Thiếu nữ trong trang phục Bắc Trung Nam ở Một thoáng Việt Nam, Củ Chi, TP.HCM.
|
Văn hoá sức mạnh mới cho kinh tế
Các nước Âu – Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc… đều có rất nhiều bảo tàng lớn nhỏ khác nhau. Có bảo tàng dân tộc học hay mỹ thuật rất vĩ đại nhưng cũng có bảo tàng về các ngành sản xuất truyền thống như lịch sử xe hơi, kỹ thuật in, internet, kỹ thuật truyền thông, máy tính, điện ảnh, khoa học kỹ thuật, thậm chí là bảo tàng sôcôla, phômai, sữa… Không phải vì họ muốn phô trương sức mạnh của mình, mà có lẽ họ muốn tôn vinh tri thức của nhân loại. Bảo tàng chính là nơi vun đắp gốc rễ cho lĩnh vực kinh tế, cho sản phẩm thông qua kích thích óc tò mò, trí tưởng tượng, năng lực sáng tạo, và trên hết, tình yêu con người, yêu thiên nhiên, tựu trung lại là văn hoá. Tại Seoul (Hàn Quốc), có một bảo tàng tư nhân nhỏ trưng bày sản phẩm từ rơm rạ: các loại dép, áo, những đồ chơi của trẻ em, các vật dụng khác. Tương tự, bảo tàng kim chi, một món ăn quốc hồn quốc tuý, trưng bày quy trình trồng các loại rau, cách thu hoạch, cách chế biến món ăn từ kim chi, các loại đồ gốm liên quan… Bảo tàng còn chiếu phim về cách thức làm và sử dụng sản phẩm rất sinh động, hấp dẫn. Một cách quảng bá về văn hoá Hàn Quốc rất hiệu quả, thu hút khá nhiều khách tham quan. Nhiều du khách đến xem đã mua các sản phẩm tại bảo tàng.
Việt Nam có thể lập rất nhiều bảo tàng chuyên sâu cho một sản phẩm đã có thương hiệu về kinh tế để tạo dựng thương hiệu về văn hoá như thế. Cách đây ít lâu, cuộc trưng bày và trình diễn về nghề đan thuyền ở huyện Yên Hưng, Quảng Ninh, bên cạnh việc tôn vinh một nghề thủ công truyền thống, còn giúp người thợ thủ công tự tin, sáng tạo hơn để tìm ra những mẫu mã mới thích ứng nhu cầu thị trường. Lập tức sau đó có nhiều người đến đặt hàng hơn. Các tour du lịch bắt đầu quan tâm và đưa những làng nghề này vào tuyến tham quan. Thu nhập của người dân tăng đáng kể, văn hoá không mất đi mà được lưu truyền, làm mới. Hay đối với gốm Phù Lãng cũng vậy, sau các lớp tập huấn làm gốm cho trẻ em, những người thợ gốm giao lưu cùng hoạ sĩ chuyên nghiệp, gốm Nhung ở bảo tàng Dân tộc học đã có nhu cầu tự đổi mới. Từ chỗ phải bỏ nghề đi kiếm ăn xa nay họ đã trở về, sản xuất mẫu mã mới. Gốm Phù Lãng hồi sinh từ đó.
Bảo tàng lúa gạo cái nôi của văn minh lúa nước
Việt Nam là quốc gia có nền văn minh lúa nước phong phú nhất với tư cách không chỉ là vựa lúa của nhân loại mà còn là cái nôi xa xưa nhất của lúa nước. Tại IRRI (viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế ở Philippines) có một bảo tàng các giống lúa thế giới, giống lúa của Việt Nam là cổ xưa nhất, và nhiều giống lúa nước nhất. Những cây lúa ma, lúa nổi, lúa trời đến lúa nước ở đồng bằng sông Cửu Long là câu chuyện rất dài về quá trình khai hoang mở cõi. Những cánh đồng lúa ấy đã nuôi sống dân tộc này, đang và sẽ làm sứ mệnh vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người, với văn minh nhân loại khi góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu một cách bền vững trong tư cách quốc gia xuất khẩu gạo thứ hai thế giới… Có một bảo tàng lúa gạo sống động, phong phú hàm chứa những giá trị văn hoá, thông điệp nhân văn, thì giá trị của hạt lúa Việt Nam sẽ được cộng thêm rất nhiều. Đó là chưa kể đến một thế giới sản phẩm chế biến từ lúa gạo độc đáo, như các loại bún, các loại bánh, các loại rượu cùng rất nhiều sản phẩm khác làm từ rơm, rạ, với các công cụ từ thô sơ đến các phương tiện chế biến hiện đại ẩn chứa bên trong lối sống, phong tục tập quán gắn liền với sinh thái thiên nhiên… Một bảo tàng lúa gạo như thế sẽ là một bảo tàng có sức hội tụ rất lớn đối với hàng tỉ người mỗi bữa bưng bát cơm lên. Ai ơi bưng bát cơm đầy, sẽ trở nên tha thiết lắm.
Ở nước ta chỉ có Lê Quý Đôn viết kỹ về nhiều ngành nghề cổ và giống má. Đó cũng chính là nguồn, là cơ sở tốt nhất để chúng ta có thể tham khảo cho một bảo tàng lúa gạo trong tương lai.
Ngày nay, mỗi lần đi qua đại lộ Đông Tây, nhìn bến Bình Đông thay da đổi thịt từng ngày, những nhà máy xay xát xưa, những kho hàng rất đặc trưng của quốc gia xuất khẩu gạo từ những năm 30 của thế kỷ trước đã biến mất, thành những ngôi nhà cao tầng đồ sộ mà thấy tiếc bâng quơ một cái gì đó đã mất. Giá như nơi đây có một bảo tàng lúa gạo để ngày ngày, những đoàn khách đến, để trên bến dưới thuyền như nó đã từng…
Bảo tàng càphê từ một giấc mơ
Tôi nghĩ với các dân tộc ở Tây Nguyên, kể câu chuyện càphê (và cao su, hồ tiêu, điều, các cây công nghiệp khác) không thể tránh khỏi là một câu chuyện buồn: câu chuyện của mất đất, câu chuyện của phá rừng, câu chuyện mất đi không gian sinh thái nhân văn ngàn đời của họ. Chừng nào có thể bao quát được càng nhiều khía cạnh, kể cả những khoảng tối và cay đắng trong lịch sử thực dân và quá trình mở mang thời hiện đại trên mảnh đất Tây Nguyên, tôi tin chắc rằng một bảo tàng càphê sẽ không chỉ mang thế giới về với Tây Nguyên, mà còn mang được Tây Nguyên ra với thế giới.
GS Nguyễn Xuân Huy
nguyên giám đốc bảo tàng Dân tộc học
|
Đâu chỉ lúa gạo, Việt Nam cũng là quốc gia sản xuất và xuất khẩu càphê thứ hai thế giới. Càphê Việt Nam được trồng nhiều nhất ở Tây Nguyên, vùng đất giàu bản sắc văn hoá, tâm linh. Chính bản sắc tâm linh này tạo nên một không gian văn hoá càphê phong phú, huyền ảo. Ông Đặng Lê Nguyên Vũ cho biết: “Một bảo tàng càphê thế giới phải hội tụ những thế mạnh về trí tuệ, tinh thần, triết lý, lối sống, văn hoá liên quan đến càphê cùng thế mạnh bản thân chất lượng sản phẩm càphê… Trung Nguyên nhiều năm nay đã tập hợp nhiều chuyên gia lịch sử, kinh tế, văn hoá hàng đầu Việt Nam để xây dựng dự án bảo tàng càphê thế giới. Chúng tôi đã gặp gỡ nhiều kiến trúc sư nổi tiếng của Nhật Bản, Tây Ban Nha, Anh, Singapore cùng các kiến trúc sư hàng đầu Việt Nam để xây dựng, quy hoạch, thiết kế bảo tàng. Chúng tôi muốn bảo tàng này mang tính vĩnh cửu và có chất liệu bản địa, vì vậy nhiều năm nay đã tìm kiếm, tập kết hàng vạn khối đá núi lửa khổng lồ ở khắp Tây Nguyên để chuẩn bị xây bảo tàng trên khuôn viên rộng 50ha. Chúng tôi sưu tập, mua lại nhiều bộ sưu tập về văn hoá Tây Nguyên – cái nôi hàm chứa hồn đất, hồn nước, hồn người, hồn nghề cho càphê Tây Nguyên, và mới đây chúng tôi đã được nhượng lại cả một bảo tàng càphê ở Đức với hơn 10.000 hiện vật cổ trên thế giới liên quan đến càphê...”
Từ một giấc mơ rất đẹp để trở thành hiện thực là một quãng đường dài với không ít khó khăn.
Bảo tàng gốm sứ viết nên một câu chuyện lịch sử
Có thể nói qua nhiều thế kỷ, gốm sứ Việt Nam đã trở thành “sứ giả” giao thương với quốc tế, các bộ sưu tập gốm sứ Việt Nam không thiếu trong các bảo tàng nước ngoài và các nhà sưu tập tư nhân trong nước, nhưng một bảo tàng gốm sứ quốc gia thì chưa hề có. Muốn xây dựng bảo tàng gốm sứ cần hai việc: hiện vật và nghiên cứu. Hiện vật thì các bảo tàng trong nước không thiếu, có thể mời tư nhân đem sưu tập của mình thường xuyên bày thành từng chuyên đề. Việc này các bảo tàng thế giới vẫn làm, vì không bảo tàng nào có đủ. Sự trân trọng với tài sản văn hoá của tư nhân là quan trọng. Còn nghiên cứu khó hơn nhiều, phải viết được lịch sử gốm sứ Việt Nam, xác định hiện vật dưới góc độ khảo cổ học kỹ lưỡng. Rồi đến các vấn đề tạo dáng, kỹ thuật, lò nung… Các sách tốt về gốm sứ Việt Nam đều do người nước ngoài làm, và họ bán rất chạy. Gốm sứ cổ Việt Nam nổi tiếng trên thế giới như một hình ảnh văn minh. Các sách trong nước thì chủ yếu in ảnh và lèo tèo vài trang giới thiệu.
Ông Lý Ngọc Minh, tổng giám đốc công ty gốm sứ Minh Long thổ lộ: “Bản thân tôi rất mê nghề, mê tìm hiểu, sưu tập, học hỏi mò mẫm để gìn giữ một bảo tàng cho dòng tộc. Câu chuyện về gốm sứ của riêng tôi xuất phát từ dòng dõi nhiều đời của gia đình, lưu lạc khắp nơi, để rồi trụ lại ở mảnh đất Bình Dương. Nghề gốm rất lạ, càng làm càng thấy khó, càng thấy mình dốt, vì nó rất huyền bí, không thể nào đoán trước được. Chính vì vậy khi nhìn một tác phẩm gốm xưa, tôi như thể được đọc một cuốn sách, vô cùng thú vị. Bên cạnh một bảo tàng riêng, tôi nghĩ nhiều đến bảo tàng gốm sứ Bình Dương, một vùng đất còn đầy đủ cơ sở để làm một bảo tàng sống, với những lò gốm cổ và hiện đại hài hoà, để có thể tái tạo khung cảnh làm gốm từ xưa đến nay, tạo nên bức tranh sinh động cho văn hoá một vùng đất. Tôi đang đề xuất với lãnh đạo tỉnh Bình Dương để làm cách nào thúc đẩy sớm hơn cho việc xây dựng bảo tàng gốm sứ tại địa phương.
Vê đất làm gốm Bát Tràng.
|
Đi nhiều, tôi nhận thấy đất nước nào biết lưu giữ bảo tồn lịch sử, văn hoá, thì kinh tế càng phát triển. Một quốc gia biết trân trọng văn hoá thì càng văn minh. Thương hiệu của một quốc gia không chỉ được xác định bởi xe hơi, nhà lầu, con số tăng trưởng kinh tế… mà phải biết tạo ra những sản phẩm có giá trị, nhiều bảo tàng chuyên sâu về nghề, về ngành sẽ làm tăng giá trị vô hình sản phẩm của mình. Điều đó rất cần những doanh nhân có tâm, có trình độ hiểu biết, đam mê với văn hoá dân tộc. Hơn ai hết, những người lãnh đạo đất nước phải ý thức được điều ấy, và có những chính sách đúng đắn, khơi gợi, để doanh nhân có điều kiện đóng góp tài lực, trí lực của riêng mình cho đại cuộc”.
Một dân tộc biết khát vọng và xác tín nội tâm thì mới giữ được di sản và phát triển văn hoá. Và đến một lúc nào đó, chính nền văn hoá di sản, trong đó có các bảo tàng nghề, sẽ làm nền cho nền kinh tế phát triển.
bài: hương xuân, ảnh: Nguyệt Vy
Là người nghiên cứu nghệ thuật cổ, tôi nhận thấy hầu hết hiện vật của văn minh nông nghiệp sắp biến mất, nên dành một thời gian dài nghiên cứu về cái đó. Khi làm tôi mới biết là đụng vào một việc quá lớn. Nên cũng mới viết tạm một quyển Văn minh vật chất của người Việt, với các phần đi lại, xe cộ thuyền bè, giống má, ăn mặc, nông cụ, đồ dùng… Tôi nghĩ nếu muốn giới thiệu văn minh lúa nước Việt Nam, cần bắt đầu như thế, và giải thích dần các biến đổi của chúng trong đời sống. Người ta hay viết lịch sử như là lịch sử chiến tranh và chính trị, mà lãng quên đời sống thường ngày. Lịch sử xây dựng, sinh hoạt cũng rất quan trọng. Nếu có những cuốn sách chẳng hạn về đời sống thường ngày của người Đông Sơn, người thời Lý - Trần… thì rất thú vị. Ta có thể tìm thấy loại sách đó ở phương Tây, ví dụ đời sống thường ngày của người La Mã, thời Trung cổ…
phan cẩm thượng
|