do của mình, đã ban tặng cho các vật tạo; cái tự do ấy đã bị chúng lạm dụng. Nét riêng của thần học Soloviev là ở đây ông, tuân theo những trực giác huyền bí của mình, đưa vào bức tranh siêu hình học về thế giới một sinh linh trung gian giữa Thượng Đế và thế giới - linh hồn thế giới. Theo giới thuyết của Soloviev, linh hồn thế giới là “trung tâm sống động hay là linh hồn của mọi vật tạo và đồng thời là hình thức hiện thực của thánh thần”, là “chủ thể vĩnh tồn của hữu thể thụ tạo và khách thể vĩnh tồn của tác động của Đấng Sáng Tạo”. “Được dự phần vào thể thống nhất của Thượng Đế, đồng thời bao hàm toàn bộ thể đa phức của những linh hồn sống”, linh hồn thế giới là sinh linh có bản chất nhị hợp - nó mang trong mình cả bản nguyên thần thánh lẫn bản tính của vật tạo. Vì thế nó tự do cả trong quan hệ với Thượng Đế lẫn trong quan hệ với thế giới thụ tạo. Và cái tự do ấy là nguồn gốc sâu xa của tấn kịch thế giới. Vào một thời điểm nhất định, linh hồn thế giới muốn biệt lập khỏi Thượng Đế, khẳng định vị trí trung tâm tuyệt đối của mình trong vũ trụ. “Mặc dù sở hữu tất cả, linh hồn thế giới muốn sở hữu cái tất cả ấy một cách khác cách mà nó đang sở hữu, tức là muốn sở hữu nó từ bản thân, như Thượng Đế, muốn có không chỉ sự tồn tại viên mãn vốn là của nó mà còn cả tính tự tồn tuyệt đối trong sự sở hữu thể viên mãn ấy - cái không thuộc về nó”. Nhưng chính do ý muốn khẳng định mình bên ngoài Thượng Đế, linh hồn thế giới đánh mất vị trí trung tâm của mình, đánh mất tự do và quyền lực đối với thế giới các tạo vật, không còn thực hiện được chức năng hợp nhất tất cả mà Thượng Đế giao phó cho nó. Do không còn được linh hồn thế giới hợp nhất nữa, tất cả mất đi mối liên hệ chung, toà nhà thống nhất của hoàn vũ đổ vỡ thành vô lượng những cấu kiện rời rạc, thân thể toàn thế giới tan rã thành tập hợp cơ học của những vô số nguyên tử đơn lẻ. Vũ trụ lý tưởng của Thượng Đế biến thành khối hỗn mang của vật chất, mà thuộc tính cơ bản là tính không thể thẩm thấu trong không gian và thời gian.
Như vậy, theo Soloviev, sự ra đời của thế giới vật chất của chúng ta là hệ quả của sự “sa ngã” của linh hồn thế giới, của việc nó tự do lìa rời Thượng Đế. Nhưng Thượng Đế không vì thế mà ghét bỏ tạo phẩm của mình. Toàn bộ quá trình thế giới tiếp theo được Soloviev mô tả theo tinh thần tiến hoá luận (thuyết tiến hoá luôn luôn được Soloviev xem như một chân lý khoa học, mà không một triết thuyết và thần thuyết nào được mâu thuẫn với nó)* như là quá trình dai dẳng và khúc khuỷu tập hợp và tổ chức vật chất dưới những hình thức ngày một cao hơn - từ kiểu tồn tại vô cơ lên các kiểu tồn tại hữu cơ với kết quả cuối cùng là sự xuất hiện sự sống hữu thức và hữu trí. Trong quá trình ấy linh hồn thế giới xuất hiện như là một “nghệ sĩ hoàn vũ” trực tiếp tạo tác thân thể của vũ trụ chúng ta, tiếp thụ những ý tưởng của trí tuệ thần thánh và thể hiện chúng thành những hình thái hữu thể vật chất, nhưng thể hiện một cách không tương thích, có thể nói bằng phương pháp “thử nghiệm và sai lạc”, tạo ra ở mỗi một giai đoạn tiến hoá không biết bao nhiêu phế phẩm bị loại bỏ (mà thí dụ điển hình, theo Soloviev, là những quái vật cổ sinh như khủng long). “Vì sao lại có tất cả những cuộc sẩy thai và đẻ non ấy của thiên nhiên? Vì sao Thượng Đế lại để cho thiên nhiên đạt tới đích của mình một cách chậm chạp như thế và bằng những phương tiện tồi tệ như thế? Vì sao nói chung sự hiện thực hoá ý tưởng của Đấng Tối Cao trong thế giới lại là quá trình từng bước phức tạp, chứ không phải một hành vi đơn giản?” - Soloviev tự hỏi trong Những thuyết trình về Thần-Nhân loại. Và trả lời: vì trong Thượng Đế và thế giới có tự do. “Bằng hành vi tự do của linh hồn hoàn vũ thế giới được nó hợp nhất đã rời lìa Thượng Đế và tan rã thành hằng hà sa số những phần tử thù địch nhau; bằng một loạt dài những hành vi tự do cái số nhiều nổi loạn ấy phải hoà giải với nhau và với Thượng Đế và tự tái sinh dưới hình thức một cơ thể tuyệt đối”. Nghe thật chí lý, nhưng những lời chí lý ấy không thỏa mãn ngay tác giả của chúng. Tinh thần bất an thường hằng nơi Soloviev, bị ám ảnh bởi sức mạnh và sự hiện diện khắp nơi của cái ác, tiếp tục đào sâu tìm kiếm những cội rễ bí ẩn của nó. Và đã tìm thấy ở… ngay trong Thượng Đế ( các nhà nghiên cứu cho rằng với sự trợ giúp của những nhà thần học phi chính thống như Bohme, Schelling). Từ cổ xưa, trong các học thuyết siêu hình, cái ác với cái hỗn mang vẫn được xem là anh em sinh đôi. Tâm niệm điều đó, Soloviev viết trong phần thần học của sách Nước Nga và Hội Thánh toàn thế giới (1888): “Khả ___________
* Về cuối đời, trong sách Biện chứng cái Thiện, Soloviev một lần nữa trở lại với thuyết tiến hoá vũ trụ và đưa ra những kiến giải thần học có sức thuyết phục (xem chương Tính hữu thực của trật tự đạo đức - tinh thần).
năng của kiểu tồn tại hỗn mang, muôn thuở tiềm ẩn trong Thượng Đế, muôn thuở bị đè nén bởi sức mạnh của Ngài, bị lên án bởi chân lý của Ngài và bị tiêu diệt bởi tính chí thiện của ngài. Nhưng Thượng Đế yêu hỗn mang trong hư không của nó, và Ngài muốn cho nó tồn tại, bởi vì ngài sẽ đưa được nó trở về với thể thống nhất. Cho nên Ngài cho hỗn mang được tự do”, “đánh thức nó trong linh hồn thế giới”. Linh hồn thế giới trở thành chiến trường thường trực giữa hỗn mang và Minh Triết (Sophia) của Thượng Đế, từ nay được Soloviev tách biệt khỏi cái linh hồn ấy. Cuộc giao tranh đầy kịch tính ấy, với những cuộc phục thù thâm hiểm của hỗn mang sau mỗi thắng lợi của Minh Triết thần thánh tổ chức hoàn vũ được Soloviev mô tả với sức hấp dẫn phi thường trong bài viết Cái đẹp trong thiên nhiên (1898) - áng văn triết học tự nhiên này thường được so sánh với tác phẩm trứ danh Tiến hoá sáng tạo (évolution créatrice) của Bergson xuất hiện hai thập niên sau nó. Càng về cuối đời, Soloviev càng cảm nhận nhạy bén sức mạnh của cái hỗn mang ấy. Trong tiểu luận về thơ Tiutchev ông viết: “Hỗn mang, tức là cái vô biên vô tận phản diện, cái vực thẳm không đáy của mọi sự cuồng điên và dị quái, là những cơn phiến loạn của ác quỷ nổi dậy chống lại tất cả những gì là chính diện và phải tồn tại - đấy là bản chất sâu kín nhất của linh hồn vũ trụ và nền móng của toà nhà hoàn vũ”. Sống trong linh hồn hoàn vũ, hỗn mang sống trong linh hồn từng người, linh hồn toàn nhân loại, và kết cục của cuộc vật lộn của nó với bản nguyên tươi sáng ở đây là khó lường.
Đưa yếu tố nhị nguyên vào Thượng Đế chí tôn, Soloviev rõ ràng rời xa giáo lý của đạo Kitô và xích lại gần với quan niệm về thần linh trong nhiều nền tôn giáo khác của nhân loại. Đồng thời, thụ cảm nhạy sắc cuộc đấu tranh thường hằng, không phân thắng bại giữa bản nguyên tối và bản nguyên sáng trong vũ trụ cũng như trong tâm hồn con người, nhà tư tưởng cổ điển Nga trở nên gần gũi hơn với cảm thức cuộc sống của con người ngày nay.
Trở lại với triết thuyết về quá trình hoàn vũ của Soloviev, ta thấy ông hình dung nó như là quá trình linh hồn thế giới trở về với Thượng Đế, tái hoà nhập vào thể nhất thống chính diện của Ngài. Trong quá trình ấy bản nguyên thần thánh ngày một liên kết chặt chẽ hơn với linh hồn thế giới, chiến thắng vật chất hỗn mang, dẫn đưa nó vào những hình thái ngày một hoàn hảo hơn và cuối cùng vào hình thái hoàn hảo nhất - con người. ở trong con người, linh hồn thế giới lần đầu tiên (sau cuộc sa ngã tội lỗi của mình) thu nhận được ý thức và tái nhập một cách hữu thức với trí tuệ của Thượng Đế, khôi phục quan hệ nội tại với ngài. Trong thực tế chỉ là một trong rất nhiều sinh thể của giới tự nhiên, con người trong ý thức của mình có năng lực nhận thức quan hệ nội tại và ý nghĩa của tất cả những gì tồn tại; là thể đơn nhất, trong ý tưởng nó là một-và-tất-cả và theo nghĩa ấy là hình ảnh và thể tương đồng với Thượng Đế. “Trong con người, cái tự nhiên trở nên to lớn hơn mình và chuyển di (trong ý thức) vào lĩnh vực tồn tại tuyệt đối”. Trong sinh linh con người, Soloviev phân biệt ba nguyên lý tồn tại. Là một sinh thể tự nhiên mang trong mình tất cả những yếu tố vật chất gắn bó nó với thế giới tự nhiên, con người đồng thời trong ý tưởng có ý thức về tính nhất thể của vạn vật, ý thức ấy gắn nối nó với Thượng Đế; song ngoài quan hệ với giới tự nhiên và với Thượng Đế, con người còn là ngã thể tự do, có khả năng tự quyết thế này hay thế khác, ngả về mặt này hay mặt khác của sinh linh mình, khẳng định mình trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Mang trong mình bản tính thần thánh được Thượng Đế ban truyền cho nó, con người có thể muốn và đã muốn có cái bản tính ấy từ mình, tức là muốn lầ Thượng Đế. ý nguyện có được cái bản thể tự tồn ấy, nó khẳng định mình riêng biệt với Thượng Đế, bên ngoài Thượng Đế, lìa rời ngài trong ý thức của mình, giống như trước đây, ở điểm khởi thủy của thế giới vật chất, linh hồn hoàn vũ đã lìa rời Thượng Đế để khẳng định mình.
Và với con người đã xảy ra cái mà xưa kia đã xảy ra với linh hồn hoàn vũ - tấn kịch thế giới lặp lại. Dấy loạn chống lại bản nguyên thần thánh hợp nhất tất cả, loại trừ nó khỏi ý thức mình, con người rơi vào vòng cương tỏa của bản nguyên vật chất, bởi vì chỉ bằng sức mạnh của thiên ân, nó mới được tự do khỏi quyền lực của thế giới vật chất. Chối từ thiên ân, con người trở thành chỉ một hiện tượng trong muôn triệu hiện tượng của giới tự nhiên. “Nếu trước đây, với tư cách trung tâm tinh thần của toàn thể vũ trụ, nó bằng linh hồn mình bao quát toàn bộ thiên nhiên và sống một cuộc sống với thiên nhiên, yêu và hiểu, vì thế mà điều khiển được nó thì giờ đây, khẳng định mình trong cái tự ngã của mình, khép kín hồn mình khỏi tất cả, con người nhận thấy mình trong thế giới xa lạ và thù địch, thế giới ấy đã không còn nói với nó bằng một ngôn ngữ hiểu được và cũng không hiểu và không nghe theo những lời của nó”. Đánh mất năng lực cộng thông với mọi vật, trở thành tù nhân của yếu tố vật chất, con người đánh mất cả tri thức về thần thánh chính thực. Mà không có quan niệm tương thích về Thượng Đế, con người (và cả linh hồn thế giới ở trong nó) không thể trở về với ngài, không thể tái hợp với ngài một cách tự do và hữu thức. Đáp ứng những kêu gọi của linh hồn hoàn vũ sống trong loài người, Thượng Đế khải thị mình cho loài người, sự khải thị ấy được thực hiện thông qua một loạt tôn giáo và học thuyết triết học, được mô tả trong Những thuyết trình về Thân-Nhân loại như là những bậc đi lên của quá trình loài người nhận biết thánh thần chân chính. Bậc khải thị thứ nhất là các tôn giáo đa thần thờ bái thiên nhiên. Bản nguyên thánh thần ở đây còn ẩn khuất sau thế giới hiện tượng, và con người thờ bái trực tiếp những hiện tượng ấy - những sức mạnh tự nhiên hùng mạnh hơn nó không thể so sánh. ở bậc thứ hai bản nguyên thánh thần khai mở mình trong sự tách biệt với thế giới tự nhiên, như là sự phủ định nó (đạo Phật). Con người yếu đuối về thể chất ở đây cất mình lên cao hơn thế giới các hiện tượng biến hoá vô nghĩa, nhận thức nó như là cái huyễn ảo, giải phóng mình khỏi mọi sự quyến luyến với sinh tồn, hướng về cõi hư tịch (Niết Bàn). Đó là sự khải thị tiêu cực. Triết học duy tâm Hy Lạp (chủ nghĩa Platon) là bước khải thị tích cực đầu tiên. Phản bác đạo Phật, nó nói: đúng, thế giới hiện tượng không phải là chân lý, nhưng có chân lý đích thực - đó là vũ trụ của các ý tưởng hoàn hảo và vĩnh tồn. Nhưng vũ trụ lý tưởng ấy tồn tại bên ngoài thế giới vật chất này, đó là vũ trụ trí hội thuần tuý. Bậc tiếp theo của sự khải thị chân lý tôn giáo là đạo Do Thái - ở đây bản thể thánh thần đã xuất hiện như là một sinh linh, một ngã thể sống động. Nhưng quan hệ của vị thần độc nhất ấy với dân của ngài vẫn còn mang tính khế ước bề ngoài, cốt lõi của khế ước ấy là con người phục tùng vô điều kiện ý chí của một sinh linh toàn năng siêu tại. Tuy nhiên, trong đạo Do Thái đã xuất hiện những nhà tiên tri, họ nhận ra tính bất túc của một liên minh bề ngoài như vậy giữa con người và thánh thần, dự cảm và tiên báo một sự liên kết khác, nội tại và hoàn hảo thông qua sự ra đời trong lòng dân tộc Do Thái một Thần-Nhân, ngài sẽ không chỉ là đại diện tối cao của dân tộc ấy nữa, mà còn là “ngọn cờ của mọi dân tộc”, là đại diện và người đứng đầu toàn thể nhân loại được tái sinh. Thần-Nhân ấy, con của Chúa Trời và con của loài người, thần linh hoàn hảo và con người hoàn hảo trong một cá thể, chính là Giêsu Kitô.
Soloviev tìm ra những lời của mình để nói về cái giáo điều cơ bản của đạo Kitô - sự nhập thể của Thiên Chúa - mà về nó trước ông đã được viết hàng núi sách. “Sự nhập thể thành người của Thiên Chúa không phải là cái gì đó kỳ diệu theo đúng nghĩa của từ ấy, tức là một cái gì đó xa lạ với trật tự chung của sinh tồn, mà ngược lại gắn bó một cách cơ bản với toàn bộ lịch sử thế giới và nhân loại (…) Toàn bộ thế giới tự nhiên hướng tới và trù bị cho sự xuất hiện con người, toàn bộ lịch sử loài người hướng tới Thần-Nhân”. Nếu chỉ nhìn thấy ở Thiên Chúa một sinh linh siêu tại, toàn mãn trong cuộc sống nội tại tam vị nhất thể của mình, thì sẽ không thể hình dung được sự nhập thể của ngài. Nhưng Thiên Chúa, là siêu tại, trong quan hệ với thế giới xuất hiện như là một sức mạnh hoạt động, hướng dẫn loài người đến đích lý tưởng (Chúa-Lời). Sự hiện diện của Thiên Chúa trong thân thể con người chỉ là sự thần hiện (théophanie) đầy đủ nhất trong một loạt cuộc thần hiện trù bị mà nhân loại đã chứng kiến. Giêsu Kitô - Thiên Chúa đã nhập thể - cho loài người một mẫu mực về sự liên kết hoàn hảo bản nguyên con người với bản nguyên thánh thần - cái phải trở thành hiện thực phổ biến trong Thần-Nhân loại tương lai. “Quan hệ cần phải có giữa thần tính và tự nhiên trong con người, đã đạt được bởi Giêsu Kitô với tư cách trung tâm hay là nguyên thủ tinh thần của nhân loại, phải được toàn thể nhân loại, với tư cách thân thể của Ngài, hấp thụ”. Cái chết và sự phục sinh của Kitô chỉ cho loài người con đường đạt tới sự bất tử ngàn đời mong ước - đó sẽ là sự bất tử trong thân xác được cải hoá, thân xác thoát khỏi những thuộc tính của vật chất trơ ì không thể thẩm thấu, trở thành biểu hiện và công cụ của tinh thần. Kitô đã chỉ ra cho nhân loại cái đích tốt đẹp, xứng đáng của cuộc sống và chỉ ra cả những phương cách đạt tới đích ấy. Tức là ngài đã làm cho nó trở nên hữu khả. Nhưng chỉ có toàn thể nhân loại, hợp quần trong hội thánh toàn thế giới, mới có thể thực hiện được đích ấy bằng hành vi tự do của ý chí.
Một cách tự nhiên, siêu hình học tôn giáo của Soloviev dẫn đưa chúng ta vào triết học lịch sử của ông.
5 - Triết học lịch sử
Trong triết học lịch sử cũng như trong những bộ phận khác của hệ thống triết học của mình, Soloviev kiên trì chủ trương thực hiện cuộc tổng hoà giữa triết học với thần học và khoa học. Khoa học xã hội thời Soloviev, căn cứ vào những bước tiến hiển nhiên đã đạt được trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống nhân loại, khẳng định tiến bộ như là một quy luật của lịch sử loài người - quy luật này lại càng thu nhận được sức thuyết phục do được gắn bó với học thuyết về sự tiến hoá của thế giới tự nhiên. Soloviev, như đã nói, tin vào tiến bộ lịch sử, niềm tin ấy hoà hợp với xác tín của ông về tính hướng đích và hợp đích của toàn bộ tiến trình thế giới. Có điều ông hiểu cái đích ấy không giống những nhà tư tưởng xã hội vô thần tin rằng loài người tự nó bằng trí tuệ và lao động của mình có thể từng bước hoặc bằng những cú “nhảy vọt vĩ đại” xây dựng một xã hội hoàn hảo, chinh phục những sức mạnh tự nhiên, bắt chúng phục vụ những lợi ích của con người, cuối cùng tạo dựng nên một thiên đường trên trái dất. Cái đó theo Soloviev vừa là cái bất khả vừa là cái chưa thật đáng mong ước. Bất khả do bản chất bất hoàn thiện của con người, với trí năng hữu hạn và sức mạnh của cái ác, cái tội lỗi bên trong nó. Chưa thật đáng mong muốn vì một xã hội với những quan hệ cứ cho là hoàn hảo giữa người với người và với sự sung mãn vật chất mà các nhà tư tưởng nhân văn chủ nghĩa vô thần hướng tới và tưởng có thể xây dựng được vẫn để lại con người trong thân phận một sinh vật tự nhiên phải chịu đựng những tai ương của cuộc sống tự nhiên: bệnh tật, tuổi già, những tai họa thiên nhiên và cuối cùng - sự chết. Đồng tình với Dostoievski, Soloviev không biết mệt mỏi cảnh báo về những hiểm họa nằm sẵn trong những ý đồ của nhân loại tự sắp xếp cho mình một cuộc sống bên ngoài Thượng Đế, thực hiện “cơ đồ hạnh phúc chung” mà không cần đến sự phù trợ của sức mạnh siêu nhân loại. “Cơ đồ chân chính chỉ có thể có được, - Soloviev nói trong Ba diễn từ tưởng niệm Dostoievski, - nếu mà cả trong con người và trong thiên nhiên có những sức mạnh chính diện và tự do của ánh sáng và của cái thiện; nhưng không có Thượng Đế thì cả con người lẫn thiên nhiên đều không có được những sức mạnh như thế. Sự tách biệt với Thượng Đế, tức là với cái Thiện thập toàn, là điều ác và hành động trên cơ sở cái ác ấy, chúng ta chỉ có thể chuốc lấy những điều tồi tệ. Việc cuối cùng của con người vô thần là chém giết hoặc tự chém giết. Con người đưa vào trong giới tự nhiên cái ác và rút ra từ đấy cái chết”. Như vậy, cương quyết cự tuyệt nền văn minh vô thần, cho rằng nó sẽ đưa loài người đến bại vong - đó là một cực trong tư tưởng triết học lịch sử của Soloviev.
Nhưng chỉ là một cực. Cực khác là lập trường trước sau như một tán thành, hoan nghênh tất cả những thành quả chính diện đạt được trong nền văn minh thế tục, nền văn minh dựa vào sự phát triển tự do, chủ động những nguồn lực của con người. Đinh ninh rằng loài người chỉ có thể thực hiện được những lý tưởng cao cả của mình trong sự liên minh với Thượng Đế, Soloviev luôn luôn quan niệm rằng liên minh ấy phải mang tính tự do, tự nguyện, chứ không cưỡng chế, áp đặt. Nhìn thấy nguyên nhân tiêu vong của tất cả các nền thần quyền cổ xưa ở chỗ yếu tố con người ở đấy bị đè nén, phong tỏa, bị cưỡng bức phục tùng yếu tố thần thánh, Soloviev cho rằng sự giải phóng con người khỏi sự lệ thuộc một chiều vào thần thánh để cho nó tự phát huy mọi năng lực sáng tạo của mình là giai đoạn không thể thiếu được và tối quan trọng trong lịch sử nhân loại và giai đoạn này nằm trong ý đồ của Thượng Đế. Minh triết của Thượng Đế dẫn dắt tiến trình lịch sử loài người cũng như trước đó đã dẫn dắt tiến trình vũ trụ. Bác bỏ chủ nghĩa cuồng tín tôn giáo và chủ nghĩa thủ cựu hẹp hòi, Soloviev sẵn sàng tôn vinh những người vô đạo nhưng đóng góp thiết thực vào sự tiến bộ chung của nhân loại như là những người thừa hành một cách vô thức ý chí của Chúa Trời. Sự tiến bộ toàn diện của loài người, sự thực hiện ngày một đầy đủ hơn trong đời sống của nó những nguyên tắc tự do, công bằng, bác ái, theo Soloviev, là điều kiện không thể thiếu cho sự hiển hiện Vương quốc của Chúa Trời. Vương quốc ấy không thể xuất hiện giữa loài người man rợ, cũng như trước đấy con người không thể xuất hiện giữa thế giới những động vật hạ đẳng. Cho nên chỉ có nền văn minh nhân văn chủ nghĩa phát triển cao, mà trong đó loài người sau khi đã phát huy cao độ mọi năng lực sáng tạo của mình, nhận thức được tất cả tính hữu hạn, bất toàn của mình, cảm thấy nhu cầu bức thiết, tái hợp với sức mạnh siêu nhân loại chí thiện - chỉ có nền văn minh ấy mới trù bị được những điều kiện cần thiết cho sự giáng thế lần thứ hai của Thiên Chúa, cho sự cải hoá nhân loại tự nhiên thành Thần-Nhân loại và đưa cả thế giới tự nhiên được cải hoá cùng với loài người vào Vương quốc của Chúa. Soloviev đặc biệt nhấn mạnh sứ mệnh cứu tinh của con người đối với thiên nhiên. Là đỉnh cao của tiến hoá tự nhiên, con người phải trở thành môi giới cứu độ giữa tự nhiên và Thượng Đế. Bằng cách hấp thụ và phát triển trong mình yếu tố thần thánh, tinh thần hoá toàn bộ đời sống của mình, con người dẫn đưa chất tinh thần vào đời sống giới tự nhiên để cuối cùng giải phóng nó khỏi quy luật tiêu diệt lẫn nhau giữa các vật sống, khỏi quyền lực của thần chết, “hoá thần” nó cùng với mình.
Ngày hiển hiện Vương quốc của Chúa Trời sẽ là ngày khánh chung lịch sử loài người. Soloviev không chỉ khẳng định sự nhất thiết phải có cuộc khánh chung ấy (không có nó thì lịch sử thế giới sẽ là quá trình bất tận vô nghĩa), mà còn khao khát chờ mong nó, tin rằng nó đang đến gần. Nhưng, như đã nói, khao khát một sự khánh chung lịch sử tốt đẹp, một cuộc sống bất tử của loài người và vạn vật “trên trái đất mới dưới bầu trời mới”, Soloviev đồng thời lo sợ một sự cáo chung tồi tệ - như là ngày phán xử đáng sợ của Chúa đối với loài người bội tín. Sở cứ siêu hình của nỗi lo ấy vẫn là cái tự do ý chí, tự do lựa chọn, mà chỉ với nó con người mới là người, mới làm nên được những giá trị cao quý chứng tỏ nó thật sự là hình ảnh và thể tương đồng của Thiên Chúa; nhưng cũng cái tự do ấy con người có thể sử dụng có hại cho mình và cho cơ đồ của Chúa. Và điều ấy đã xảy ra trong Truyện về tên phản Chúa của Soloviev. Bằng truyện này, tác giả của nó cho thấy ông thấu hiểu tất cả bản chất phi lý tính của ý chí con người (mà như thế là của cả ý chí của Thượng Đế do sự tương đồng cơ bản giữa hai sinh linh này) và lường trước những khả năng xấu có thể xảy ra với nhân loại và Thượng Đế. Nhưng dẫu sao Truyện về tên phản Chúa chỉ là một “kịch bản cạnh tranh” về tương lai thế giới, còn mang tính chấm phá, phát sinh từ những dự cảm cuối đời của nhà hiền triết và không bãi bỏ học thuyết được dày công xây dựng của ông về cái Thiện tuyệt đối và những con đường thực hiện nó. Học thuyết ấy chính là nội dung cơ bản của triết học đạo đức Soloviev.
Như đã nói, triết học đạo đức là bộ phận hoàn chỉnh nhất, được khai triẻn tỉ mỉ nhất và được bản thân tác giả xem là quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống triết học của mình. Có thể nói, toàn bộ tư tưởng và sáng tác của Soloviev ngả về đạo đức học. Những vấn đề đạo đức học chiếm một nửa công trình Phê phán những nguyên lý trừu tượng. Những ý tưởng, quan điểm đạo đức học tôn giáo thẩm thấu toàn bộ văn chính luận của Soloviev. Trong sách Biện chứng cái thiện (1894-1897), những ý tưởng, quan điểm ấy được phát triển và kết cấu thành một hệ thống có cơ sở triết học và thần học xác định. Vì thế sự trình bày một cách tương đối kỹ lưỡng nội dung cuốn sách này sẽ có tác dụng làm sáng tỏ hơn toàn bộ học thuyết triết học của Soloviev.
Như ta đã biết, Soloviev bắt tay vào viết tác phẩm chính của đời mình khi tư tưởng của ông đã đạt độ chín chắn và hoàn chỉnh cao và khi ông đã nắm vững toàn bộ kho tàng triết học của phương Tây cũng như của phương Đông, trong đó có triết học đạo đức. Kho tàng ấy được tích luỹ trong ba thiên niên kỷ của văn minh loài người, cực kỳ phong phú và phức tạp, với di sản của hàng chục vĩ nhân và trường phái lớn đã ảnh hưởng mãnh liệt đến số phận của nhiều dân tộc và khu vực thế giới. Vậy Vladimir Soloviev, triết gia hậu sinh, đã tiếp nhận di sản ấy như thế nào và đã làm giàu những gì cho kho tàng tư tưởng chung ấy của loài người?
Soloviev đặt cho công trình triết học đạo đức của mình một cái tên giàu hàm nghĩa: Opravdanie dobra mà chúng tôi tạm dịch là Biện chứng cái thiện. Từ opravdanie trong tiếng Nga phát sinh từ từ pravda, có nghĩa vừa là sự thật = chân lý, vừa là lẽ phải = chính nghĩa. Từ dobro trong tiếng Nga cũng đa nghĩa, nó vừa chỉ cái thiện (phạm trù đối lập với cái ác), vừa chỉ cái tốt đẹp = lương hảo và cả cái phúc = phúc lợi. Trong ngữ cảnh của toàn bộ tác phẩm của Soloviev, tổ từ “Opravdanie dobra” bao hàm ít nhất ba ý nghĩa chính: 1) Cho thấy cái thiện là cái có thật, là thực tại, tức là chứng minh rằng câu chuyện triết học về cái thiện không phải là chuyện phiếm, chuyện hão (“biện minh cái thiện” về phương diện bản thể luận). 2) Cho thấy sự thống nhất (ở cấp cao nhất) của cái thiện với cái phúc. 3) Cho thấy cái thiện có thể được thực hiện, một phần đã được thực hiện và phải được tiếp tục thực hiện như thế nào trong đời sống nhân loại.
Triết học đạo đức của Soloviev, cũng như mọi thuyết đạo đức học của các tác gia khác, là học thuyết quy phạm, nó xác định những nguyên tắc hành động thực tiễn hay là những chuẩn mực đạo đức của con người và xã hội loài người. Mặc dù Soloviev dành hẳn một chương (Dẫn luận) trong công trình của mình để chứng minh tính độc lập của triết học đạo đức như một khoa học, nhưng rõ ràng từ toàn bộ hệ thống lập luận, dẫn chứng của ông, phải hiểu rằng tính độc lập ấy mang tính tương đối và có quan hệ mật thiết với những cơ sở thế giới quan và nhân sinh quan xác định. Mọi học thuyết đạo đức nghiêm chỉnh đều xuất phát và được quy định bởi quan niệm gốc về bản chất con người - các trường phái triết học khác nhau đấu tranh với nhau nhiều nhất chính xung quanh vấn đề này. Chỉ cần nhắc tới hai trường phái đối kháng trong triết học cổ Trung Hoa: nho gia và pháp gia, và tương tự với chúng trong triết học châu Âu thời mới - triết học của Rousseau và của Hobbes. Từ những quan niệm đối lập về bản chất thiện hay ác của con người mà người ta xác định những quy tắc hành xử giữa người với người và những nguyên tắc tổ chức và điều hành xã hội loài người cũng tất yếu mang tính đối lập. Những hệ thống tôn giáo - đạo đức lớn của thế giới như đạo Phật, đạo Zoroastre, đạo Do Thái, đạo Kitô, đạo Hồi…một phần quan trọng được xây dựng trên quan niệm cơ bản về linh hồn con người như là trường đấu tranh giữa bản nguyên thiện và bản nguyên ác.
Tiền đề phương pháp luận của Soloviev: không thể kiến tạo được một nền đạo đức học có giá trị phổ quát, nếu tự hạn chế trong lĩnh vực quan hệ giữa người với người (điều mà đa số các nhà đạo đức học vẫn làm). Nếu đồng nhất đạo đức với cái thiện là đúng, thì lại không thể đặt dấu bằng đơn thuần giữa cái thiện với chủ nghĩa vị tha và giữa cái ác với chủ nghĩa vị kỷ - một sai lầm mà ngay một trí tuệ lớn như Schopenhauer cũng đã mắc phải. Nếu chỉ lấy thực tế thấy được của quan hệ người với người làm tiêu chí duy nhất để đánh giá bản chất con người thì khẳng định bản chất ấy là thiện hay ác cũng đều có lý, thậm chí lời khẳng định sau sẽ có lý hơn: rõ ràng cái ác (hay là chủ nghĩa vị kỷ) đã và đang ngự trị trong đời sống những con người cá thể cũng như xã hội loài người. Soloviev kiến nghị tìm kiếm bản nguyên thiện trong con người theo ba chiều hướng liên đới: quan hệ hay là thái độ ứng xử của con người với cái thấp hơn nó, tức là cái tự nhiên vật chất, với cái ngay bằng nó - tức là với đồng loại và với cái ưu việt hơn nó, tức là thánh thần.Và ông tìm ra ba tình cảm tự nhiên trong ba quan hệ ấy mà ông gọi là “những dữ liệu nguyên khởi của đạo đức con người”: sự xấu hổ, tình thương và lòng tôn kính. Toàn bộ nền đạo đức của loài người là kết quả của sự phát triển theo tiến hoá lịch sử ba tình cảm nguyên thủy ấy trong mối liên quan hữu cơ của chúng với nhau. Con người và loài người chỉ có đạo đức vẹn toàn nếu biết giữ gìn và phát triển cả ba tình cảm hữu luân ấy, nếu biết xử lý đúng đắn quan hệ của mình với cái hạ đẳng, đồng đẳng và siêu đẳng đối với mình. Khác biệt với Kant (mà công lao trong việc xây dựng một học thuyết đạo đức có ý nghĩa toàn nhân loại ông đánh giá rất cao), Soloviev không giả định mà đinh ninh khẳng định sự tồn tại của thánh thần và sự bất tử của linh hồn con người. “Tính có thật của thánh thần không phải là kết luận rút ra từ tình cảm tôn giáo, - ông viết, - mà là nội dung của tình cảm ấy - là cái được cảm thấy. Hãy lấy đi cái tính có thật cảm thụ được của bản nguyên tối cao - thì trong tình cảm tôn giáo sẽ không còn lại cái gì hết. Bản thân nó cũng sẽ không còn nữa. Thế nhưng nó có, tức là có cả cái hiện diện trong nó, cái được thụ cảm trong nó. Thánh thần có ở trong ta - tức là có thánh thần”. Và nếu chúng ta không phải lúc nào cũng cảm thấy có thánh thần trong ta, và có những người chẳng bao giờ biết đến cảm giác ấy, thì điều ấy cũng ít tác hại đến tính hiện thực của thánh thần chẳng khác nào ban đêm chúng ta không trông thấy ánh sáng mặt trời, còn những người mù bẩm sinh thì không thấy nó cả ban ngày. Đối với người theo đạo Kitô thì chỉ có một thánh thần tự tồn - đó là Chúa Trời sáng thế hay là Thượng Đế chí thiện, toàn tri và toàn năng. “Trong tình cảm tôn giáo đích thực Thượng Đế được cảm hội như là sự viên mãn của tất cả những điều kiện sinh tồn của chúng ta, như là cái mà không có nó thì sự sống đối với ta sẽ là vô nghĩa và bất khả, như là bản nguyên khởi thủy, môi trường chân chính và là mục đích cuối cùng của sinh tồn”. Và tiếp theo: “ Cơ sở nội tại của tôn giáo không chỉ là ý thức về sự lệ thuộc của chúng ta vào một sức mạnh ưu việt không thể so sánh với ta; trong thể thuần khiết của nó, tâm thức tôn giáo có thể quy về cảm giác sung sướng là có một sinh linh tốt đẹp hơn chúng ta vô cùng vô tận, và cuộc đời và số phận của chúng ta, cũng như của tất cả những gì tồn hữu, phụ thuộc vào sinh linh ấy - không phải vào cái gì đó mang tính định mệnh mù quáng, mà vào cái Thiện hữu thực và thập toàn…” (chương tám, tiểu mục II – III). Như ta thấy, trong đạo đức học cũng như trong toàn bộ triết học của Soloviev, đức tin tôn giáo với đức tin triết học hoà thành một thể thống nhất hữu cơ, những lập luận có lôgic chặt chẽ nhất được dựng xây tầng tầng lớp lớp trên cái nền cảm quan trực giác về bản thể thánh thần, cảm quan ấy không dòi hỏi chứng minh và mạnh hơn mọi luận lý. Cái mà trong bản thể luận của Soloviev hiện diện như là cái thực tồn hay cái chân tồn (đối lập với cuộc sống phù du của chúng ta như là cái hư tồn), trong siêu hình học tôn giáo của ông xuất hiện như là Thượng Đế vĩnh hằng và trong đạo đức học của ông hiện ra như là cái thiện tuyệt đối, hay là thập toàn. Khát vọng lớn nhất và mục đích cao nhất của con người bất toàn và hữu tử (mà cái sau là hệ quả của cái trước) là đạt tới thể bất tử và thập toàn, cái đó phù hợp hoàn toàn với ý đồ của Thượng Đế chí thiện mong muốn “hoá thần”, như ta đã biết, không chỉ loài người, mà toàn bộ thế giới thụ tạo.
Chúng tôi thấy cần nhấn mạnh thêm hai điểm quan trọng trong tư tưởng Soloviev, được nhắc đi nhắc lại không chỉ trong công trình này: thứ nhất, chỉ có Vương quốc của Chúa Trời hay là cuộc sống tận thiện, tận chân, tận mỹ “trên trái đất mới dưới bầu trời mới”, nơi mà cái chết đã bị chiến thắng hoàn toàn, nơi mà tất cả những người đã chết cũng được phục sinh cho sự sống bất tử trong thân xác, mới đem lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống hiện tại của từng con người và cả loài người; Soloviev không chấp nhận bất kỳ một “xã hội lý tưởng” nào mà trong đó những con người vẫn phải chết, những mỹ từ thiếu suy nghĩ của các nhà duy vật lịch sử dung tục như “sự bất tử của nhân dân” hay “của nhân loại” trong trường hợp tốt nhất gây nên ở ông nụ cười khoan dung. Thứ hai, ngay khi Vương quốc của Chúa Trời đã xuất hiện, từng con người vẫn có quyền chấp nhận hay chối bỏ nó. Thượng Đế không cưỡng bức ai gia nhập thiên đường vĩnh phúc của Ngài. ý chí tự do của con người được tôn trọng triệt để.
Một sự liệt kê đơn thuần mục lục khái quát* đủ cho thấy quy mô của tác phẩm và tầm nhìn của tác giả có thể nói đã bao quát tất cả mọi lĩnh vực trọng yếu của đời sống cá thể con người cũng như cộng đồng loài người. Khuôn khổ có hạn của bài tổng quan không cho phép đi sâu phân tích nội dung từng chương, mà chương nào cũng chứa đựng không ít tư tưởng sâu sắc và độc đáo, không ít tư liệu quý giá thuộc nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội - nhân văn. ở phần Một của cuốn sách mà chúng tôi đã chọn dịch chương Một, chúng tôi muốn lưu ý bạn đọc tới ý nghĩa đặc biệt quan trọng mà Soloviev dành cho một cảm xúc hữu luân cơ bản của con người - nỗi xấu hổ, khởi nguyên là nỗi xấu hổ hữu tính, dần dần theo quá trình lịch sử phát triển thành lương tâm = lương tri. Về sự biết xấu hổ như là biểu hiện ______________
* Mục lục khái quát này được rút ra từ Mục Lục chi tiết chiếm hơn 30 trang sách.
không thể thiếu của đạo đức con người, nhiều nhà hiền triết ở phương Đông cũng như phương Tây từ thời xưa đã bàn đến: Khổng Tử, Mạnh Tử, Socrate, Platon…, danh sách có thể kéo dài. Nhưng (như chúng tôi biết) chỉ Soloviev mới đưa nó lên tầm quan trọng hàng đầu, nhìn thấy ở nó một dấu hiệu đặc thù có một không hai phân biệt con người với các động vật khác và nói lên cái bản chất siêu vật chất, siêu tự nhiên của con người (“hình ảnh và thể tương đồng với Chúa Trời”). “Trong cảm xúc xấu hổ, những ham thích vật chất cơ bản nhất bị chúng ta kinh ghét như thể một cái gì đó xa lạ và thù địch với ta. Rõ ràng, người kinh ghét và cái bị kinh ghét không thể là một - một sinh linh xấu hổ trước thực tại vật chất của mình không thể chỉ là một thực tại vật chất. Thế nào là cái thực tại vật chất tự xấu hổ và kinh ghét mình, tự phán xét và thừa nhận mình là không xứng đáng? Chẳng phải đó là cái vô nghĩa trực tiếp, một mẫu mực về cái không thể có theo lôgic?”. Quả thật, cảm xúc xấu hổ và biến thể xã hội của nó - lương tâm - là biểu hiện vừa rõ ràng nhất vừa sâu sắc nhất của ý thức phẩm giá con người. Khi con người không còn biết xấu hổ, nó đánh mất nhân phẩm của mình, hạ mình xuống cấp con vật, nhưng bởi vì con người không thể bình đẳng với loài vật, cho nên để mất nhân tính, nó trở nên thấp kém hơn, vô luân hơn loài vật rất nhiều. Nhại lại Descartes đã đề cao một chiều lý tính ở con người, Soloviev đưa ra một định thức mà theo chúng tôi đáng được tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giai cấp, ghi tạc trong tâm thức: Tôi xấu hổ tức là tôi tồn tại.
Liên quan mật thiết với luận thuyết về đức xấu hổ là tư tưởng của Soloviev về yếu tố khổ hạnh trong đạo đức. Tư tưởng này không mới. Minh triết của các dân tộc, được đúc kết thành các hệ thống tôn giáo - đạo đức, đều dạy con người phải biết làm chủ bản thân, biết kiềm chế những dục vọng, đặc biệt những dục vọng xác thịt - vật chất, dành ưu tiên cho những phúc lợi tinh thần trước những phúc lợi vật chất. Nét riêng của Soloviev trong luận thuyết về Đức khổ hạnh biểu hiện ở chỗ: 1) Đức khổ hạnh là một yêu cầu luân lý thể hiện trách nhiệm của con người đối với bản thân mình. Trách nhiệm với bản thân là thành tố đầu tiên, không thể thiếu trong đạo đức con người.Con người có thể không độc ác, thậm chí giàu lòng nhân ái, yêu thích cái thiện, nhưng nếu nó vô trách nhiệm với bản thân, làm nô lệ cho những đam mê dục vọng tầm thường của mình, thì nó vẫn là một kẻ vô đạo đức. 2) Đức khổ hạnh, mặc dù nó là thiết yếu đối với mọi người và đáng kính trọng, nhưng không phải là một giá trị tự thân. Đức khổ hạnh là phương tiện, là con đường để con người đi tới vương quốc của những mục tiêu cao nhất của nhân sinh. Khi đức khổ hạnh bị biến thành mục đích tự thân, trở thành nguồn gốc của lòng kiêu hãnh, của sự tự đề cao của con người - nó từ cái thiện hoá thành cái ác. Trong thần thoại của đạo Kitô, kẻ khắc khổ vô luân nhất là quỷ Xatăng, trong khi ấy thì Chúa Trời lại độ lượng đối với sự yếu đuối của con người trước sức mạnh của những nhu cầu vật chất - nhục thể. Triết học đạo đức của Soloviev không mang tính hà khắc trừu tượng là nhược điểm, thí dụ, của đạo đức học của Kant.
Phần hai của sách Biện chính cái thiện, mang nặng nội dung siêu hình học, được dành chính để chứng minh tính hữu thực và sự hoạt động của thánh thần trong thế giới này, tính hiện thực của Vương quốc của Chúa trời mà, trong sự liên kết tự do với loài người, Ngài đương dẫn dắt nó tới đó. Trong phần này, Chương Tính hữu thực của trật tự đạo đức - tính thần có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. ở đây, Soloviev dựa trên những dữ liệu của khoa học hiện đại, cho thấy toàn bộ lịch sử vũ trụ và lịch sử hình thành, phát triển của sự sống trên trái đất là một tiến trình có mục đích và có ý nghĩa. Lịch sử tự nhiên từ vô cơ đến hữu cơ theo Soloviev là quá trình tích hợp, làm sáng và làm sống vật chất bởi một sức mạnh siêu vật chất. Tiếp tục quá trình ấy, lịch sử tiến hoá của thế giới hữu cơ, từ thực vật qua động vật, cuối cùng dẫn đến sự hình thành thế giới loài người - hình thức sự sống hữu thức và hữu trí, có khả năng tự hoàn thiện nội tại vô tận. Như Soloviev quan niệm, lịch sử tiến hoá của nhân loại từ thú-nhân tính lên thần-nhân tính là quá trình từng bước nhuần thấm trong mọi lĩnh vực đời sống của mình yếu tố tinh thần, ý thức ngày một rõ hơn và thực hiện ngày một đầy đủ hơn sứ mệnh của mình trong hoàn vũ. Nội dung sứ mệnh ấy là làm trung gian giữa Thượng Đế và thế giới, chuẩn bị những điều kiện nội tại cần thiết cho sự cải hoá toàn bộ thế giới hiện tồn thành thế giới của sự sống hữu thức, hữu trí viên mãn và bất tử mà tên gọi khác của nó là Vương quốc của Chúa Trời. Trong Vương quốc ấy, như đã nói, không chỉ loài người mà cả toàn bộ thế giới vật chất cũng được “hoá thần”. Tất cả những quá trình nói trên nằm trong cái mà Soloviev gọi là “cơ đồ hoàn vũ của Thượng Đế”. Để có sự ra đời của một thần-nhân loại (còn gọi là “nhân loại tinh thần” khác biệt với “nhân loại tự nhiên”), chính Thượng Đế đã nhập thể thành người mang tên Giêsu Kitô. Cuộc đời của Kitô, cái chết và sự phục sinh của ông là điểm ngoặt trung tâm của lịch sử thế giới. Soloviev - khác với các nhà thần học chính thống - không nhấn mạnh tư tưởng về cái chết khổ nạn để chuộc tội cho loài người của Kitô. Thay vì cái đó, ông không biết mệt mỏi khẳng định: Sự phục sinh của Kitô là chiến thắng đầu tiên của một con người hoàn hảo đối với thần chết từ muôn đời muôn kiếp ngự trị trên thế gian này. Sự phục sinh của Kitô tiên báo và chỉ dẫn cho nhân loại con đường đi tới cuộc “hồi sinh của tất cả” trong sự sống vĩnh hằng. Đây là tư tưởng tâm huyết nhất của Soloviev. Nếu Kitô không phục sinh, thì sự tồn tại của loài người và từng con người sẽ mãi mãi là vô nghĩa. Nhưng Kitô đã phục sinh, cho nên cuộc sống của mỗi một con người, của cả loài người và cả vũ trụ trở nên có ý nghĩa.*
Qua cách cảm nhận và kiến giải cuộc đời, nhân cách và sự nghiệp của Kitô nơi Soloviev, ta thấy nhà tư tưởng này nhận thức thế nào vai trò ý nghĩa có thể có của cá nhân con người trong lịch sử thế giới. Trong sách Biện chính cái thiện, Soloviev xuất hiện như là triết gia và thi sĩ thực thụ của cá nhân hay là ngã thể con người. Có thể khẳng định, Ngã Thể là phạm trù giá trị cơ bản thứ tư trong triết học Soloviev, bên cạnh Thượng Đế, sự Bất Tử và Tự Do (đây cũng là lý do chính vì sao Soloviev không chấp nhận đạo Phật, mà ông, mặc dù kính trọng và thừa nhận nhiều chân lý sâu sắc của nó, cuối cùng vẫn gọi nó là “một tôn giáo sai lầm”). “Vương quốc của Chúa Trời” được nói nhiều đến thế trong sách Biện chứng cái _______________
* Đây là điểm bất đồng quan trọng nhất giữa Soloviev và Lev Tolstoi, người rất quý trọng tài năng của nhà triết học trẻ hơn ông 25 tuổi. Tolstoi cũng rất ngưỡng mộ và thường xuyên viện dẫn, nhưng không tin vào sự phục sinh của Kitô. Học thuyết đạo đức-xã hội của Tolstoi dựa trên tư tưởng cam chịu thân phận hữu tử của con người bị Soloviev phê phán thẳng thắn trong tác phẩm cuối đời Ba cuộc đàm luận…
Không ở đâu, sự nhận thức có triệt để hay không về quyền con người thể hiện rõ nét như trong vấn đề về đối xử với những người phạm tội. Các xã hội chưa biết đến quyền con người không coi những phạm nhân là người nên cho phép mình đối xử với họ thế nào cũng được. Soloviev, xuất phát từ quan niệm tôn giáo của mình, xem tất cả các phạm nhân, dù họ có mắc tội đến đâu, đều vẫn là những thành viên của xã hội loài người và đòi hỏi đối xử với họ với tư cách ấy. Nếu lợi ích chân chính của xã hội bao hàm lợi ích của mọi thành viên không trừ một ai, thì nó phải bao hàm lợi ích của cả những phạm nhân. Cho nên Soloviev cương quyết phản đối án tử hình cùng các hình thức tra tấn, hành hạ các tội nhân. Thực tiễn hình sự ở nhiều nước trong thế giới ngày nay đang ngày càng đáp ứng những đòi hỏi ấy, mà một thế kỷ trước đây nhiều người cho là viển vông, không tưởng.
Liên quan mật thiết với vấn đề luật hình sự là vấn đề về thái độ phải có với cái ác và cái vô luân trong xã hội. Soloviev, nhà tư tưởng luôn luôn hướng tới cái thiện tuyệt đối, cả trong vấn đề này cũng tỏ ra vừa rất nhân đạo, vừa có đầu óc hiện thực. Xác định pháp quyền là cái giới hạn thấp nhất hay là mức tối thiểu xác định của đạo đức phải được thực hiện trong đời sống xã hội, tác giả Biện chứng cái thiện hạn chế nghiêm ngặt quyền của nhà nước can thiệp vào lĩnh vực đạo đức, nơi con người có quyền tự do lựa chọn giữa cái hữu luân và cái vô luân, giữa cái ác và cái thiện. Những lập luận của ông thật khó bẻ. “Con người phải có đạo đức một cách tự do, mà để có cái đó, nó phải được dành cho quyền tự do vô đạo đức đến mức nhất định”. Tiếp theo: “Vì lợi ích của tự do, luật pháp cho phép các con người biểu hiện tính độc ác, không can thiệp vào sự lựa chọn tự do của họ giữa thiện và ác; nó chỉ vì lợi ích của phúc lợi chung không cho con người độc ác trở thành ác ôn, nguy
_____________
* Quyền con người chưa được đưa vào đạo đức học của Kant - một triết gia tự do, không ràng buộc mình với một học thuyết tôn giáo nào và là người cùng thời với cuộc cách mạng Pháp. Vấn đề nhân quyền thực chất cũng không được soi sáng và giải quyết trong triết học pháp quyền của Hegel và lại càng vắng mặt trong triết học Schopenhauer.
hiểm cho ngay sự tồn tại của xã hội”. Và đây, vừa một kết luận vừa một lời cảnh báo: “Nhiệm vụ của luật pháp tuyệt không phải ở việc biến cái thế giới ngập ngụa trong độc ác này thành Vương quốc của Chúa Trời, mà chỉ ở việc không để cho nó biến thành địa ngục trước thời hạn” (chương Đạo đức và pháp quyền). Thượng Đế cho phép cái ác tồn tại trong cái thế gian này “như một điều kiện nhất thời của tự do, tức là của cái thiện lớn hơn”. “Cái ác là một thứ gì đó có công vụ của nó, và phủ định nó một cách vô điều kiện sẽ có nghĩa là đối xử với nó không công chính. Cả với cái ác chúng ta cũng phải đối xử tựa như Thượng Đế, tức là không dửng dưng với nó, song đứng trên mâu thuẫn tuyệt đối với nó và để cho nó tồn tại - khi nó không xuất phát từ ta - như một công cụ hoàn thiện thế giới, vì từ đó có thể rút ra cái thiện lớn hơn” (chương Nguyên tắc vô điều kiện của đạo đức). Loài người trong thế kỷ qua đã quá nhiều lần hành động trái ngược với những lời khuyến cáo này, nhưng không phải vì thế mà chúng mất đi tính minh triết ngời sáng của chúng.*
Trong toàn bộ phần Ba của sách Biện chính cái thiện, ta thấy tác giả vừa luôn luôn chú mục cái đích cuối cùng xa xăm mà theo ông lịch sử nhân loại phải đi đến, lại vừa nhất quán giữ thái độ nâng niu trân trọng từng bước tiến, dù nhỏ nhất đã đạt được trên con đường dằng dặc và khúc khuỷu ấy. Chủ nghĩa cực đoan hoàn toàn xa lạ với ông. Cũng xa lạ với ông cả phương pháp tự biện tiên nghiệm. Suy nghĩ về “tổ chức đạo đức nhân loại trong chỉnh thể” (chương cuối cùng), ông bắt đầu bằng việc trở lại xem xét, đánh giá, định hướng phát triển cái tế bào cơ sở của xã hội loài người dưới ánh sáng mục đích cuối cùng. Theo chúng tôi, thật khó định thức ý nghĩa đạo đức - tinh thần và nhiệm vụ của gia đình tốt hơn Soloviev đã làm: gia đình trung thành với sứ mệnh của nó là môi trường mà ở dấy “mỗi người là mục đích của mọi người, ở mỗi người được thừa nhận một cách cảm thấy được cái ý nghĩa tuyệt đối của nó, mỗi người là một cái gì đó không thể thay thế. Xét từ góc độ ấy, gia đình là một tế bào cơ bản, kiểu mẫu và cấu thành của thể huynh đệ toàn thế giới hay là xã hội loài người như nó phải có. Nhưng để giữ được ý nghĩa ấy của mình, gia đình rõ ràng không thể biến thành lãnh địa của chủ nghĩa ích kỷ được thỏa mãn tương hỗ, mà đối với từng thành viên của nó ngay từ đầu phải luôn luôn mở rộng con đường thăng tiến của sự thực hiện, bằng hết sức lực của mình, nguyên tắc đạo đức trong nhân gian. Gia đình hoặc là điểm hoàn tất của chủ nghĩa ích kỷ, hoặc là phôi mầm của sự liên hợp toàn thế giới. Giữ gìn nó theo nghĩa thứ nhất không phải là giữ gìn “kỷ cương đạo đức của xã hội” (chương Tiêu chuẩn đạo đức của xã hội). Chính xác làm sao, đầy đủ làm sao và công bằng làm sao đối với một thiết chế xã hội đã và sẽ còn tồn tại ngàn đời, đối với một giá trị hiện hữu rất to lớn nhưng chỉ là tương đối so với cái ước muốn và cái phải có!
____________________
* Để hiểu tốt hơn Soloviev, cần biết thêm rằng theo học thuyết đạo Kitô, cái ác không có “quy chế” bản thể. Cái ác ra đời từ sự chối bỏ Thượng Đế của các vật tạo vị kỷ. Nhưng nếu biết hối cải thì ngay kẻ thù số 1 của Chúa Trời - qủy Xatăng cũng có thể trở lại với Ngài. Như vậy, theo quan niệm Kitô giáo, có cái thiện tuyệt đối - đó là Thượng Đế và Vương quốc của Ngài, nhưng không có cái ác tuyệt đối. Đây là điểm khác biệt rất quan trọng giữa tôn giáo này với các tôn giáo quan niệm thế giới như là trường đấu tranh giữa hai bản thể đồng đẳng - Thiện và ác (đạo Zoroastre và đạo Mani)
Cũng với thái độ công bằng như thế, vừa trừu mến, vừa tỉnh táo, vừa nâng niu vừa đòi hỏi cao, Soloviev xem xét cái hình thức tập hợp và tổ chức nhân loại thứ hai - dân tộc = quốc gia. Tác giả Biện chính cái thiện xa lạ như nhau cả với chủ nghĩa thế giới lẫn chủ nghĩa dân tộc. Trong tác phẩm này, cũng như ở các trước tác khác của mình, ông cổ xuý cho chủ nghĩa yêu nước chân chính và cương quyết đấu tranh chống chủ nghĩa “ái quốc” hư ngụy, chủ nghĩa ích kỷ dân tộc dưới mọi chiêu bài và biến tướng khác nhau. Ông chứng minh những lợi ích thực thụ, trường cửu của dân tộc này không thể thù địch với lợi ích cũng như thế của dân tộc kia, không một giá trị chân chính của dân tộc nào lại xa lạ về bản chất với các dân tộc khác. ý nghĩa sự tồn tại của các dân tộc là bằng những cống hiến đặc thù của mình làm giàu kho tàng những giá trị chung của nhân loại. Soloviev đề ra một phương châm đạo đức cho các quan hệ quốc tế: hãy yêu tất cả các dân tộc khác như dân tộc mình. Đáng để ý đến một khía cạnh nữa trong lập trường quan điểm của Soloviev về vấn đề dân tộc: dân tộc (nation) trong thể tồn tại hiện thời của nó không vĩnh hằng. Trong quá khứ cổ đại đã có những tổ chức chính trị - văn hoá liên sắc tộc (các “đế chế toàn thế giới” như Babylone, Ba Tư, Hy Lạp thời Alexandre, La Mã) và trong tương lai có thể sẽ xuất hiện những tổ chức liên và siêu quốc gia mà trong đó các quốc gia dân tộc hiện nay sẽ hoà nhập thành những cơ thể chính trị - kinh tế - xã hội thống nhất mà không có sự xoá nhoà tất cả sự phong phú đa dạng về ngôn ngữ - văn hoá. Những dự báo này, được viết trước đây hơn trăm năm, hiện nay đương trở thành hiện thực trong phạm vi nhiều khu vực thế giới cũng như toàn cầu. Dĩ nhiên đối với tác giả Biện chính cái thiện, những hình thức tổ chức toàn nhân loại ấy có ý nghĩa cuối cùng như là những bước trù bị cho sự hiển hiện Vương quốc hoàn vũ của Thượng Đế. Tổ chức quan trọng nhất đóng vai trò hướng đạo tất cả các tổ chức khác - giáo hội thống nhất toàn thế giới - thì vẫn còn là một mơ ước thuần tuý của tác giả (nhưng không phải của một mình ông).
Đối với các nhà đạo đức học thời mới, có lẽ “hòn đá thử vàng” là năng lực nối kết vấn đề đạo đức với vấn đề kinh tế, chỉ ra được cách áp dụng những nguyên tắc đạo đức vào thực tiễn của thế giới ngày nay, nơi mà lợi ích kinh tế trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn chi phối ngày càng ráo riết đời sống loài người và chia rẽ nó thành những thế lực thù địch. Các tôn giáo trong một thời gian rất dài kiên trì im lặng về vấn đề này, viện lẽ là sứ mệnh của họ là chăm lo cho phần hồn chứ không phải phần xác của con người.* Các nhà tư tưởng xã hội duy đạo đức (như Tolstoi ở Nga) thì thường dốc hết tài năng và tâm huyết vào việc tố cáo, lên án quyền lực ma ám của kim tiền, kêu gọi loài người chấm dứt cuộc săn kiếm mù quáng giàu sang phú quý, trở về với cuộc sống vật chất giản dị theo tinh thần lời răn bảo nổi tiếng trong kinh Phúc Âm: “Con người không sống chỉ bằng bánh mì”. Soloviev, con người nổi tiếng khờ dại trong đời sống hàng ngày, tuyệt không biết chăm lo cho những lợi ích vật chất kinh tế của mình, trên những trang sách Biện chứng cái thiện bộc lộ một sự am hiểu đáng phục lĩnh vực kinh tế và sự rất mực _______________
* Văn kiện chính thức đầu tiên của Vatican về vấn đề kinh tế là thông điệp toàn thế giới “Rerum novarum” (Về những sự việc mới) năm 1891 của giáo hoàng Léon XIII.
“Có thể có ba cách quan hệ của con người với tự nhiên bên ngoài: thụ động phục tùng nó trong dạng hiện tồn của nó, sau đó là đấu tranh tích cực với nó, chinh phục nó và sử dụng nó như một công cụ vô hồn, và cuối cùng, khẳng định trạng thái lý tưởng của nó - cái mà nó phải trở thành thông qua con người. Quan hệ thứ nhất là bất công hoàn toàn cả đối với con người lẫn thiên nhiên: đối với con người bởi vì tước đi phẩm chất tinh thần của nó, biến nó thành nô lệ của thiên nhiên; đối với thiên nhiên bởi vì, bái phục nó trong trạng thái không hoàn hảo và bị biến chất hiện nay, con người bằng cách ấy tước đi của nó hy vọng hoàn thiện. Quan hệ thứ hai, phủ định đối với thiên nhiên, phải được thừa nhận là tương đối hợp chuẩn theo nghĩa cái nhất thời và quá độ; bởi vì rõ ràng là để truyền cho thiên nhiên cái trạng thái phải có, trước hết cần có thái độ phủ định đối với nó trong hiện trạng không được có của nó. Nhưng dĩ nhiên chỉ có thể thừa nhận là hợp chuẩn một cách vô điều kiện và tuyệt đối quan hệ thứ ba - quan hệ khẳng định, khi mà con người sử dụng tính ưu việt của mình trước thiên nhiên vì sự thăng hoa không chỉ của mình, mà còn cả của nó nữa. Dễ nhận thấy rằng ba cách quan hệ của con người với giới tự nhiên bên ngoài chỉ là sự lặp lại mở rộng cũng quan hệ ấy với cái tự nhiên vật chất của chính nó. Cả ở đây chúng ta cũng tất yếu phân biệt thái độ lệch chuẩn (thụ động), hợp chuẩn (chủ động - tích cực) và sự chuyển từ cái thứ nhất sang cái thứ hai (chủ động - phủ định): con người xác thịt phục tùng và hiến mình cho cuộc sống vật chất của mình trong trạng thái đọa lạc không được có của nó; nhà khổ hạnh đấu tranh với xác thịt để trấn áp nó; con người chí thiện hoàn hảo, kinh qua cuộc đấu tranh ấy, đạt tới không phải sự huỷ diệt thân xác của mình, mà sự cải hoá, phục sinh và thăng thiên thân xác. Giống như chủ nghĩa khổ hạnh, hay là sự trấn áp xác thịt trong đời sống cá nhân, cũng như thế sự đấu tranh với giới tự nhiên ngoại tại trên trái đất và sự chinh phục nó trong đời sống chung của nhân loại chỉ là bước quá độ thiết yếu, chứ không phải là chuẩn mực cuối cùng của hoạt động con người: hoạt động hợp chuẩn ở dây là bồi dưỡng đất, chăm sóc nó vì sự đổi mới và tái sinh của nó trong tương lai”.
Chỉ từ một đoạn văn vừa dẫn đã hiện ra khá rõ khuôn mặt tinh thần của tác giả của nó: một tư tưởng gia có đức tin tôn giáo tích cực mãnh liệt, tin tưởng sắt đá vào sự tồn tại của cái thiện tuyệt đối và khả năng thực hiện cái thiện ấy bằng sức lực của nhân loại trong sự liên kết với sức mạnh chí thiện siêu nhân loại. Sách Biện chính cái thiện trình bày cặn kẽ triết học đạo đức của Soloviev là một nỗ lực tìm kiếm những con đường tiến tới cái thiện tuyệt đối ấy.
Dễ nhận thấy rằng trong sách Biện chính cái thiện, đề cập sâu đến hầu hết mọi lĩnh vực quan hệ giữa người với người, Soloviev lại hầu như không nói gì về tình yêu nam nữ. Đề tài này, do tầm quan trọng đặc biệt của nó, được ông xem xét trong hai khảo luận riêng, một được viết trước, một viết sau công trình triết học đạo đức của ông. Khảo luận được viết trước là Siêu lý tình yêu (1892-1893) - như đã nói, cho đến nay đây vẫn là tác phẩm trứ danh nhất, được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất của Soloviev. Siêu lý tình yêu tiếp nối một cách trực tiếp và có ý thức một truyền thống triết luận có lịch sử 25 thế kỷ ở châu Âu. Tình yêu - hiện tượng vô cùng to lớn và phức tạp của cuộc sống con người, đề tài nổi trội, thường trực và không thể vắt kiệt của văn học thế giới - ở châu Âu, từ thời Hy-La qua trung đại sang thời mới, liên tục thu hút sự bận tâm quan sát, phân tích, đánh giá, giải thích của nhiều nhà tư tưởng, mà về sáng tác của tất cả họ, Soloviev am tường. Hai tác phẩm trứ danh của Platon đặt nền móng cho triết học tình yêu ở châu Âu: Phèdre và Tiệc rượu được Soloviev không chỉ nhắc đến, mà còn phân tích tận tường trong một chuyên khảo cuối đời về Platon, ở đấy ông sẽ phát triển đến hoàn chỉnh một số ý tưởng hiền minh và tiên tri còn chấm phá hay bị bỏ dở của nhà triết học đại gia Hy Lạp và bác bỏ không thương tiếc những lý thuyết tăm tối phản nhân đạo cũng của vị dại gia này. Trong Siêu lý tình yêu, trình bày học thuyết của mình, Soloviev còn đối thoại, tranh luận với nhiều đại gia khác, có khi không gọi tên họ. Một đối thủ không được gọi tên như thế lại là Lev Tolstoi - con người Nga lừng danh nhất, có uy tín xã hội lớn nhất trong thời đại của ông. Như ta biết, Tolstoi trong những năm 80 thế kỷ XIX đã thực hiện một cuộc cách mạng triệt để trong nhân sinh quan và thế giới quan của mình, cuộc cách mạng ấy đã làm thay đổi hẳn cả những quan niệm của ông về tình yêu nam nữ. Một phần quan trọng dưới ảnh hưởng của Schopenhauer - mà siêu hình học tình yêu của Schopenhauer là một trong những đối tượng phê phán chính trong chuyên luận của Soloviev - tác giả Chiến tranh và Hoà bình, với những nhân vật chính đã khắc sâu vào tâm khảm loài người như là những hiện thân của tình yêu nam nữ cao đẹp, càng về già càng rao giảng cuồng nhiệt chỉ một chủ nghĩa duy đạo đức thuần tuý, phủ định tình yêu hữu tính, nhìn thấy ở đấy một sức mạnh ác quỷ nô dịch loài người (Quỷ dữ là tên mà Tolstoi đặt cho một trong những truyện diễm tình cuối đời của mình), kêu gọi mọi người tự giải thoát khỏi ách nô dịch ấy bằng thấm nhuần những chân lý tôn giáo vĩnh hằng, bằng cuộc sống khổ hạnh và vị tha, lấy tình thương yêu nhân loại đại đồng thay thế cho tình yêu nam nữ cá thể. Quan điểm này được Tolstoi diễn đạt sắc nét hơn cả trong lời bạt cho truyện Bản xônat Kreutzer (1889), lời bạt này đích thị là một triết luận bài bác tình yêu nam nữ, khá hoà điệu với triết học Schopenhauer. Lập luận chính của Schopenhauer được Tolstoi phụ họa: tình yêu như là cảm xúc và cảm hứng cá nhân không có giá trị tự thân, nó chỉ là một ảo giác che đậy ham thích nhục dục, một trò đánh lừa của thiên nhiên (hay là ý chí hoàn vũ, theo thuật ngữ của Schopenhauer) nhằm thực hiện sự tái sản xuất bất tận của giống người, sự bất tận ấy của nòi giống chỉ có thể đạt được bằng sự tồn tại nhất thời, trong khổ đau và trong sự chết, của từng thế hệ và cá nhân. Sự tồn tại như thế là vô nghĩa, cho nên tình yêu cũng vô nghĩa. Schopenhauer, như ta biết, rất tự hào về “chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt” của triết học tình yêu và triết học nhân sinh của ông, nó đã một thời, chính trong thời đại của Soloviev, mê hoặc cả châu Âu bằng sự phơi trần cái bi kịch không thể khắc phục của sinh tồn, bằng tính gần gũi với tư tưởng và cảm hứng của nhiều nền tôn giáo lớn của nhân loại, trước hết là đạo Phật.
Soloviev như ta đã biết, là tín đồ nhiệt thành không phải của đạo Phật, mà đạo Kitô. Nhưng triết học bênh vực và tôn vinh tình yêu của ông có nhiều nét khác biệt học thuyết Kitô giáo chính thống, khiến không ít nhà thần học Kitô giáo phải lên tiếng phản đối. Tư tưởng Kitô giáo truyền thống, chẳng khác Phật giáo hay Khổng giáo, né tránh tình yêu nam nữ tự do như né tránh lửa. Cái mà nó ban phước lành là tình yêu vợ chồng, tình yêu trong hôn nhân hợp pháp, trong sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái. Nhưng Soloviev lại không mấy tôn quý cái tình yêu dưới pháp luật ấy, cái liên minh gia đình trong thực tế thường hoá ra xoàng xĩnh ấy. Cả sự sinh dưỡng con cái, cả tình phụ tử mẫu tử dưới con mắt của Soloviev cũng không có gì thiêng liêng lắm. Những ai hy sinh tất cả vì con cái, tìm thấy ở chúng niềm vui và niềm an ủi lớn nhất của đời mình thật khó đồng tình với nhà hiền triết Nga, khi ông so sánh tình thương yêu con của người mẹ với tình thương con của loài gà. Dĩ nhiên Soloviev không sa vào chủ nghĩa phản nhân đạo, mọi thứ cực đoan phiến diện nói chung xa lạ với ông. Trong sách Biện chính cái thiện, như ta đã thấy, ông đề cao đúng mực vai trò của gia đình, với những chuẩn mực quan hệ, những kỷ cương nền nếp của nó, trong việc bảo đảm sự tồn tại của xã hội loài người. Nhưng đáng để ý là Soloviev cho rằng (và ở điểm này ông không xa rời hiện thực) gia đình như một thiết chế xã hội có thể vận hành tốt mà không cần đến tình yêu say đắm giữa vợ chồng. Nhiệm vụ, sứ mệnh đích thực của tình yêu nam nữ, theo Soloviev, mang tính siêu xã hội và siêu lịch sử. Nó dẫn dắt con người từ thế giới phi lý tưởng sang thế giới lý tưởng hoặc nói đúng hơn, nó cải hoá thế giới này thành thế giới kia. Gắn chặt với quan niệm siêu tại ấy của Soloviev về sứ mệnh tình yêu là một nhận định về thực tại có thể gây sốc cho nhiều độc giả đinh ninh rằng về cái gì khác, chứ về tình yêu thì họ biết quá nó là cái gì, xuất phát từ những trải nghiệm của chính họ: “Tình yêu trong loài người hiện vẫn còn là cái y như trí tuệ trong thế giới động vật - nó mới chỉ tồn tại trong những phôi mầm và tiềm năng của nó, chứ chưa phải trong thực tế”. Câu văn vừa dẫn sẽ mất đi tính gây sốc và sẽ hoá ra có lý, nếu ta chấp nhận hay chia sẻ một phần cái ý tưởng tình yêu mà Soloviev phác họa tập trung trong phần III bài ba của chuyên luận của ông. Nhiệm vụ và mục đích cuối cùng của tình yêu không phải là sự sinh con đẻ cái, bảo đảm sự tồn tại vật chất muôn đời của loài người, cái đó có thể thực hiện ở bên ngoài tình yêu - Soloviev nói đi nói lại, trái ngược với Schopenhauer và những người suy nghĩ cũng như Schopenhauer. Tình yêu chân chính cứu vớt cá thể con người bằng sự chiến thắng đến cùng chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, làm gia tăng bất tận giá trị của cá nhân, khôi phục trong nó hình ảnh của Chúa Trời, phục hồi thể vẹn toàn lý tưởng của con người, trong thực tại nghiệm chứng bị phân chia thành đàn ông và đàn bà, để cuối cùng “từ hai sinh linh hữu hạn và hữu tử tạo ra một cá thể tuyệt đối và bất tử”. Trong triết học tình yêu của mình, Soloviev gắn chặt đạo đức học và nhân cách học với siêu hình học và thần học. Về bản chất, đây là siêu hình học và thần học Kitô giáo, nhưng được bổ sung một số tư tưởng mới, hệ trọng, có cái là sáng tạo riêng của Soloviev - thí dụ tư tưởng thần-nhân-loại, nòng cốt của toàn bộ triết học của ông - có cái được ông tiếp thụ và phát triển từ những học thuyết tôn giáo và triết học khác, phi Kitô giáo - thí dụ, huyền thuyết về con người lưỡng tính (androgyne), như là một nguyên mẫu của loài người; huyền thuyết này có trong nhiều nền văn hoá cổ xưa và được nói đến trong tác phẩm Tiệc rượu của Platon. Đối với chúng ta, điều quan trọng là những thuật ngữ và phạm trù siêu hình học và thần học ấy đều được rót đầy một nội dung và cảm hứng nhân văn chủ nghĩa không xa lạ với tâm thức con người trong thế giới ngày nay.
Trong tình yêu nam nữ, ở mọi xã hội và mọi thời đại, có hai hiện tượng đặc trưng mang tính thuần tuý con người - Soloviev lấy chúng làm căn cứ chính để kiến tạo triết học tình yêu của mình:
1. Tình yêu thường đi đôi với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ, sùng bái người yêu. Người được yêu hiện ra trước người yêu nó trong một ánh sáng đẹp đẽ lạ thường mà những người ngoài không nhìn thấy. Cái “phép lạ” của tình yêu ấy trong cuộc sống thường biến mất nhanh chóng, nhưng từ đó có được kết luận rằng nó chỉ là một ảo giác, một huyễn tưởng chủ quan, như người đời và ngay nhiều nhà hiền triết vẫn nói? Soloviev khẳng định một điều ngược lại: chính cái ánh loé diệu kỳ ấy trong tình yêu vén mở cho ta nhìn thấy chân lý về con người như là hình ảnh của Thượng Đế, như là một sinh linh “dự phần vào bản nguyên thánh thần tối cao và làm môi giới giữa bản nguyên ấy và thế giới”. Từ đấy mà được xác lập một quan niệm cao cả hiếm có về sứ mệnh, cơ đồ của tình yêu: “Trong tình yêu hữu tính được hiểu chân chính và được thực hiện chân chính, bản thể thánh thần nhận được một phương tiện cho sự nhập thân đến cùng, đến đích vào trong đời sống cá thể của con người… Từ đó mà có ánh loé của hạnh phúc siêu phàm, có hơi thở phảng phất của niềm vui sướng không ở nơi đây, chúng đi với tình yêu, ngay tình yêu không hoàn hảo, và chúng biến nó, mặc dù không hoàn hảo, thành một lạc thú lớn nhất của loài người và của cả thần linh”. Tình yêu là bước khởi đầu của công việc “hoá thần”, tức là hoàn thiện triệt để con người và loài người. Nhiệm vụ khó khăn không thể tưởng tượng được nhưng cũng không thể chối bỏ ấy, theo Soloviev truyền ý nghĩa cho toàn bộ tiến trình hoàn vũ và tiến trình lịch sử.
2. Trong tình yêu, chúng ta khẳng định giá tuyệt đối của con người ta yêu và qua đó của cả bản thân ta. Nhưng đã thế thì lại càng không thể dàn hoà với sự biết chắc chắn là người yêu của ta và cả ta sẽ già đi và sẽ chết. Tình yêu bức thiết đòi sự bất tử của con người, không chỉ sự bất tử của linh hồn, mà của cả thể xác. “Một sinh linh không có thân xác không phải là người, mà là thiên thần, nhưng chúng ta yêu con người, yêu cái cá thể toàn vẹn của nó, và nếu tình yêu là bước đầu của quá trình làm sáng và đưa tinh thần vào cái cá thể ấy, thì nó tất yếu đòi bảo toàn cá thể, đòi tuổi xuân vĩnh viễn và sự sống bất tử cho con người ấy, cho cái thần sống đã nhập vào cơ thể thân xác ấy”. Không ở đâu trong sáng tác của Soloviev khát vọng bất tử được thể hiện mãnh liệt như trong tác phẩm này. Nhưng Siêu lý tình yêu cũng chứa đựng những giải thích rất sâu sắc về thân phận hữu tử hiện nay của con người. Sự chết là phản chuẩn đối với con người như một sinh linh tương đồng với Thượng Đế, nhưng nó lại là hệ quả tất yếu, thậm chí đáng mong muốn của cuộc sống bất toàn và trống rỗng của loài người trong thực tại. Hai bài cuối của chuyên luận Siêu lý tình yêu mở rộng phạm vi và nhiệm vụ của tình yêu, đưa nó từ khu vực quan hệ cá nhân sang lĩnh vực quan hệ xã hội và quan hệ giữa loài người với thiên nhiên, với vũ trụ.
Rất đặc trưng cho tư duy Soloviev (và tư duy triết học Nga nói chung) là sự liên kết căng thẳng hai mối bận tâm tha thiết như nhau với hai đối tượng tưởng chừng không thể đặt bên nhau - vận mệnh của cá thể con người và vận mệnh của vũ trụ. Trong Siêu lý tình yêu và trong nhiều tác phẩm khác của mình, Soloviev khẳng định không biết mệt mỏi: con người cá thể, khác với con vật, không phải là tiêu bản nhất thời của chủng loại, nó có giá trị tuyệt đối, vĩnh hằng, do Thượng Đế trao cho nó, và nó quan hệ trực tiếp với Thượng Đế. “Trong loài người, tính cá thể có ý nghĩa độc lập, nó không thể chỉ là công cụ cho những mục đích của tiến trình lịch sử nằm ở ngoài nó. Hay là, nói đúng hơn, mục đích chân chính của tiến trình lịch sử không thuộc loại mục đích để cho cá nhân con người phục vụ nó chỉ như một công cụ thụ động nhất thời”. Khác biệt làm sao với Hegel và rất nhiều nhà tư tưởng khác của hai thế kỷ vừa qua - họ thần thánh hoá tiến bộ lịch sử, đặt những mục tiêu xã hội hữu hạn lên bên trên sự sống và hạnh phúc của hàng triệu, hàng triệu con người, biến những cá thể con người đích thực thành những công cụ câm lặng cho những mục tiêu ấy!
Vladimir Soloviev đề cao tình yêu nam nữ hơn mọi dạng thức tình yêu khác vì nó khẳng định và làm giàu vô tận giá trị của từng cá thể con người và - trong tiềm năng - nó dẫn con người đến sự bất tử. Trong nhiều thiên nhiên kỷ, tư tưởng nhân đạo ở phương Tây cũng như phương Đông tìm niềm an ủi cho thân phận phải chết của từng cá nhân con người ở sự còn lại mãi mãi của loài người, của các thế hệ mai sau. Trước Soloviev 23 thế kỷ, Platon vĩ đại đã giới thuyết rằng “tình yêu - đó là ý chí hướng tới sự bất tử”, nhưng tuân phục quy luật tự nhiên, ông minh định rằng “sự sinh con đẻ cái - đó là cái phần của bất tử và vĩnh hằng dành cho sinh linh hữu tử”. Soloviev, triết gia Kitô giáo thời mới, không bằng lòng với sự bất tử gián tiếp và khả nghi ấy, được mua bằng sự chết của tất cả các cá thể, bằng sự chuyển đổi bất tận của các thế hệ, ông gọi nó là “sự bất tận tồi tệ”. Ông khao khát và tin tưởng có thể có một cuộc sống bất tử khác - của tất cả các sinh linh con người đã, đang và sẽ sống - trong Thượng Đế.
Tình yêu chân chính là bước đầu tiên dẫn đến vương quốc của sự sống vĩnh hằng, tận chân, tận thiện, tận mỹ ấy. Song không thể đoạt được nó chỉ bằng ý chí và nỗ lực của các cá nhân liên kết với nhau trong tình yêu hoàn hảo, hay của cả xã hội loài người, dù nó có đạt trình độ tiến bộ đến đâu đi nữa. “Bầu trời mới và trái đất mới”, với nhân loại chân phúc bất tử, được cải hoá cả về tinh thần lẫn thể xác, chỉ có thể là kết quả của sự gặp gỡ, liên kết giữa hoạt động hướng đích của toàn thể loài người và Thiên ân hay là ý Trời - tiến trình ấy mang cái tên đã quen thuộc với chúng ta - tiến trình Thần-Nhân loại.
Như ta thấy, học thuyết tình yêu, cũng như toàn bộ triết học của Soloviev, chứa đựng không ít yếu tố không tưởng và thần bí. Có điều cái không tưởng ở Soloviev không che giấu bản chất của nó, khác với nhiều thuyết không tưởng đinh ninh vào tính hiện thực của mình, mà loài người trong thế kỷ vừa qua đã phải trả giá quá đắt cho chúng. Cái không tưởng trong triết học tín ngưỡng - tâm linh của Soloviev phản ánh những khát vọng bản thể của con người không được đáp ứng trong cuộc đời phù du đầy tội lỗi và khổ đau này. Còn cái thần bí của Soloviev thì không mâu thuẫn với trí tuệ con người mà dường như giải đáp những thắc mắc của trí tuệ. Đối với những ai mãn nguyện với cuộc sống trần thế, yêu quý sự yên ổn của tâm trí, không bao giờ vật vã với những câu hỏi: con người từ đâu đến và sẽ đi đến đâu? triết học Soloviev là cái xa xỉ không cần thiết. Nhưng nó có thể gợi mở nhiều điều cho những trí tuệ ham tìm kiếm, trước hết tìm kiếm ý nghĩa ẩn kín của sự sống và của tình yêu trong cuộc sống của chúng ta.
Ai ai đọc Siêu lý tình yêu cũng không thể không nhận ra một sự kết hợp khá nghịch lý giữa sự đề cao hết mức tình yêu nam nữ với cảm hứng bảo toàn tiết hạnh trong tình yêu. Trong các triết gia viết về tình yêu, Soloviev là người tách biệt và đối lập quyết liệt hơn cả tình yêu với tình dục. Tình yêu lý tưởng là con đường dẫn đến sự bất tử. Tình dục, lòng ham thích chung đụng xác thịt vĩnh cửu hoá quyền lực của thần chết trong thế gian này. Tính duy tinh thần triệt để, cảm hứng tôn thờ người yêu, loại trừ ra khỏi tình yêu mọi yếu tố nhục cảm, ngự trị trong thơ trữ tình Soloviev. Đối tượng của tình yêu ở đây được nhìn thấy đích thị như là hình ảnh của Thượng Đế, hầu như được đồng nhất với thượng Đế. Một bài thơ tình điển hình của Soloviev mang tiêu đề Con mắt của vĩnh hằng kèm theo đề từ lấy từ Kinh Thánh: ‘Ngươi không được thờ thần nào khác, ngoại trừ ta”:
Cảm hứng tôn thờ người yêu trong thơ tình Soloviev được nuôi dưỡng bằng một cảm hứng - trực giác khác mà ông đã sống trọn đời với nó, đã cố gắng diễn đạt nó trong triết học và thể hiện thành hình tượng tương thích với trải nghiệm thần bí của mình (mà chúng tôi đã nói đến) trong thơ. Đó là trực giác về Nữ tính Vĩnh hằng, nó cũng là Sophia Minh Triết của Chúa Trời - một sinh linh thần thánh tiếp thụ những ý đồ sáng tạo của Đấng Tối Cao và nhập thể chúng vào thực tại của thế giới này, làm nên tất cả những gì là chân chính, cao quý, đẹp đẽ ở trong nó. Nữ tính Vĩnh hằng ấy, trong diễn ngôn triết học của Soloviev được gọi là “tha thể” của Thượng Đế, trong thơ ông hiện ra như một nữ thần của cái đẹp mới - cái đẹp bất tử, thanh sạch tuyệt đối và vì thế chiến thắng sự chết và sự phân rữa.
Những thi phẩm như thế, tiên báo một kỷ nguyên vũ trụ mới, một vương quốc của cái đẹp vĩnh hằng đương đến, trong bầu không khí tinh thần đầy những mong đợi thần bí của xã hội Nga cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã tác động mãnh liệt đến một loạt nhà thơ Nga trẻ, cổ vũ sự ra đời cả một dòng thơ lãng mạn mới, mà tên thông dụng của nó là chủ nghĩa tượng trưng Nga. Quan hệ giữa Soloviev với dòng thơ còn đang chớm nở này khá phức tạp do những khác biệt về thế giới quan mà ở đây chúng tôi không thể đi sâu vào. Song có một sự thật là tất cả các thủ lĩnh của dòng thơ tượng trưng chủ nghĩa Nga - Briusov, Blok, Belyi, Viacheslav Ivanov đều suy tôn Soloviev là người thầy tinh thần và người mở đường cho họ.
Trở về với chuyên luận Siêu lý tình yêu, ta nhớ tác giả kết thúc nó bằng lời hứa sẽ còn trở lại với đề tài này. Và ông đã giữ lời hứa. Trong chuyên khảo Bi kịch cuộc đời Platon (1898) Soloviev minh định và phát triển, diễn đạt thành những định thức cô đúc cái học thuyết về tình yêu được ấp ủ lâu năm của mình. Theo dõi đường đời của đại gia triết học Hy Lạp, Soloviev xác định cái điểm ngoặt trung tâm của nó, khi mà Platon đi đến ý tưởng minh triết về tình yêu như là ý chí hướng tới cái đẹp và khát vọng tạo tác cái đẹp và thể hiện ý tưởng ấy trong hai kiệt tác của mình - Tiệc rượu và Phèdre. Nhưng theo Soloviev, Platon đã dừng lại ở nửa đường trong nhận thức về bản chất và sứ mệnh của tình yêu, không chỉ ra được nhiệm vụ chân chính của nó - “truyền sự sống vĩnh cửu thật sự cho cái mình yêu, giải phóng nó khỏi sự chết và sự phân rữa, tái sinh nó vĩnh viễn trong cái đẹp”. Soloviev xác định năm con đường chính của loài người trong tình yêu. Đường thứ nhất là đường của quỷ dữ (những đọa lạc tình dục) mà triết gia của chúng ta thấy không cần bàn đến. Đường thứ hai là con đường thú tính, tức là thỏa mãn không giới hạn và không lựa chọn những nhu cầu tính dục của mình. Đường thứ ba là đường nhân tính, hay là tình yêu trong hôn nhân và sinh dưỡng con cái. Bình luận về con đường “thiết yếu, đáng kính trọng và được ban phước lành” này, Soloviev viết: “Nếu như con người về bản chất chỉ có thể là người, nếu như cái gọi là “sự hữu hạn của con người” không chỉ là thực tại nghiệm chứng, mà là quy luật bất biến và vĩnh viễn (…) thế thì hôn nhân sẽ là con đường cao nhất trong tình yêu và phù hợp duy nhất với phẩm giá con người. Nhưng con người về bản chất khác các vật tạo khác của Chúa chính ở chỗ nó muốn và có thể trở nên cao lớn hơn bản thân, dấu hiệu phân biệt của nó chính là tính không ổn định quý phái ấy, là khả năng và ý vọng tăng trưởng và vươn lên cao vô tận”. Cho nên bên cạnh con đường nhân tính phổ biến còn có con đường khổ hạnh vì Chúa mà Soloviev gọi là con đường thiên thần tính. Nhưng theo quan niệm Kitô giáo, thiên thần không phải là vật tạo cao nhất của Chúa, nó thấp hơn con người về bản chất và sứ mệnh. Cho nên, bên trên con đường thiên thần tính còn có con đường thứ năm, cao nhất - con đường thần-nhân tính. Đó là sự liên kết hoàn hảo bản nguyên nam với bản nguyên nữ để hợp thành con người lưỡng tính chân chính, khắc phục sự phân ly đối lập giữa tinh thần và thể xác để tạo nên thể thống nhất tinh thần-thân xác bất tử. Cái đó không thể đạt được chỉ bằng ý chí và nỗ lực của những con người. “Rõ ràng, con người chỉ có thể trở thành thánh thần bằng sức mạnh hiện thực của Thượng Đế thường tồn vĩnh hằng, và con đường của tình yêu siêu đẳng liên kết hoàn hảo cái nam tính với cái nữ tính, cái tinh thần với cái thể xác, ngay từ đầu đã là sự liên kết cái của thần thánh với cái của con người, hay là tiến trình thần-nhân loại”.
Như vậy, tình yêu chân chính cũng như đạo đức chân chính của con người đều phục vụ cơ đồ cải hoá hay là tái sinh loài người khổ đau và hữu tử thành thần-nhân loại chân phúc và bất tử. Toàn bộ triết học Soloviev hướng về cái đích mong ước ấy.
Soloviev, như ta biết, suốt đời ao ước và chuẩn bị viết một công trình lớn, có tính hệ thống về mỹ học, nhưng cái chết quá sớm đã không cho ông thực hiện hoài bão ấy, và điều này thật đáng tiếc cho mỹ học, bởi vì trong các nhà triết học châu Âu quan tâm đến lĩnh vực này xem ra Soloviev có nhiều điều kiện chủ quan hơn cả để sáng tạo nên một hệ thống mỹ học vừa có đầy đủ tính khoa học nghiêm túc, tính triết lý thâm thúy lại vừa thấm đượm chất đẹp, chất thơ - chất đẹp, chất thơ ấy, như ta đã thấy, toát ra từ toàn bộ tư duy Soloviev và được người đọc cảm nhận đặc biệt rõ trong những bài viết về mỹ học mà ông đã để lại, tạo nên nét khác biệt đập vào mắt so với những công trình mỹ học của những đại gia như Kant, Schelling, Hegel - những bộ óc lớn ấy thẩm thấu cái đẹp chủ yếu từ bên ngoài, chứ không sống bên trong nó, như nhà triết học - nhà thơ Soloviev. Evgeni Trubetskoi (1865-1920), tác giả một công trình nghiên cứu rất cơ bản về thế giới quan của Soloviev, có cơ sở để khẳng định: “Trong mỹ học chúng ta có một phần tử thường hằng nhất, ít thay đổi nhất của triết học Soloviev (…) Mặc dù số phận đã không cho ông triển khai mỹ học của mình thành một hệ thống hoàn chỉnh, mặc dù những quan điểm mỹ học của ông được trình bày dưới hình thức những khảo luận và những phác thảo còn rời rạc, nhưng chính ở đây cảm hứng sáng tạo của triết gia - thi sĩ này đã tung ra những viên ngọc kỳ diệu nhất. Trong mỹ học là chủ yếu chúng ta có những sản phẩm bất hủ của thiên tài Soloviev”. Do tính thống nhất sâu sắc của tư tưởng Soloviev, tìm hiểu những cơ sở mỹ học của ông, chúng ta cũng sẽ nhận biết được sâu hơn toàn bộ học thuyết triết học của ông.
Những suy nghĩ triết luận về cái đẹp xuất hiện sớm trong sáng tác Soloviev trong ngữ cảnh những tìm tòi căng thẳng một cơ sở chung cho hệ thống triết học của mình. Cái đẹp hiện diện ngay từ đầu trong bức tranh triết học về thế giới còn đương hình thành nơi Soloviev và ở lại mãi mãi trong đó như một yếu tố tối quan trọng. Theo xác tín bất di bất dịch của Soloviev, cái đẹp tuyệt không phải là cảm tưởng và ý niệm thuần tuý chủ quan của con người, mà tồn tại khách quan trong thế giới, hơn thế nữa là một thuộc tính cơ bản của bản thể thế giới. Về điểm này, Soloviev rất khác với Kant, người xuất phát từ thuyết bất khả tri về bản chất thế giới đã tự giới hạn mỹ học của mình bằng xác định những tiền đề tiên nghiệm chủ quan cho sự tri giác và lý giải cái đẹp mà không đặt ra câu hỏi ý niệm về cái đẹp ở chủ thể con người có ứng với một cái gì trong thế giới khách quan hay không. “Cái đẹp là cái hợp đích vô đích”, “khoái cảm thẩm mỹ là khoái cảm phi vị lợi”- những giới thuyết rất thông minh ấy của Kant, giải phóng mỹ học khỏi chủ nghĩa duy lợi và chủ nghĩa duy đạo đức hẹp hòi, được Soloviev hoàn toàn tán đồng, có điều ông xem chúng là “mang tính phủ định thuần tuý”, là không đủ, thiếu cái quan trọng nhất. Bởi vì, Soloviev suy luận, nếu cái đẹp không là phương tiện phục vụ cho bất cứ một cái gì ở bên ngoài nó, thì có nghĩa là nó, trong tồn tại tự thân của mình, là mục đích của tất cả, là trạng thái lý tưởng mà thế giới phải đi tới. Quan niệm về cái đẹp của Soloviev về thực chất cũng khác quan niệm của Hegel. Định thức của Soloviev: “Cái đẹp là hiện thân của ý tưởng” bề ngoài rất giống định thức nổi tiếng của Hegel: “Cái đẹp là sự hiển lộ cảm tính của ý tưởng”. Song, như Soloviev giải thích, “theo mỹ học Hegel, cái đẹp là hiện thân của ý tưởng phổ quát và vĩnh hằng trong những hiện tượng cục bộ và nhất thời, mà những hiện tượng ấy sẽ mãi mãi là nhất thời, sẽ mất đi như thể những làn sóng riêng lẻ trong dòng chảy của quá trình vật chất, chỉ trong khoảnh khắc phản chiếu ánh sáng chói lọi của ý tưởng”. Còn Soloviev thì quan niệm cái đẹp thực thụ là kết quả của sự nhập thân của ý tưởng = lý tưởng vào hiện tượng vật chất để cải hoá nó và ở lại mãi mãi trong nó, tạo thành thể thống nhất tinh thần-vật chất trường cửu. Có một khía cạnh nữa trong mỹ học Hegel mà Soloviev phê phán, đồng tình với nhà triết học duy vật chủ nghĩa Nga Chernyshevski - đó là sự coi nhẹ vị trí, giá trị của cái đẹp so với cái chân. Theo “hiện tượng luận tinh thần” của Hegel, cái đẹp chỉ là “bóng ma”, là “ảo ảnh” phát sinh từ cái nhìn không tinh tường, thiếu ánh sáng tư duy triết học; tư duy ấy càng phát triển, thì cái đẹp càng tan biến trước nó và cuối cùng, đối với tư duy triết học được phát triển chu toàn thì chỉ còn lại cái chân, chứ không có cái đẹp nữa. Trong khi ấy thì dưới con mắt Soloviev, không một tự nhận thức mỹ mãn nào của chủ thể triết học có thể thay thế được thế giới hiện thực thiên hình vạn trạng mà trong đó cái đẹp chân chính, tức là ý tưởng, đã nhập thân, ngự trị.
Trong những trước tác thời trẻ của mình (Những nguyên lý triết học của tri thức toàn vẹn, Phê phán những nguyên lý trừu tượng) Soloviev hơn một lần thử đưa ra những giới thuyết về cái mà ông gọi là ý Tưởng, trong quan hệ với cái Đẹp, cái Thiện và cái Chân mà ông luôn luôn quan niệm là những bình diện liên quan khăng khít của cái ý Tưởng = Lý Tưởng ấy. Trong hai bài viết cơ bản về mỹ học - Cái đẹp trong thiên nhiên (1889) và ý nghĩa chung về nghệ thuật (1890) ông trở lại với những giới thuyết ấy, minh định, mở rộng và khơi sâu, phát triển thành những luận điểm cơ bản của học thuyết triết học chung của mình về thế giới, mà trong đó mỹ học là một bộ phận hữu cơ. “Cái đẹp với tư cách hiện thân của ý tưởng là cái nửa thứ hai tốt đẹp hơn của thế giới chúng ta, chính là cái nửa mà không chỉ tồn tại, nhưng còn xứng đáng được tồn tại. Nói chung chúng tôi gọi ý tưởng là cái mà tự thân nó xứng đáng có. Nói một cách vô điều kiện, cái xứng đáng có chỉ có thể là một sinh linh hoàn hảo một cách viên mãn hay là tuyệt đối, tự do hoàn toàn khỏi mọi hạn chế và khuyết điểm. Những sinh tồn cục bộ hay hữu hạn, tự thân không có được cái tồn tại xứng đáng hay là lý tưởng, trở nên liên can với nó thông qua quan hệ với cái tuyệt đối trong quá trình hoàn vũ, quá trình này chính là sự thể hiện từng bước ý tưởng về cái tồn tại xứng đáng ấy. Cái tồn tại cục bộ là lý tưởng hay xứng đáng chỉ chừng nào nó không phủ định cái toàn thể, mà dành chỗ bên trong mình cho cái toàn thể; và cũng đúng như thế, cái toàn thể là lý tưởng và xứng đáng chừng nào nó biết dành chỗ bên trong mình cho cái cục bộ. Từ đấy, dễ rút ra một định nghĩa hình thức về ý tưởng hay là kiểu tồn tại xứng đáng. Nó là sự tự do hoàn toàn của các bộ phận cấu thành trong sự thống nhất hoàn hảo của chỉnh thể (…) Được xem xét chủ yếu từ phía tính vô điều kiện nội tại của nó với tư cách cái được mong muốn hay là được ưa chuộng tuyệt đối, ý tưởng là cái thiện, từ phía chỉnh thể viên mãn của những dịnh tính cục bộ mà nó bao hàm, với tư cách toàn bộ nội dung có thể được trí tuệ nhận thức, ý tưởng là cái chân; cuối cùng, từ phía sự hiện thân hoàn hảo hay là hoàn chỉnh, với tư cách cái hữu thực được cảm hội trong tồn tại cảm tính của nó, ý tưởng là cái đẹp” (bài Cái đẹp trong thiên nhiên). “Sự khác biệt giữa tồn tại lý tưởng, tức là tồn tại xứng đáng, phải có, với tồn tại không xứng đáng, không được có nói chung phụ thuộc vào quan hệ thế này hay thế khác của những thành tố cục bộ của thế giới với nhau và với cái chỉnh thể. Khi mà, thứ nhất, các thành tố cục bộ không loại trừ nhau, mà ngược lại, tìm thấy mình trong nhau, kết đoàn với nhau; khi mà, thứ hai, chúng không loại trừ cái chỉnh thể mà khẳng định sự tồn tại cục bộ của mình trên một cơ sở thống nhất phổ biến; và cuối cùng thứ ba, khi mà cái cơ sở thống nhất của tất cả ấy, hay là cái bản thể tuyệt đối ấy không đè nén và không hút thu những phần tử cục bộ, mà tự biểu hiện qua chúng, cho chúng được hoàn toàn tự do khoáng đạt ở bên trong mình, thì cái tồn tại như thế là tồn tại lý tưởng hay là xứng đáng - là cái phải có. Và cái tồn tại ấy tự nó có, nhưng đối với chúng ta nó không hiện ra như một thực tại nhiệm chứng, mà như một lý tưởng có thể được thực hiện và đang được thực hiện một phần. Lý tưởng ấy, hiểu theo nghĩa ấy, trở thành mục đích cuối cùng và tiêu chuẩn tuyệt đối của những hoạt động sống của chúng ta: ý chí ta hướng về nó như là lợi ích tối cao của mình; nó ấn định tư duy của chúng ta, với tư cách chân lý tuyệt đối; và cũng nó một phần được cảm nhận, một phần được đoán biết bởi giác quan và trí tưởng tượng của chúng ta như là cái đẹp (…) Cái tồn tại lý tưởng, hay là xứng đáng đòi hỏi một sự tự do như nhau cho cả cái chỉnh thể lẫn cái cục bộ, vì thế đây không phải là sự tự do khỏi những đặc điểm, mà là tự do khỏi tính độc nhất của chúng. Để có được đầy đủ cái tự do ấy, các phần tử cục bộ phải tìm thấy mình trong nhau và trong chỉnh thể, mỗi cái nhận ra mình trong cái khác và nhận ra cái khác trong mình, cảm thấy trong phần riêng của mình tính nhất thống của chỉnh thể và trong chỉnh thể cái phần của mình - tóm lại, sự đoàn tụ tuyệt đối của toàn bộ cái hiện hữu, Thượng Đế là tất cả trong tất cả” (bài ý nghĩa chung của nghệ thuật).
Dễ nhận ra rằng cái tồn tại xứng đáng tuyệt đối, được giới thuyết với một cảm hứng triết - mỹ rất cao ở đây, không phải là cái gì khác, mà là cái mà trong ngôn ngữ tôn giáo gọi là Vương quốc của Chúa Trời. Nếu các nhà thần học thường nói về nó như là vương quốc của cái Chân và cái Thiện tuyệt đối, thì trong quan niệm của triết gia - thi sĩ Soloviev đây cũng nhất thiết là vương quốc của cái Đẹp tuyệt đối. “Cái đẹp và sự hài hoà là yếu tố tất yếu và cơ bản của Thần tính”- Soloviev khẳng định và xuất phát từ nhận thức ấy, ông đánh giá rất cao tinh thần ngưỡng mộ cái đẹp, thể hiện trong tôn giáo, triết học và nghệ thuật Hy Lạp, coi đó là sự mặc khải một chân lý tối quan trọng về thánh thần. Theo xác tín của Soloviev, giữa cái đẹp thần thánh với cái đẹp tự nhiên và cái đẹp do con người sáng tạo nên có quan hệ sâu kín mật thiết, và mỹ học Soloviev đề ra cho mình nhiệm vụ xác định những mối quan hệ ấy, tìm ra cội nguồn, khám phá những quy luật tồn tại và ức đoán tiền đồ của cái đẹp trong thế giới của chúng ta. Nếu Kant trong mỹ học chủ quan của mình không đặt vấn đề về bản thể luận của cái đẹp cho nên cũng không khảo cứu chuyên sâu cái đẹp trong giới tự nhiên và trong nghệ thuật, nếu Hegel trong mỹ học duy trí của mình không coi cái đẹp tự nhiên, nặng yếu tố vật chất, là cái đẹp thực thụ, xứng đáng được xem xét, cho nên chỉ tập trung khảo sát, kiến giải cái đẹp trong nghệ thuật, thì Soloviev, hiểu nhiệm vụ của mỹ học rộng hơn rất nhiều, bắt đầu công việc bằng việc xem xét cái đẹp trong thiên nhiên, lấy triết - mỹ học tự nhiên làm cơ sở khởi phát để xây dựng triết học nghệ thuật.
Nhiệm vụ nằm trên bề nổi của thiên khảo luận Cái đẹp trong thiên nhiên là bác bỏ quan điểm chủ quan chủ nghĩa trong mỹ học, chứng minh sự tồn tại khách quan của cái đẹp trong vũ trụ, trước khi có con người và ý thức con người. Nhiệm vụ ấy đã được Soloviev giải quyết mỹ mãn bằng một loạt dẫn chứng giàu sức thuyết phục lấy từ đời sống thiên nhiên, đặc biệt đời sống các động vật. Cái đẹp là một giá trị khách quan trong giới tự nhiên, bản thân thiên nhiên không dửng dưng với vẻ đẹp của những sản phẩm của nó - những kết luận ấy của Soloviev là không thể bắt bẻ. Cái đã và chắc sẽ còn gây tranh luận lâu dài là quan điểm siêu tự nhiên của Soloviev về nguồn gốc phát sinh và bản chất của cái đẹp. Cái đẹp, theo Soloviev, là kết quả của sự cải hoá vật chất bằng sự nhập thân vào nó một yếu tố khác siêu vật chất. Có nghĩa là vật chất tự nó không đẹp và không thể đẹp. Thế giới vật chất nguyên thủy (chúng ta nhớ lại vũ trụ luận của Soloviev) là tập hợp hỗn mang của những nguyên tử phân tán, biệt lập, không thẩm thấu mà hất đẩy lẫn nhau (thù địch nhau). Cái tập hợp hỗn mang ấy mang tính phi thẩm mỹ. Trí tuệ hoàn vũ (trong những bài viết mỹ học, Soloviev ít sử dụng những thuật ngữ tôn giáo thông dụng), đấu tranh với cái hỗn mang, tập hợp và tổ chức vật chất dưới những hình thức ngày một cao hơn - từ thế giới vô cơ lên thế giới thực vật, động vật, rồi cuối cùng thế giới con người. Quá trình tiến hoá ấy của thế giới cũng là quá trình tạo tác cái đẹp dưới những dạng thức ngày một linh hoạt hơn, phong phú nội dung hơn. Yếu tố “siêu vật chất” cơ bản tương tác với các vật thể tạo nên cái đẹp là ánh sáng (trong các học thuyết triết học tự nhiên cổ truyền, ánh sáng vô trọng lượng được xem là một thực thể phi vật chất, hoặc một vật chất đặc biệt, “mang tinh thần” - Soloviev và nhiều triết gia cùng thời với ông trung thành với quan niệm ấy). ánh sáng, khúc xạ bên trong và phản chiếu từ các cạnh của viên kim cương, tạo nên vẻ đẹp lung linh sắc màu của nó. Kim cương, theo định nghĩa của Soloviev, là “hòn than bừng sáng và cầu vồng hoá thạch”. Cũng sự kết hợp ánh sáng với vật chất ấy làm nên thiên hình vạn trạng những biểu hiện của cái đẹp trong thiên nhiên: bầu trời sao, bầu trời trong ngày có nắng, những áng mây ngũ sắc, biển xanh phản chiếu ánh sáng mặt trời, các kim loại và đá quý, v. v… Nhưng trong thế giới vô cơ sự nhập thân của tinh thần vào vật chất còn hời hợt: ánh sáng mới chỉ phản chiếu khỏi các vật thể, chứ chưa thẩm thấu và cải biến chúng. Trong thế giới thực vật và động vật thì, ngược lại, bản nguyên tạo tác vũ trụ - Logos (trí tuệ của Thượng Đế) làm bừng sáng sự sống bên trong vật chất, tạo nên những hình thái ngày một phức hợp và linh hoạt. Cỏ cây là sự nhập thể hiện thực đầu tiên của bản nguyên Trời tươi sáng và linh hoạt vào bản nguyên đất tăm tối và trơ ỳ - đó là “đất được cải hoá một cách thầm lặng và cũng thầm lặng nhấc mình lên về phía trời”. Trong thế giới động vật ta có một bậc phát triển cao hơn ý tưởng sự sống, nhưng đồng thời cũng ở đây cái hỗn mang - cơ sở của thế giới vật chất - chống đối cuồng liệt hơn ý chí tạo tác thế giới trong cái đẹp của Đấng Tối Cao, và sự chống đối ấy thể hiện ở sự tồn tại những sinh thể xấu xí, dị quái. Soloviev - nhà mỹ học đưa ra một nhận định tinh tường và có sức khái quát lớn: cái xấu xí, cái dị quái chưa có trong thế giới tự nhiên vô cơ, nó chỉ xuất hiện cùng với sự sống và sự sống càng phát triển cao hơn, đạt tới những hình thức thẩm mỹ hoàn hảo hơn thì cái dị quái, cái phản thẩm mỹ cũng càng tự biểu lộ rõ rệt hơn, quyết liệt hơn. “ở đâu mà ánh sáng và sự sống đã chiếm lĩnh vật chất, ở đâu mà ý nghĩa hoàn vũ đã khai lộ tính viên mãn nội tại của mình thì ở đấy những biểu hiện không kiềm chế của yếu tố hỗn mang, một lần nữa lại phá vỡ hoặc lấn át hình thức lý tưởng, dĩ nhiên phải gây ấn tượng gay gắt về cái xấu xí, cái dị quái (…) Trong vương quốc động vật ta đã bắt gặp những thí dụ có quy mô lớn của cái xấu thực thụ”. ở đây, có cả những lớp động vật chỉ là hiện thân trần trụi cho những bản năng vật chất-nhục thể - sinh dục hoặc dinh dưỡng (con giun hoặc con sâu). Ưu thế tuyệt đối của yếu tố vật chất ở những sinh vật ấy và nhiều sinh vật khác nữa, theo Soloviev, là nguyên nhân xấu xí gây tởm ở chúng. (Những trang phô diễn “mỹ học về cái xấu” của con giun thuộc số những trang viết tài tình nhất của Soloviev). Nhưng nhà “nghệ sĩ hoàn vũ”, khắc phục sự chống đối của bản nguyên vật chất, tạo ra những động vật cấp cao mà ở chúng những cơ quan sinh dục và dinh dưỡng được giấu kín vào bên trong cơ thể, được bao bọc bằng những lớp lông mao, lông vũ, lông da, vẩy đẹp đẽ. Viện dẫn những quan sát của Darwin, chứng minh các động vật nhạy cảm với vẻ đẹp của mình và thậm chí đối với một số loài vẻ đẹp ấy quý giá hơn sự sống của chính chúng, Soloviev đi đến kết luận: cái đẹp có ý nghĩa bản thể, nó không phải là nét thứ yếu hay ngẫu nhiên của giới tự nhiên, mà là cái phần cao quý, cái thành quả sáng giá nhất mà nó đã giành được trong quá trình tiến hoá rất dài lâu, phức tạp và đầy kịch tính của mình.
“Trí tuệ hoàn vũ, trong sự đương đầu rõ ràng với cái hỗn mang nguyên thủy và trong sự thỏa thuận ngấm ngầm với linh hồn vũ trụ hay là thiên nhiên bị xâu xé bởi cái hỗn mang ấy, nhưng ngày càng ngả theo những ám thị tinh thần của bản nguyên sáng tạo, - trí tuệ hoàn vũ đã tạo lập trong và thông qua tự nhiên cái thân thể phức tạp và huy hoàng của vũ trụ chúng ta” - Soloviev viết, kết thúc bài Cái đẹp trong thiên nhiên. Và ngay sau đó ông viết bài ý nghĩa chung của nghệ thuật, phát triển và áp dụng vào nghệ thuật những tư tưởng mỹ học cơ bản đã trình bày trong bài trước. Tranh luận với nhiều nhà lý luận (trong đó có cả Schelling, triết gia gần gũi với Soloviev hơn cả), cho rằng nhiệm vụ của nghệ thuật là phản ánh, tái tạo cái đẹp tự nhiên, Soloviev viết: “Quan hệ thẩm mỹ giữa nghệ thuật và giới tự nhiên sâu xa hơn và hệ trọng hơn nhiều. Rõ ràng đây không phải là sự lặp lại, mà là sự tiếp tục cái sự nghiệp nghệ thuật đã được thiên nhiên khởi thủy - sự thực hiện nối tiếp và đầy đủ hơn cũng cái nhiệm vụ thẩm mỹ ấy”. Lường thấy trước những ý kiến phản bác quan điểm của ông, những ý kiến phổ biến cho rằng nhiệm vụ của loài người là thực hiện cái thiện và cái chân, bảo đảm sự toàn thắng của trí tuệ và lương tri trong đời sống của mình, chứ không phải giải quyết một nhiệm vụ nghệ thuật nào đó gắn nối với giới tự nhiên, Soloviev viết: cái thiện trong loài người sẽ là không chu toàn, và thắng lợi của nó sẽ là mong manh, nếu nó không được triển khai sang cả thế giới tự nhiên, “Sự xa lạ tuyệt đối của yếu tố đạo đức đối với tồn tại vật chất là nguy hại rõ ràng không phải cho cái tồn tại ấy, mà cho chính yếu tố đạo đức. Chính sự tồn tại của trật tự đạo đức trong thế giới đòi hỏi một quan hệ nào đó với trật tự vật chất, một kiểu phối hợp nào đó giữa hai trật tự ấy (…) Nếu trật tự đạo đức, vì sự bền vững của mình, phải dựa vào cái tự nhiên vật chất như là môi trường và phương tiện tồn tại của mình, thì vì sự đầy đủ và hoàn hảo của mình, nó phải thu nạp vào trong nó cái cơ sở vật chất của sinh tồn như thể một bộ phận độc lập của hoạt động đạo đức, hoạt động này giờ đây đã biến thành hoạt động thẩm mỹ, bởi vì tồn tại vật chất chỉ có thể được đưa vào trật tự đạo đức thông qua sự làm cho bừng sáng, làm cho chứa chan tinh thần, tức là chỉ dưới hình thức của cái đẹp”. Như vậy, bản thân cái thiện cần đến cái đẹp. Nhưng người ta có thể hỏi công dụng của nghệ thuật là ở đâu? “Chẳng phải không có chúng ta thì cái việc làm - sáng - toàn - thế - giới ấy vẫn cứ đã hoàn thành xong xuôi? Cái đẹp tự nhiên đã trải lên toàn thế giới tấm vải phủ của mình, cái hỗn mang dị quái cựa quậy một cách bất lực dưới hình hài cân đối của vũ trụ và không thể vứt bỏ nó khỏi mình cả trong cõi bao la vô tận của các thiên thể lẫn trong vòng chật hẹp của các vật sống trên trái đất này”.
Không, Soloviev trả lời, trong giới tự nhiên những sức mạnh tăm tối mới chỉ được chinh phục, chứ chưa được thuyết phục bởi ý nghĩa hoàn vũ, bản thân sự chinh phục ấy còn là bề ngoài và chưa đầy đủ. Vẻ đẹp của thiên mới là tấm vải phủ choàng lên trên sự sống ác độc, chứ chưa phải là sự cải thể hoá hình sự sống ấy. Chính vì thế mà con người phải tác động sâu sắc hơn và đầy đủ hơn đến giới tự nhiên. Nếu trong thế giới vô cơ, yếu tố phản diện mới thể hiện như là sức nặng và sự trơ ì, thì trong thế giới hữu cơ nó đã tự biểu hiện như là sự chết và sự phân rữa, còn ở con người thì yếu tố phản diện ấy, ngoài sự biểu hiện phức tạp hơn và mạnh mẽ hơn từ phía vật chất, còn thể hiện cái bản chất sâu xa vô cùng của nó như là cái ác tinh thần. “Nhưng cũng ở đây, Soloviev nói tiếp, ta thấy có khả năng chiến thắng nó hoàn toàn và thể hiện sự chiến thắng ấy bằng cái đẹp bất hủ và vĩnh cửu”. Để có được cái đẹp như thế, cần phải có một sự tương tác sâu sắc nhất và mật thiết nhất giữa cuộc sống bên trong hay là tinh thần và cuộc sống bên ngoài hay là vật chất. Đây là yêu cầu cơ bản và nội tại của cái thẩm mỹ. Tinh thần trừu tượng, không có khả năng nhập thân vào vật chất và vật chất vô hồn không có khả năng hấp thụ tinh thần - cả hai đều không ứng hợp với kiểu tồn tại lý tưởng hay là xứng đáng và cả hai đều mang trên mình dấu chỉ rành rành về tính không xứng đáng ấy: cả hai đều không đẹp và không thể đẹp. Vì vậy, để có cái đẹp đầy đủ cần có sự vật chất hoá trực tiếp bản chất tinh thần và sự tinh thần hoá triệt để hiện tượng vật chất. Song một khi hiện tượng vật chất đã thực sự trở nên đẹp, tức là đã thực sự trở thành hiện thân của ý tưởng = Lý tưởng, thì nó cũng phải trở nên trường tồn và bất tử như chính ý tưởng = Lý tưởng.
Trở lại với những hiện tượng đẹp của thế giới tự nhiên, Soloviev viết tiếp, ta thấy rằng chúng còn xa mới thực hiện được đầy đủ những điều kiện của cái đẹp hoàn hảo. Trong cái đẹp tự nhiên, ứng với sự vật chất hoá yếu tố lý tưởng mới ở bề ngoài là sự hấp thụ tinh thần cũng hời hợt như thế nơi vật chất, từ đó mà dễ có mâu thuẫn thấy được giữa hình thức và nội dung: chẳng hạn, một con ác thú điển hình có thể có ngoại hình rất đẹp. Chính vì thế mà mọi biểu hiện cá thể của cái đẹp trong tự nhiên đều mang tính ngẫu nhiên và mỏng manh, thường được xem như là một quy luật định mệnh không thể tránh khỏi. Nếu thiên nhiên không thể tạo ra được cái đẹp hoàn hảo, bất tử, thì không phải ngẫu nhiên mà nó bằng những công lao và nỗ lực vĩ đại đã vươn tới sự sống hữu thức và hữu trí. “Nhiệm vụ không thể thi hành bằng những phương tiện của cuộc sống vật chất, phải được thi hành bằng những phương tiện của cuộc sống sáng tạo của con người”.
Như vậy, theo Soloviev, nghệ thuật chân chính bằng những hình tượng cảm tính dự liệu hay là báo trước cái trạmg thái lý tưởng của thế giới, trạng thái ấy là đích cuối cùng của toàn bộ tiến trình vũ trụ và tiến trình lịch sử loài người. Trường cửu hoá bằng những tác phẩm của mình những hiện tượng và vật thể của cuộc sống nhất thời, nghệ thuật dự liệu sự bất tử của con người và vạn vật trong vương quốc của Thượng Đế. Nghệ thuật là tiếng nói trực tiếp của vĩnh cửu trong thế gian phù du này. Một quan niệm như thế hình như rất xa lạ với ngày hôm nay, với vai trò vị trí không mấy trọng yếu của nghệ thuật trong đời sống của xã hội loài người ngày nay. Thế nhưng cái hôm nay, cái nghiệm chứng hiện thời lại là cái mà Vladimir Soloviev cương quyết không thừa nhận là cái duy nhất có thể có và sẽ tồn tại mãi mãi. Thí dụ, nếu trong nhiều thiên niên kỷ, các dân tộc văn minh đều không bảo nhau mà đã hun đúc nên một quan niệm thống nhất về nhà thơ như là một thiên sứ, thì lẽ nào có thể hủy bỏ quan niệm mẫu gốc ấy chỉ vì quá nhiều vị sứ giả như thế ở mọi nước và mọi châu lục đã và đương phản bội sứ mệnh của mình?
Đây là một trong những vấn đề được ưu tiên bàn luận trong phê bình văn học của Soloviev, và trong phần còn lại của bài viết này chúng tôi sẽ chủ yếu dừng lại ở đây.
* *
Là triết gia và thi sĩ của cái đẹp bản thể, cái đẹp được hiểu như là hiện thân cảm tính của ý tưởng = Lý tưởng, cái đẹp ở trong thể thống nhất hữu cơ với cái chân và cái thiện, Soloviev trong hoạt động phê bình văn học trước sau như một cổ xuý cho cái đẹp như thế trong văn học - nghệ thuật và cương quyết chối từ các kiểu thức cái đẹp khác mà ông cho là giả dối, hư mạo. Trong những bài phê bình của Soloviev, ta tìm thấy một loạt phát biểu về vấn đề cái đẹp chân chính trong nghệ thuật, chúng bề ngoài đôi khi mâu thuẫn với nhau, nhưng thống nhất trong bề sâu, như là những khía cạnh liên đới của một nhận thức phức hợp. Quan niệm nhiệm vụ cao nhất của nghệ thuật là sáng tạo ra cái đẹp mới về chất, không thể có trong tự nhiên, Soloviev nhất quán khẳng định giá trị tự thân của cái đẹp ấy, phản bác mọi biểu hiện của chủ nghĩa duy lợi trong mỹ học. “Thơ ca đích thực không cần đến một cái gì khác ngoài cái đẹp - cái đẹp là ý nghĩa và lợi ích của nó”. “Tất cả những gì thật sự có chất thơ - có nghĩa là tất cả những gì đẹp - sẽ bằng cách ấy dồi dào nội dung và hữu lợi theo nghĩa tốt nhất của từ ấy”. - Ông viết trong bài chuyên luận đầy cảm hứng bàn về quan niệm về thơ ca của Pushkin - nhà thơ mà ông ái mộ nhất và xem là đại diện tiêu biểu nhất của thơ ca thuần tuý. “Thứ thơ ấy, Soloviev xác định, tiếp nhận nội dung không từ bên ngoài, mà từ chính mình. Dấu hiệu phân biệt cơ bản của nó là sự tự do khỏi mọi khuynh hướng định trước và mọi yêu sách”. Phân tích tỉ mỉ, với một thái độ đồng tình cao độ bảy thi phẩm, mà trong đó Pushkin trong những thời kỳ khác nhau của cuộc đời sáng tác của mình bày tỏ quan điểm không đứng yên một chỗ về bản chất của thơ ca, về sứ mệnh của nhà thơ, Soloviev kết luận: “Với tất cả những khác biệt giữa chúng, những bài thơ mà chúng tôi đã phân tích đều hội tụ ở một điểm: theo tư tưởng và theo cảm quan nội nghiệm của Pushkin, toàn bộ ý nghĩa của thơ ca là ở thi hứng độc lập đối với mọi mục đích và ý định bên ngoài, cái thi hứng tự mình là luật của mình - chính nó sáng tạo ra cái đẹp mà về bản chất đồng thời cũng là cái thiện hữu luân hữu đức”. Những dòng vừa dẫn được viết chỉ mấy tháng trước khi Soloviev qua đời, và không thể không nghe thấy ở chúng tiên cảm lo âu của nhà hiền triết Nga cho tiền đồ của thơ ca, nghệ thuật ở nước ông: cái chủ nghĩa duy lợi, núp dưới chiêu bài “nghệ thuật vị nhân sinh”, xem văn học nghệ thuật chỉ như một công cụ thực hiện những mục tiêu nằm ngoài nó, thời Soloviev mới chỉ là một trong nhiều dòng tư tưởng, sau này sẽ biến thành quốc sách áp đặt cho toàn xã hội và từng văn nghệ sĩ, dẫn đến sự ra đời không biết bao nhiêu ngụy giá trị như cỏ rác lấn át những chân giá trị trong văn học - nghệ thuật. Đối đầu với dòng tư tưởng ấy, Soloviev - nhà phê bình không biết mệt mỏi khẳng định quyền độc lập vô điều kiện của văn chương, nghệ thuật và tự do cảm hứng của người nghệ sĩ mà không có chúng thì không có thể có cái đẹp trong nghệ thuật. Nhưng Soloviev sống trong thời đại khi mà cũng dưới khẩu hiệu tự do sáng tạo, tự do tìm kiếm cái đẹp, trong đời sống tư tưởng - nghệ thuật châu Âu và Nga sinh sôi nảy nở những trào lưu, trường phái tân kỳ chủ nghĩa đoạn tuyệt với truyền thống nghệ thuật cổ điển và mỹ học cổ điển, tìm cảm hứng sáng tạo không chỉ trong những cách tân hình thức, mà còn trong sự thay đổi cơ bản thế giới quan thẩm mỹ - nghệ thuật, thể hiện nhiều khi ở sự thi vị hoá cái ác và cái xấu, tán dương những bản năng sinh vật và hạ thấp vai trò của trí tuệ, lương năng trong đời sống con người, đề cao tuyệt đối cái đẹp, đặt nó “bên kia bờ cái thiện và cái ác” (cái chủ nghĩa “siêu duy mỹ”này được tuyên cáo một cách quyết liệt hơn cả, thách thức công luận hơn cả trong học thuyết của Nietzsche). Với cái đẹp “mới” ấy nhà mỹ học cổ điển Soloviev đấu tranh không khoan nhượng, bằng mọi cách lật tẩy nó, chứng minh nó là cái đẹp giả dối, hư trá. Ta hãy đọc một đoạn văn của ông phân định ranh giới giữa cái đẹp thật và cái đẹp giả: “Cái đẹp chân chính soi sáng tất cả những gì tồn tại, song ánh sáng ấy của nó là ánh sáng của chân lý vĩnh hằng. Làm sáng tất cả những gì hiện hữu, cái đẹp để lại cho tất cả nội dung cơ bản của chính chúng, và vì thế nếu nghệ thuật phục vụ cái đẹp thuần khiết thì nó phải tiếp cận mọi thứ tồn tại trong chân lý của chúng (…) Tất cả những gì tồn tại đều thuộc quyền xem xét của cái đẹp. Cả những đường thẳng lẫn những đường cong đều thuộc quyền xem xét của nó, bởi vì cả cái này lẫn cái kia đều tồn tại. Nhưng đây, cái tuyệt không tồn tại và vì thế tuyệt không thể thu nhận hình thức của cái đẹp - đó là sự bất phân giữa đường thẳng và đường cong, để mà có thể tuỳ tiện xem cái thẳng là cái cong và cái cong là cái thẳng; và lại càng ít khả năng hơn vẽ ra một đường cong mà sẽ thẳng hơn đường thẳng. Cả cái thiện lẫn cái ác cũng thuộc quyền xem xét của cái đẹp, bởi vì cả cái này lẫn cái kia đều tồn tại; nhưng đây, cái tuyệt không tồn tại và vì thế không thể thu nhận được hình thức của cái đẹp - đó là sự bất phân giữa thiện và ác, để mà có thể coi cái này là cái kia, và lại càng ít khả năng hơn vẽ họa ra cái ác mà sẽ được yêu thích hơn, sẽ thiện hảo hơn cái thiện. Sau đó sẽ còn lại mỗi một việc là tìm kiếm cái xấu xí dị quái mà sẽ đẹp hơn cái đẹp”.
Không bàn đến vấn đề Soloviev đúng đến đâu trong sự phủ định kiên quyết đến thế cái đẹp mới, phi cổ điển, chúng ta rõ ràng nghe thấy trong đoạn văn này mối lo âu lớn cho số phận của cái đẹp mà ông xem là chân chính và vì thế mà phải được bảo tồn. Song cái đẹp giả đang đe dọa sự tồn sinh của cái đẹp thật ấy chẳng phải cũng là sản phẩm của sáng tạo tự do, của cảm hứng tự do - cái mà Soloviev trước sau bênh vực? Thành thử, mâu thuẫn với lời khẳng định của mình rằng thi hứng tự do tự nó sản sinh ra cái đẹp đồng chất với cái thiện hữu luân hữu đức, Soloviev đã phải đính chính: “Thơ ca tự nó không phải là thiện cũng không phải là ác: nó là sự nở hoa và toả sáng của những sức mạnh tinh thần - thiện hay ác. Địa ngục cũng có sự nở hoa hư phù và ánh sáng đánh lừa của nó”. Vậy làm thế nào để khỏi bị quyến rũ bởi vẻ đẹp hư phù và ánh sáng đánh lừa của địa ngục, để sáng tạo cái đẹp chân chính, bất hủ? Câu trả lời có nơi Soloviev: nhà nghệ sĩ phải luôn luôn hướng tâm trí mình về thiên giới và luôn luôn nhớ về sứ mệnh thiên sứ của mình. Trường đoạn mà Soloviev phân tích, kiến giải bài thơ nổi tiếng của Pushkin - Nhà tiên tri (nếu dịch sát nghĩa hơn phải là Nhà thiên sứ) thuộc số những trang viết siêu hạng của triết gia - thi sĩ này. Hình tượng nhà tiên tri được Pushkin khắc họa, lấy cảm hứng từ Kinh Thánh - nhân vật được Thượng Đế ban cho một thị giác mới nhìn thấy tất cả và một thính giác mới nghe thấy tất cả, được thay cái lưỡi tội lỗi, phù phiếm và gian dối của con người bằng nọc của con rắn anh minh, được thay trái tim thịt run rẩy bằng hòn than rừng rực lửa và được truyền lệnh đi khắp năm châu bốn biển và bằng ngôn từ đốt cháy trái tim muôn người - hình tượng ấy, theo Soloviev, là mẫu gốc, là chuẩn mực cơ bản của nhà thơ. “Nhà thơ trong y phục nhà tiên tri ấy, được sáng tạo nên bởi thi hứng và khai lộ với tính tất yếu nội tại, tự do toàn bộ ý nghĩa của mình, không trùng hợp với một nhà thơ nào có thật, đồng thời cũng không thể là thể trừu xuất đơn thuần từ họ, bởi vì nhà thơ ấy, sống trong tất cả các nhà thơ, to lớn hơn tất cả họ, là cái mà họ biết ở trong mình như cái phần tốt đẹp hơn chính họ, cái phần mà “sẽ sống lâu dài hơn di hài và tránh được sự rữa nát” (…) Mặc dù không một nhà thơ nào thực hiện được đến cùng ở trong mình cái mà lý tưởng viên mãn và hùng mạnh về sứ mệnh thi sĩ đòi hỏi, nhưng lý tưởng ấy là chuẩn mực”, chuẩn mực ấy không được Pushkin nghĩ ra, mà được truyền đạt cho ông “từ lĩnh vực siêu thức” và được ông truyền đạt lại cho chúng ta. (Soloviev mỗi khi nói về hoạt động sáng tạo của nhà thơ, luôn luôn nhấn mạnh tính không tự do, tính thụ động của công việc ấy - tâm hồn thi sĩ trong giây phút cảm hứng không suy tư giao nộp mình cho cái xâm nhập vào nó từ lĩnh vực siêu thức mà nó tức khắc nhận ra là cái vừa khác biệt, siêu tại, lại đồng thời vừa thân thích với nó, là của nó).
Nghĩa vụ của mỗi một nhà thiên sứ trên mặt đất này là trung thành đến cùng với sứ mệnh của mình - trung thành trong sáng tác cũng như trong đời sống. Gánh nặng ấy rõ ràng không vừa sức với hầu hết các thi nhân. Ngay Pushkin cũng chỉ làm tròn nghĩa vụ ấy trong thơ của mình, chứ tuyệt không phải trong cuộc sống, và Soloviev, trung thành với quan niệm thơ ca với đời sống phải là một thể thống nhất, trách cứ nghiêm khắc nhà đại thi hào Nga về mặt này (bài Số phận Pushkin). Và biểu dương kỳ công của những thi hào như A. K. Tolstoi, Mickiewicz. Trong số các nhà văn xuôi (ông ít viết về họ hơn), Soloviev đặc biệt tôn vinh Dostoievski mà ông xem không chỉ như một tiểu thuyết gia, mà còn như một trong những “lãnh tụ tinh thần” của dân tộc Nga và của cả nhân loại. Soloviev nhìn thấy sự vĩ đại của Dostoievski ở chỗ Dostoievski đã “tiếp nhận vào trong hồn mình toàn bộ ác khí của sự sống, toàn bộ nỗi nhọc nhằn và bóng tối của cuộc đời và khắc phục tất cả bằng sức mạnh vô biên của tình yêu”, Dostoievski “yêu trước hết cái linh hồn sống của con người, ông tin rằng tất cả chúng ta là nòi giống của Chúa Trời, tin vào sức mạnh vô tận của tâm hồn con người chiến thắng mọi bạo lực từ bên ngoài và mọi sa ngã từ bên trong”. Trong sáng tác, Dostoievski đã thể hiện mình như một tiền khu của một nền nghệ thuật tôn giáo mới - một nền nghệ thuật kết hợp sự mô tả chân thật, sống động thực tại đời sống con người với chí hướng tác động đến nó, cải hoá nó theo những yêu cầu của lý tưởng tôn giáo. Lý tưởng tôn giáo chính diện, mà Dostoievski đã đạt tới sau nhiều lầm lạc và khổ đau, trong cuộc tìm kiếm tinh thần dai dẳng và đầy gian truân đã nâng ông lên cao hơn hẳn những tư trào ngự trị trong xã hội Nga cùng thời, giúp ông giải quyết đúng đắn vấn đề kép về lý tưởng xã hội chân chính và con đường chân chính đưa tới thực hiện lý tưởng ấy. Theo Soloviev, Dostoievski thuộc số rất ít những con người mà, không thỏa mãn với bất kỳ mục đích và lý tưởng xã hội ngoại tại nào, cảm nhận thấy và tuyên cáo sự tất yếu của một cuộc cách mạng tinh thần sâu sắc và chỉ ra những điều kiện cho cuộc tái sinh trong tinh thần của nước Nga và cả loài người. “Hơn bất cứ một ai trong những người cùng thời, Dostoievski đã tiếp nhận tư tưởng Kitô giáo một cách hài hoà trong thể viên mãn tam hợp của nó: ông vừa là nhà thần hiệp, vừa là nhà nhân văn chủ nghĩa, vừa là nhà tự nhiên chủ nghĩa. Thụ cảm sống động mối liên lạc nội tại với cái siêu nhân loại và theo nghĩa ấy là nhà thần hiệp, ông đồng thời tìm thấy trong cảm quan ấy tự do và sức mạnh của con người; hiểu biết tất cả cái ác của con người, ông đồng thời tin vào cái thiện cũng ở nó (…) Nhưng niềm tin của ông vào con người không mảy may mang dấu ấn của chủ nghĩa duy tâm hay duy linh phiến diện: ông xem xét con người trong toàn bộ thể toàn vẹn và tính hiện thực của nó. Con người ấy gắn bó mật thiết với tự nhiên vật chất - và Dostoievski với tình yêu sâu sắc hướng về thiên nhiên, thấu hiểu và yêu quý đất với tất cả những gì thuộc về đất, tin vào sự thanh sạch, sự thánh thiện và cái đẹp của vật chất”.
Tư tưởng về Thần-Nhân loại và Thần-Vật chất nuôi sống toàn bộ sáng tác của Vladimir Soloviev và được thể hiện với sức mạnh thu phục nhân tâm trong triết học cũng như trong thơ và phê bình văn học của ông. Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, khi mà sự tồn tại của loài người trên trái đất này đang bị de doạ do sự phát triển mất cân bằng, bất hài hoà của nền văn minh con người, khi mà quá trình thế tục hoá, giải thiêng hoá tất cả đang bộc lộ cái mặt trái đáng sợ của nó, khiến nhiều bộ óc ưu thời mẫn thế ở các châu lục khác nhau phải cất tiếng khẩn thiết kêu gọi một cuộc “cách mạng nhân bản mới”, mà một trong những nội dung cơ bản là phục sinh dưới hình thức mới và đưa lên vị trí hàng đầu nhiều giá trị truyền thống bị lãng quên hay coi rẻ, di sản của Soloviev đang phát huy sức vang vọng trên trường quốc tế, thu nhận được tính thời sự bền vững hơn tính thời thượng của rất nhiều triết huyết đương thời. Bàn về tư tưởng Thần-Nhân loại của Soloviev, S. L. Frank mà tên tuổi chúng tôi đã nhắc đến, viết mấy tháng trước khi qua đời: “Tư tưởng ấy chỉ ra con đường tinh thần duy nhất có thể dẫn dắt nhân loại ra khỏi cái ngõ cụt hiện nay của nó”. (Bài Di sản tinh thần của Vladimir Soloviev, 1950). Rất dễ bắt bẻ những lời tuyệt đối hoá ấy, có điều chúng nói lên một sự thật là di sản của Soloviev đang sống và hoạt động hiệu năng trong thế giới ngày nay.
_______
ở Nga trước cách mạng những trước tác của Soloviev đã được tập hợp và in thành hai bộ tổng tập lớn. Từ năm 1988 chúng mới được tái bản trên đất nước của ông nhưng chưa toàn bộ, mà mới chỉ dưới dạng những tuyển tập. Dựa vào chúng, chúng tôi cố gắng bằng tập sách này đưa đến cho bạn đọc nước ta một phần nhỏ, nhưng tiêu biểu của sáng tác Soloviev. Dịch Soloviev là một công việc không dễ tí nào do tri thức bách khoa mênh mông của ông, kết hợp với sự đi sâu một cách hàn lâm vào nhiều vấn đề triết học và thần học, mà ở đấy chúng tôi không phải là chuyên gia. Sự chuyển ngữ của chúng tôi vì thế chắc chắn không tránh được những thiếu sót, mong được các học giả và dịch giả chỉ giáo.
Người làm sách này chân thàn cám ơn TS Trần Thị An đã nhiệt tình sưu tầm giúp một số văn bản quan trọng của Soloviev được lưu giữ tại thư viện trường đại học Harvard (Hoa Kỳ). Những văn bản ấy đã làm phong phú tuyển tập này.
2005
Martin Heidegger, một trong những triết gia có uy tín nhất thời nay, viết cách đây hơn nửa thế kỷ: "Có thể đặc điểm phân biệt của thời đại ngày nay của thế giới là việc chiều kích cái Thiêng đã đóng kín. Có thể đây là tai họa duy nhất của nó" (Thư về chủ nghĩa nhân bản, 1947). Thực tại thế giới hôm nay cho thấy không chỉ giữ được chiều kích cái Thiêng, mà còn có nhận thức đúng đắn về cái Thiêng chân chính là điều quan trọng thế nào đối với sự sống còn của loài người. Trong bối cảnh ấy, di sản của những nhà tư tưởng như Soloviev càng trở nên có ý nghĩa trọng đại.
Trong Ba diễn từ về Dostoievski (1883) cũng như những bài phê bình văn học khác của Soloviev, người đọc luôn luôn nhận ra ở tác giả của chúng trước hết một triết gia. Đó là thứ phê bình triết luận. Khác với kiểu phê bình khoa học (thời Soloviev còn chưa hình thành) nó không đặt cho mình nhiệm vụ phân tích cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, xác định quan hệ giữa các yếu tố cấu thành, vai trò của từng yếu tố trong chỉnh thể tác phẩm. Nó cũng không tìm cảm hứng trong sự phô diễn những cảm xúc, liên tưởng chủ quan nảy sinh trong tiếp xúc với tác phẩm văn học - cái là nét đặc trưng của kiểu phê bình ấn tượng chủ nghĩa. Những bài phê bình văn học của Soloviev cuốn hút người đọc bằng năng lực phát lộ ra hàm ý triết lý, vũ trụ quan và nhân sinh quan ở những tác phẩm và hình tượng văn học, chỉ ra ý nghĩa nhân loại của những số phận nhà văn, tìm ra những mối liên thông giữa những trải nghiệm và tìm tòi tinh thần ở họ với những vấn đề trọng yếu và trường cửu của xã hội loài người. Đây, một trong những liên hệ triết học như thế trong bài viết về Dostoievski, tiếp tục trực tiếp đoạn văn vừa dẫn: “Chủ nghĩa nhân văn là niềm tin vào con người, còn cái ác và sự bất lực của con người thì chẳng đòi hỏi niềm tin - chúng hiện diện rõ mồn một; cả thiên nhiên đã sa đọa cũng chẳng đòi hỏi niềm tin - đó là thực tại thấy được và sờ mó được. Tin vào con người có nghĩa là nhận thấy ở nó một cái gì đó nhiều hơn và lớn hơn cái hiện hữu, có nghĩa là thừa nhận ở nó năng lực liên kết tự do với thánh thần; còn tin vào thiên nhiên có nghĩa là nhận ra ở nó sự xán lạn và vẻ đẹp ẩn kín làm cho nó có thể trở thành thân thể của Thánh Thần. Chủ nghĩa nhân văn chân chính là niềm tin vào Thần-Nhân loại, và chủ nghĩa tự nhiên chân chính là niềm tin vào Thần-Vật chất”.
*
Từ đó, Soloviev xác định “nhiệm vụ gồm ba thành phần của nghệ thuật nói chung: 1) Khách thể hoá trực tiếp những định tính và phẩm chất nội tại sâu sắc nhất của ý tưởng sự sống mà không thể được thể hiện trong giới tự nhiên; 2) Làm cho cái đẹp tự nhiên nhuần thấm tinh thần và qua đó 3) Vĩnh cửu hoá những hiện tượng cá thể của nó”. “Nghệ thuật hoàn hảo, trong nhiệm vụ cuối cùng của nó, phải làm cho lý tưởng tuyệt đối biểu hiện không chỉ trong trí tưởng tượng, mà cả trong đời thật - nó phải làm cho nhuần thấm tinh thần, làm hoá hình biến thể cái thực tại của chúng ta”. Rõ ràng trong quan niệm về sứ mệnh, nhiệm vụ của nghệ thuật, Soloviev đã đi quá xa những quan niệm thông thường của chúng ta. Mong muốn, đòi hỏi một tác động tích cực của nghệ thuật tới đời sống, làm cho đời sống con người trở nên tốt đẹp hơn, gần với lý tưởng hơn là yêu cầu mà ý thức con người luôn luôn đề ra đối với nghệ thuật, nhưng nghĩ rằng cái đẹp nghệ thuật phải trở nên một sức mạnh hoá hình biến thể toàn bộ thực tại đời sống loài người, làm cho nó trở nên tuyệt đẹp toàn bộ và toàn vẹn - ý tưởng ấy chỉ rất ít nghệ sĩ “cuồng tín” (như chẳng hạn Wagner, Skriabin) mới có thể chia sẻ với Soloviev. Tính không tưởng của nó là quá rõ ràng, có điều khác với các nghệ sĩ nói trên tin vào sức mạnh vô tận của nghệ thuật hiện có của mình, Soloviev cho rằng một nghệ thuật như thế chưa có ở đâu và bao giờ và chỉ có thể xuất hiện trong tương lai. Cái nghệ thuật toàn năng ấy, chưa có nhưng phải có, Soloviev trong những trước tác thời trẻ của mình gọi là thần thuật (teurgia, théurgie) - được hiểu như là việc loài người, thấu triệt chân lý của Thượng Đế và hành động hoà hợp với ý chí của ngài, tiếp tục một cách hữu thức công việc hoàn thiện thế giới, từng bước cải biến nó thành thế giới lý tưởng, nơi mà cái chết và sự phân rữa không còn nữa, nơi cái đẹp phù sinh hiện nay sẽ trở thành cái đẹp bất tử. Trong những chuyên luận về mỹ học của mình, không sử dụng từ “thần thuật” nữa, Soloviev vẫn hiểu sứ mệnh, nhiệm vụ của nghệ thuật theo nghĩa ấy. Cho nên không phải ngẫu nhiên ông viết rằng “sự thực hiện đầy đủ nhiệm vụ ấy phải trùng hợp với sự khánh chung của toàn bộ tiến trình thế giới. Chừng nào lịch sử còn tiếp tục, chúng ta chỉ có thể có những dự liệu (tiên báo) cục bộ và rời rạc về cái đẹp hoàn hảo ấy; các nền nghệ thuật tồn tại hiện nay, trong những tác phẩm vĩ đại nhất của chúng, nắm bắt và nối dài thêm những tia sáng của cái đẹp vĩnh cửu trong thực tại hôm nay, bằng cách đó chúng báo trước, cho ta cảm thấy trước cái hiện thực không ở đây sẽ đến với ta, và bằng cách ấy chúng làm cầu nối, làm khâu liên lạc giữa cái đẹp tự nhiên và cái đẹp của cuộc sống tương lai. Được hiểu như vậy, nghệ thuật không còn là một trò tiêu khiển trống rỗng nữa, mà trở thành một công việc quan trọng và giàu tác dụng giáo dục, nhưng không phải theo nghĩa thuyết giáo dạy đời, mà theo nghĩa sự tiên tri đầy cảm hứng”. Chức năng tiên tri (bây giờ ta gọi là dự báo) được Soloviev xem là chức năng quan trọng hàng đầu của nghệ thuật. Nó hiện diện trong giới thuyết chung của ông về bản chất của nghệ thuật thực thụ: “Mọi sự miêu tả có thể thụ cảm được bất kỳ một vật thể hay hiện tượng nào từ giác độ trạng thái cuối cùng của nó, hay là dưới ánh sáng của thế giới tương lai, sẽ là tác phẩm nghệ thuật”.
III- Mỹ học và phê bình văn học của Soloviev
Thanh sạch hơn, mạnh hơn, linh hoạt hơn, sung mãn hơn!
Cái đẹp siêu phàm sẽ hội hợp tất cả
Niềm sướng vui của các nhà, rừng núi, sông biển -
Tất cả những gì đẹp tươi nơi Aphrodite phàm trần -
Trời với biển hân hoan hoà làm một…
Trong ánh sáng bất tuyệt của nữ thần mới
Trong thân thể bất tử giờ đương giáng thế.
… hãy biết: Nữ tính Vĩnh hằng
Thành đế vương của tất cả.
Và tự ngươi sẽ trở thành vô tận, tuyệt diệu
Hãy nhìn vào đấy
ánh mắt ấy gần lắm, sáng lắm
Hơn trời cao.
Và cả sự sống bí ẩn hơn biển cả
Đã có mọi phép mầu
Nhưng lên đấy làm gì? Trong một ánh mắt bất động
Kéo ta lên đó.
Và bằng đường sáng xuyên qua vũ trụ bao la
Ngôi sao ngời sáng
Cô liêu, cô liêu, bên trên mặt đất trắng xoá
7 - Triết học tình yêu
khôn ngoan, chín chắn trong những khuyến cáo của mình. Trước hết ông khẳng định: chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có sự tách rời hoàn toàn lĩnh vực kinh tế khỏi lĩnh vực đạo đức tinh thần, bởi vì như thế thì sẽ không còn tồn tại xã hội loài người nữa. Tiếp theo ông suy luận: Kitô dạy “con người không chỉ sống bằng bánh mì” chứ không nói “con người có thể sống không có bánh mì”. Có nghĩa là nhiệm vụ đạo đức của hoạt động kinh tế là phát triển sản xuất và thực hiện lưu thông phân phối thế nào để cho mọi người trên hành tinh này có đủ những điều kiện vật chất tối thiểu để hoàn thiện hoá bản thân. Và ông chứng minh nhiệm vụ ấy là khả thi, với trình độ phát triển sản xuất đã đạt được mà không cần sự “tước đoạt những kẻ tước đoạt”. Trong những yêu cầu đạo đức mà nhà triết học Nga thế kỷ XIX vạch ra cho hoạt động kinh tế của nhân loại, có một yêu cầu hiện nay đã trở nên mang tính quyết định đối với số phận của cả hành tinh này - bảo vệ và tôn tạo môi trường tự nhiên. Xin được dẫn một đoạn khá dài trong chương Vấn đề kinh tế xét từ quan điểm đạo đức:
thiện không có gì giống Niết Bàn, giống cõi yên tịch, bất phân, hoà tan mọi cá thể khác nhau vào trong một bản thể vô tính chất. Ngược lại, đó là xứ sở của sự phong phú đa dạng vô tận, của vô lượng những gương mặt không ai giống ai của các thành viên và của hoạt động tự do hiệu năng vô tận của họ trong sự hiệp lực hoàn hảo với nhau và với sức mạnh tối cao. Mỗi một con người cá thể trên mặt đất này là một thành viên tiềm năng của Vương quốc ấy. Trong mười chương của phần Ba sách Biện chứng cái thiện - phần nói về những con đường thực hiện cái thiện trong thế giới này chuẩn bị cho sự hiện diện của vương quốc của cái thiện tuyệt đối - hai chương dành cho sự trình bày quan niệm của tác giả về cá nhân con người và quan hệ của nó với xã hội loài người (Cá nhân và xã hội, Tiêu chuẩn đạo đức của xã hội). Cũng như mọi trí tuệ tư duy lành mạnh, Soloviev không tách rời cá nhân khỏi xã hội, khẳng định cá nhân không thể tồn tại ngoài xã hội, nhưng tuyệt không đặt cá nhân vào vị trí dưới, có bổn phận phục tùng xã hội một cách đơn phương. Xã hội, ông viết, không phải là biên giới phủ định của cá nhân, mà là cái bổ sung và bổ khuyết cho nó. Soloviev viết những dòng chữ phát sáng bác bỏ quan niệm về con người như một sinh vật xã hội đơn thuần, quan niệm ấy, ông chứng minh, chỉ ứng hợp với những loài vật sống bầy như ong, kiến, mối. Đối với những động vật ấy, “tính xã hội là một dấu hiệu ít nhất cũng quan trọng như đối với con người. Tuy vậy nếu chúng ta vẫn không chịu thừa nhận sự bình đẳng của chúng đối với chúng ta, nếu chúng ta không đồng ý dành cho từng con trong hằng hà sa số những con kiến lúc nhúc trong những cánh rừng của chúng ta tất cả các quyền con người và quyền công dân, thì tức là bởi vì ở con người còn có một dấu hiệu quan trọng khác, độc lập với tính xã hội và, ngược lại, quy định tính chất khác biệt của xã hội loài người”. Vì mỗi một con người, bất cứ nó là ai, đều là hình ảnh và thể tương đồng của Thượng Đế, cho nên mỗi một cá nhân hay là nhân thân, không phụ thuộc vào tính hữu ích xã hội hay những phẩm chất đạo đức hay trí tuệ thực chứng của nó, là một giá trị tuyệt đối. “ Nguyên tắc về phẩm giá con người hay là ý nghĩa tuyệt đối của mỗi một cá nhân, từ đấy mà xã hội được định nghiã như là thể hoà hợp nội tại, tự do của tất cả mọi người - đó là tiêu chuẩn đạo đức duy nhất” của xã hội loài người - tác giả nhấn mạnh. “Từ đó phải trực tiếp khẳng định rằng không một con người nào, không trong điều kiện nào và không vì lý do nào có thể bị xem chỉ như một phương tiện cho bất kỳ một mục đích nào ở bên ngoài nó…”. Tiếp theo: “Quyền của nhân thân, với tư cách nhân thân, dựa trên cơ sở phẩm giá con người không thể tước đoạt của nó (…) mới là vô điều kiện về bản chất, trong khi ấy thì quyền của xã hội đối với nhân thân, ngược lại, được điều kiện hoá bởi sự thừa nhận quyền cá nhân”. Tiếp theo nữa: “Nguyên tắc về quyền vô điều kiện của cá nhân con người không lệ thuộc vào ai và vào cái gì, nhưng chỉ trong quan hệ với nó mà những xã hội và những thiết chế có được tính đạo đức. Chúng ta biết (…) xưa cũng như nay có nhiều cơ thể văn hoá - dân tộc vĩ đại, với gia đình, tôn giáo, chế độ sở hữu rất bền vững, nhưng với tất cả những cái đó, chúng vẫn đã không có và chưa có tính đạo đức của xã hội loài người; trong trường hợp tốt nhất, chúng vẫn chỉ giống xã hội sống bầy của những loài côn trùng thông minh, nơi có cơ chế của cái trật tự thiện lương, nhưng không có cái mà trật tự ấy phải phục vụ - không có bản thân cái thiện, bởi lẽ không có chủ thể của nó - cá nhân tự do”. Vladimir Soloviev, triết gia tôn giáo, tiếp thụ và nâng lên tầm cao mới, thành nguyên tắc cơ bản bất di bất dịch, tất cả những tư tưởng nhân quyền tiên tiến nhất của loài người*, những tư tưởng mà không phải tất cả những con người đấu tranh cho sự giải phóng nhân loại đều thấm nhuần và, như lịch sử sau này cho thấy, họ biết bao phen đã chà đạp chúng không thương tiếc! Trong những quyền con người, bên cạnh quyền có được những điều kiện vật chất tối thiểu để phát triển trí tuệ và đạo đức - tinh thần, Soloviev đưa lên hàng đầu và triệt để bênh vực quyền tự do tư tưởng và tín ngưỡng. Trong chương Đạo đức và pháp quyền, bàn về vấn đề bạo lực trong xã hội loài người, ông phân biệt ba loại bạo lực: “1) bạo lực thú tính, mà những kẻ giết người, ăn cướp và lạm dụng tình dục trẻ em thực hiện; 2) bạo lực nhân tính, mà tổ chức cưỡng chế của xã hội tất yếu phải dùng dến để bảo vệ những phúc lợi ngoại tại của cuộc sống; và 3) sự xâm nhập bạo ngược của tổ chức xã hội bên ngoài vào lĩnh vực tinh thần của con người, với mục đích giả dối bảo vệ những phúc lợi nội tâm - kiểu bạo lực này được quy định toàn bộ bởi cái ác và cái giả dối và vì thế mà phải theo công lý được gọi là bạo lực ác qủy”.
- Phần ba: Cái thiện thông qua lịch sử nhân loại, gồm 10 chương: Cá nhân và xã hội; Sự phát triển lịch sử của ý thức cá nhân - xã hội trong những thời đại chính của nó; Chủ nghĩa chủ quan trừu tượng trong đạo đức; Tiêu chuẩn đạo đức của xã hội; Vấn đề dân tộc xét từ quan điểm đạo đức; Vấn đề hình sự xét từ quan điểm đạo đức; Vấn đề kinh tế xét từ quan điểm đạo đức; Đạo đức và pháp quyền; ý nghĩa của chiến tranh; Tổ chức đạo đức nhân loại trong chỉnh thể.
- Phần Hai: Cái thiện từ Thượng Đế, gồm ba chương: Tính thống nhất của các cơ sở đạo đức; Nguyên tắc vô điều kiện của đạo đức; Tính hữu thực của trật tự đạo đức - tinh thần.
ứng với tư tưởng chính yếu và trung tâm của tác giả, Biện chứng cái thiện được chia thành ba phần không đồng đều, không kể Lời nói đầu: ý nghĩa luân lý của cuộc sống trong định nghĩa sơ bộ; Dẫn luận: Triết học đạo đức như một khoa học độc lập; và Kết luận: ý nghĩa luân lý của cuộc sống trong định nghĩa cuối cùng. - Phần Một: Cái thiện trong bản chất con người, gồm 6 chương: Những dữ liệu nguyên khởi của đạo đức; yếu tố khổ hạnh trong đạo đức; Tình thương và chủ nghĩa vị tha; yếu tố tôn giáo trong đạo đức; Về những đức tính; Những nguyên lý hư tưởng của triết học thực tiễn (phê phán thuyết duy hạnh phúc dưới những biến tướng khác nhau).
Đến đây, một câu hỏi hiện lên: vậy con người có vai trò, vị trí gì trong cái tiến trình hoàn vũ được Thượng Đế toàn năng định trước ấy? Trong học thuyết Soloviev, bên cạnh hai phạm trù giá trị cơ bản: Thượng Đế và sự Bất Tử, xuất hiện phạm trù tối quan trọng thứ ba, được đặc biệtnhấn mạnh trong tác phẩm này - Tự Do. Tự do là bản chất của thánh thần, cái bản chất ấy được Thượng Đế truyền cho con người - tạo phẩm yêu quý nhất của Ngài, hình ảnh và thể tương đồng với Ngài. Chìa khoá để giải thích lịch sử nhân loại như một bi -hùng kịch chính là ở đây. Con người có thể muốn và có thể không muốn liên kết với Thượng Đế - Thượng Đế tôn trọng tự do của nó. Thế giới vĩnh hằng của cái tận Chân, tận Thiện, tận Mỹ, hay là Vương quốc của Chúa Trời chỉ có thể được dựng xây với sự tự nguyện tham gia của con người. “Con người được Thượng Đế quý trọng không phải như một công cụ thụ động của ý chí của Ngài - những công cụ như thế có đủ trong thế giới vật chất - mà như một đồng minh và một công sự tự nguyện trong cơ đồ toàn thế giới của Ngài. Sự cộng sự của con người nhất thiết nằm ngay trong hoạt động của Ngài trong thế giới này” (chương tám, tiểu mụcVII). Tiến trình gặp gỡ và hợp tác giữa nhân loại và ý chí siêu nhân loại chí thiện trong sách Biện chính cái Thiện cũng như ở các trước tác khác của Soloviev được gọi là tiến trình thần-nhân loại. Nhìn từ góc độ đạo đức - tinh thần, “quá trình lịch sử là sự quá độ trường kỳ và đầy khó khăn từ thú-nhân tính lên thần-nhân tính”. Từ tất cả những gì đã nói và dẫn có thể hình dung được tư tưởng chủ đạo như sợi chỉ đỏ xuyên suốt công trình đạo đức học của Soloviev - tác giả trình bày nó như một nguyên tắc hay là mệnh lệnh vô điều kiên gửi đến từng cá nhân con người: “Trong sự hoà hợp nội tại và hoàn toàn với ý chí tối cao, thừa nhận ở tất cả những con người khác ý nghĩa hay là giá trị tuyệt đối, bởi vì cả ở họ cũng có hình ảnh và thể tương đồng với Chúa Trời, hãy tham gia thật đầy đủ sự nghiệp hoàn thiện bản thân và hoàn thiện chung, vì sự hiển hiện đến cùng của Vương quốc của Chúa trời trong thế gian này”.
6 - Triết học đạo đức