Khó tìm thấy trong văn học hiện nay một hình thức hàm súc, mạnh mẽ và sáng tỏ hơn để biểu đạt hai mãnh lực cơ bản nhất tạo nên sự vận động cân bằng của nhân loại: một lực - sức ỳ chết cứng muốn hãm nhân loại trên con đường nó đã nhất quyết lựa chọn, lực kia - là sức mạnh trí tuệ sống động hướng nhân loại về phía ánh sáng.
Đây là toàn văn bài phát biểu của Zola:
GỬI THANH NIÊN
Thưa các ngài!
Các ngài đã mang đến cho thôi thật nhiều niềm vui và niềm hạnh phúc sâu sắc bởi đã chọn tôi làm chủ tịch cuộc bầu cử thường niên này. Không có hội đoàn nào tốt hơn, đáng yêu hơn và, quan trọng là, không có cử toạ nào khả ái hơn tuổi trẻ, trước cử toạ ấy, trái tim ngập tràn niềm khao khát yêu thương, khao khát lắng nghe, lúc nào cũng rộng mở.
Than ôi, tôi đang ở vào cái tuổi bắt đầu thấy nuối tiếc thời trai trẻ đã qua đi, và cũng là lúc người ta luôn quan tâm tới một thế hệ mới đang lớn. Họ sẽ vừa là quan toà, vừa là những người tiếp bước chúng tôi. Tôi thấy tương lai đang ra đời ở họ và thường lo lắng tự hỏi: họ sẽ vứt bỏ những gì và giữ lại những gì của chúng tôi, những gì sẽ trở thành sự nghiệp của chúng tôi trong tay họ, bởi vì phải ở trong tay họ, nó mới thành sự nghiệp, chỉ khi ấy, nơi họ tiếp nhận nó, sự nghiệp của chúng tôi mới được mở rộng và hoàn thiện đến tận cùng. Đó là lý do vì sao tôi say sưa theo dõi sự vận động của tư tưởng trong giới trẻ hiện nay, tôi đọc các báo và tạp chí tiên tiến, cố gắng nắm bắt tinh thần mới đang thổi sinh khí vào học đường, cuối cùng tôi nhận ra tất cả các ngài đang đi đâu, nhận ra các ngài là trí tuệ và nghị lực của tương lai. Thưa các ngài, sự thực là ở đây cũng có một chút ích kỷ, tôi không giấu giếm điều đó. Tôi giống như một người thợ đang hoàn tất ngôi nhà mà anh ta hy vọng sẽ sống nốt những ngày còn lại của đời mình và vẫn còn ái ngại, không biết thời tiết sẽ thế nào. Mưa gió liệu có làm hư hại tường vách của nó? Hay là khi gió bấc nổi lên, liệu căn nhà có bị tốc mái? Và điều cơ bản, liệu anh ta xây dựng ngôi nhà đã vững chãi chưa, anh ta liệu có chống lại giông bão được hay không? Vật liệu có tốt không, mọi rủi ro đã được tiên liệu kỹ lưỡng chưa? Tôi nói điều đó chẳng phải vì cho rằng tạo tác nào của con người cũng có thể trở thành trường cửu và hoàn tất, ngay cả những tạo tác vĩ đại nhất cũng phải chấp nhận làm thành một khoảnh khắc mà thôi trong sự phát triển không ngừng của trí tuệ con người. Chỉ cần thấy mình là đại diện cho tiếng nói một thế hệ, dẫu đó là khoảnh khắc ngắn ngủi nhất, cũng đã mãn nguyên lắm rồi. Chính vì không thể kìm hãm được văn học, nó phát triển không ngừng, luôn làm mới lại từ đầu, cho nên cần sẵn sàng chứng kiến những người trẻ tuổi, lớp người sẽ thay thế các ngài, thậm chí có thể mài sắc hồi ức về các ngài - đang sinh ra và lớn lên như thế nào. Tôi tuyệt nhiên không muốn nói, rằng người lính già đang ngự trị trong tôi không cảm nhận được khát vọng đề kháng qua các thời đại, khi ông ta nhìn thấy tác phẩm của mình bị công kích. Nhưng quả thật với thế kỷ tương lai đang tới, trong tôi, sự hiếu kỳ lớn hơn sự phẫn nộ, sự cảm thông nhiệt thành nhiều hơn những lo lắng riêng tư, bởi rồi đây tôi sẽ rữa nát, cả thế hệ của chúng tôi cũng sẽ rữa nát cùng với tôi, nếu như chúng tôi đúng là chỉ đáng dùng vào việc lấp đầy những cái huyệt và bằng cách ấy, dọn sẵn con đường dẫn tới thế giới dành cho những ai đang nối gót chúng tôi.
Thưa các ngài, tôi thường nghe những lời giải thích như đinh đóng cột, rằng chủ nghĩa thực chứng đang giẫy chết trong cơn hấp hối, rằng chủ nghĩa tự nhiên đã chết, rằng khoa học sẽ phá sản có thể vì nó không đem đến cho con người hạnh phúc và một thế giới đức hạnh như đã hứa. Các ngài hiểu rõ là ở đây tôi không giành phần giải quyết những nhiệm vụ lớn lao mà các vấn đề ấy đề cập tới. Tôi là kẻ dối nát. Tôi không có quyền nhân danh khoa học và triết học để phát ngôn. Nếu các ngài muốn biết, xin thưa, tôi chỉ đơn giản là người viết tiểu thuyết, là nhà văn đôi khi đoán định được chút ít và mọi giá trị tôi có được đều là do tôi quan sát nhiều và làm việc nhiều. Và tôi cũng chỉ dám cho phép mình đứng vào vị trí một chứng nhân để nói với các ngài về chính thế hệ của chúng tôi - những người bây giờ ở độ tuổi năm mươi và sắp tới, thế hệ các ngài phải gọi là tiền bối - từng là gì, hoặc chí ít, từng ước muốn trở thành cái gì.
Trong buổi khai mạc triển lãm tại Champ de Mars, tôi đã vô cùng ngạc nhiên bởi hình dáng đặc biệt của những gian trưng bày. Cứ cho đó vẫn chỉ là những bức tranh y chang như vậy mà thôi. Đúng là một sự sai lầm, - thay đổi tuy chạm chạp, nhưng có gì đáng ngạc nhiên đâu, nếu như có thể phục dựng được những cuộc triển lãm trước kia. Về phần mình, tôi nhớ rất rõ những cuộc triển lãm sau chót đầy hàn lâm và lãng mạn vào năm 1863. Công việc ngoài trời (“đầy ánh sáng”, plein air) vẫn chưa hát khúc khải hoàn, một màu hắc ín bao trùm; đó là sự cuồng si thế nào ấy, những màu sắc lây nhiễm thế nào ấy, ánh mờ ảo vô cùng tinh xảo. Rồi quãng mười lăm năm trôi qua, sau ảnh hưởng không gì cưỡng lại và cũng có nhiều tranh cãi của ngài Manet, tôi nhớ những cuộc triển lãm, nơi bừng lên màn chói sáng của ánh nắng buổi trưa. Nó giống như một trận lũ lụt ánh sáng, mối quan tâm về sự thật là cái mỗi khung tranh làm nên ô cửa rộng mở nhìn ra thiên nhiên lấp lánh chói sáng. Và chiều qua, lại sau mười lăm năm nữa , tôi được nhìn thấy giữa sự tươi tắn ấy của các tác phẩm, một cái gì giống như mây mù huyền bí đang dâng lên như thế nào. Ở đây cũng có mối quan tâm về hội hoạ hiện thực như thế, nhưng thực tại đã biến dạng, hình hài bị kéo dài ra, nhu cầu về sự độc đáo và cách tân đưa nghệ sỹ ra ngoài giới hạn của mơ ước.
Nếu tôi nói về ba giai đoạn như thế của hội hoạ hiện đại, thì cũng chỉ vì tôi thấy chúng thể hiện hết sức rõ ràng sự vận động tư tưởng của thời đại chúng ta. Thực ra sau những vị tiền bối kiệt suất mà chúng tôi là những người kế tục, thế hệ của tôi đã cố gắng mở rộng ô cửa hướng ra thiên nhiên: thấy tất, nói tất. Ở thế hệ này, ngay cả những người vô tâm nhất cũng đã kết thúc nỗ lực dài lâu của triết học thực chứng và các khoa học phân tích, thực nghiệm. Chúng tôi thường ngụp lặn trong thế giới khoa học đã vây bọc chúng tôi từ mọi phía, chúng tôi sống bằng khoa học, hít thở vào tâm can không khí của thời đại ấy. Bây giờ tôi có thể thú nhận điều đó, cá nhân tôi thậm chí còn là người theo trường phái cố đưa phương pháp khoa học nghiên nhặt vào lĩnh vực văn học. Nhưng cái con người không dám vượt ra ngoài giới hạn của những gì cần thiết trong tranh đấu, mà vội bằng lòng với chiến thắng, thì ở đâu mà anh ta không huỷ hoại lợi ích của nó? Vả lại, tôi chẳng thương xót bất kỳ cái gì và tiếp tục tin vào niềm đam mê vẫn đang thiết tha và hiệu nghiệm. Rồi sau đó, chúng tôi được khích lệ bởi một nhiệt tình cháy bỏng biết dường nào và những hoài bão mới đẹp đẽ làm sao! Biết tất cả, làm được tất cả, chiến thắng tất cả! Lấy chân lý làm phương tiện, giúp nhân loại trở nên cao quý hơn và hạnh phúc hơn! Thưa các ngài, đúng vào lúc này đây, các ngài, những người trẻ tuổi bước lên sân khấu. Tôi nói, tuổi trẻ là một cái gì đó không xác định, xa xăm và sâu sắc giống như biển cả: bởi vì, biết nó ở đâu - tuổi trẻ? Nó sẽ là cái gì trong đời sống thực tại. Ai có quyền nhân danh nó mà phát ngôn. Tôi phải bám chặt vào những tư tưởng mà người ta đang phán cho tuổi trẻ. Và nếu những tư tưởng ấy không thuộc về nhiều người trong số các ngài, thì xin lượng thứ trước cho tôi. Tôi làm cho những người ấy chú ý tới những kẻ đã đánh lừa chúng tôi bằng các tri thức đáng ngờ, có lẽ chỉ phù hợp với mong muốn của họ hơn là phù hợp với thực tế.
Thế là, thưa các ngài, người ta thuyết phục chúng tôi, rằng thế hệ các ngài đoạn tuyệt với thế hệ của chúng tôi, rằng các ngài không còn đặt trọn niềm tin vào khoa học, các ngài thừa nhận sẽ có sự nguy hiềm về đạo đức và xã hội nếu xây dựng tất cả trên nền tảng của khoa học, rằng các ngài đã quyết quay trở về với quá khứ, lấy tàn tích của những tín ngưỡng thời xưa để tạo ra cho mình một tín ngưỡng sống động. Tất nhiên, điều đang nói ở đây không phải là chuyện đoạn tuyệt hoàn toàn với khoa học, - cứ tạm cho là các ngài tiếp thu mọi thành tựu mới nhất của nó và các ngài cũng có ý đồ khuếch trương những thành tựu ấy. Giả thử, các ngài thừa nhận những chân lý đã được kiểm nghiệm và cố gắng vận dụng để gắn chúng vào những tín điều cổ xưa. Từ ngay trong bản chất, khoa học thuộc về phía xa lạ với tín ngưỡng. Người ta đang đẩy nó ra khỏi vị trí quen thuộc của mình. Nó chỉ là bài tập giản đơn của trí tuệ và là sự nghiên cứu mang tính khả thi cho tới chừng nào nó chưa đụng tới thế giới siêu nhiên và cõi âm.
Người ta nói rằng, thí nghiệm đã được làm, rằng khoa học không thể một lần nữa chuyển dịch bầu trời mà nó đã phá nát và cũng không thể trả lại hạnh phúc cho những tâm hồn mà thế giới ngây thơ của chúng đã bị nó huỷ hoại. Thời đại chiến thắng giả dối của khoa học đã kết thúc. Nó phải lễ độ vì không thể biết tất cả, không thể lập tức chữa lành tất cả, làm tất cả trở nên giàu có. Nếu người ta vẫn chưa dám nói với tuổi trẻ trí thức để họ vứt sách và lìa bỏ những ông thầy của mình, thì đã có các vị thánh và các nhà tiên tri đi giữa những người thường để ca ngợi cái hay của ngu dốt, sự sáng láng của giản đơn và nhu cầu thiết yếu đối với nhân loại rất đỗi thông thái và già nua, nhu cầu làm tươi mới tận đáy nông thôn thời tiền sử giữa những vị tổ tiên vừa mới rời xa đất cát, đến với bất kì xã hội và tri thức nào.
Tôi không phủ nhận cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua; đó là sự mỏi mệt và phẫn uất xuất hiện hồi cuối thế kỉ sau một nỗ lực đầy phấn khích và lớn lao hòng nhắm tới mục đích biết tất cả và nói tất cả. Có lẽ nền khoa học vừa huỷ hoại thế giới cổ xưa cần khôi phục thế giới ấy một cách sống động theo lí tưởng mà chúng ta hằng ấp ủ về lẽ công bằng và hạnh phúc. Người ta đã chờ đợi 10, 20, 50, thậm chí 100 năm nay. Về sau, khi thấy công lí vẫn chưa ngự trị, hạnh phúc vẫn không tới, người ta đã buông xuôi theo sự chán nản ngày càng lớn hơn, họ thất vọng và phủ định ngay cả việc dùng tri thức làm công cụ để đạt được sở nguyện thống khoái. Có một hiện tượng ai cũng biết: chẳng có hành động nào không có sự đáp trả, và chúng ta đang góp mặt vào sự mệt nhọc không thể tránh khỏi vốn là đặc điểm của những cuộc hành trình kéo dài: mọi người ngồi xuống vệ đường và, trong khi ngắm nhìn bình nguyên bao la của thế kỉ tương lai đang mở rộng trước mắt, mất hết hy vọng một lúc nào đó sẽ tiến tới đích, thậm chí, người ta nghi ngờ ngay cả con đường đã đi qua, người ta tiếc nuối vì đã không ngả mình trên đồng cỏ mà thiếp đi trong giấc ngủ vĩnh hằng của nó. Đi tới đâu, nếu cái đích vẫn mãi mãi xa ngái? Cứ dừng lại ở sự giản dị thuần khiết, ở sự dốt nát đầy hạnh phúc của một đứa trẻ hẳn là sẽ tốt hơn. Bởi thế, mọi người cảm thấy rằng khoa học, tuồng như từng hứa hẹn mang lại hạnh phúc, đã hoàn toàn phá sản trong mắt chúng ta.
Nhưng có đúng là khoa học đã hứa hẹn mang lại hạnh phúc? Tôi không nghĩ nó đã hứa như thế. Nó hứa hẹn mang lại chân lí, và vấn đề là ở chỗ, liệu chân lí có làm ra hạnh phúc hay không? Để bằng lòng với chân lí, dĩ nhiên, cần có đức kiên trì thật lớn, phải từ bỏ hoàn toàn “cái tôi” của mình, cần có sự sáng láng của một trí tuệ đã đầy chỉ có thể bắt gặp ở giới thượng lưu. Trong khi đó, tiếng kêu gào thất vọng giữa nhân loại đau khổ đang vang lên mới thảm thiết làm sao! Làm thế nào để sống không có dối trá và ảo tưởng! Nếu ở đâu đó không có một thế giới khác, nơi công lí luôn ngự trị, kẻ giàu có bị trừng phạt và người nhân hậu được ban thưởng, thì làm sao để sống chót đời người gớm ghiếc kia ma không nổi đoá lên? Tạo hoá thì bất công và nghiệt ngã, khoa học tuồng như đang dẫn dụ chúng ta đến với quyền năng của kẻ mạnh, cho nên mọi thứ luân lí đều bị huỷ hoại và xã hội nào rồi cũng dẫn tới chuyên chế. Vậy nên, trong sự phản ứng đang diễn ra, trong cái mệt mỏi vì thừa dư tri thức cũng có cả sự đầu hàng trước chân lí được luận giải vẫn còn tồi tệ và có vẻ như nghiệt ngã trong con mắt chúng ta, những đôi mắt chưa thể hiểu thấu và thâm nhập vào mọi quy luật. Không, không, chúng ta sẽ quay về với giấc ngủ bình yên của sự dốt nát! Thực tại là trường học đồi bại, phải giết cho nó chết đi và phủ nhận nó, vì thực tại chỉ là sự quái gở và tội ác, nên mọi người lại chìm đắm vào mơ mộng, nên chẳng có cách cứu rỗi nào khác ngoài việc trốn khỏi mặt đất, tin vào kiếp sau và hy vọng rằng ở đó, cuối cùng, nhu cầu về tình hữu ái và công lí của chúng ta sẽ được mãn nguyện.
Cái tiếng gọi hạnh phúc vô vọng ấy, giờ đây chúng ta đang nghe rõ. Nó khiến tôi xúc động khôn nguôi. Xin hãy nhớ, nó đang vang lên khắp nơi giống như tiếng thét gào thảm thiết giữa cơn sấm sét chuyển rung của nền khoa học không sao hãm nổi những bánh xe và các cỗ máy của mình. Chúng tôi đã ngán ngẩm sự thật, hãy để cho chúng tôi được ảo tưởng. Chúng tôi sẽ được bình tâm khi ước mơ về những gì không có, khi chúng tôi hướng về cõi vô cùng: nơi đó chỉ nở nộ những đoá hoa thần bí, mùi hương của chúng sẽ xoa dịu nỗi đau của chúng tôi. Hẳn là âm nhạc đã trả lời, văn học muốn làm mãn nguyện những khát khao mới, hội hoạ đang thích nghi với mốt tân kì. Tôi vừa nói với các ngài về cuộc triển lãm ở Champ de Mars: các ngài sẽ thấy ở đấy loài thảo mộc của hội hoạ cổ đại nở rộ trên các ô trống, những thánh mẫu gày gò và yếu ớt, những bóng ma trong màn tối ảm đạm, những gương mặt cứng nhắc với điệu bộ vô hồn của những kẻ ngây ngô. Đó là phản ứng chống lại thứ chủ nghĩa tự nhiên đã chết và đã được mai táng,- người ta vẫn nói với chúng ta như thế. Vô luận thế nào, không thể phủ nhận sự phát triển, bởi vì nó bao trùm mọi biểu hiện của tinh thần, phải tính tới nó, phải nghiên cứu nó, nếu không muốn thất vọng về ngày mai.
Mặt khác, thưa các ngài, là nhà thực chứng thâm căn cố đế và đã già, tôi thấy đó chỉ là điểm dừng không thể tránh khỏi trong sự vận động tiến về phía trước. Điểm dừng thật ra là không có, vì rằng các thư viện, phòng thí nghiệm, các hí trường và học đường vẫn chẳng bao giờ vắng người. Điieù gợi dậy niềm tin trong tôi còn là nền tảng xã hội không thay đổi, nó vẫn là nền tảng dân chủ đã sinh ra thời đại chúng ta. Muốn một nghệ thuật mới phát triển rực rỡ, muốn một tín ngưỡng mới làm thay đổi xu hướng phát triển của nhân loại, tín ngưỡng ấy cũng cần một nền tảng mới hợp với sự sinh trưởng của nó, thế nên, nếu thiếu một nền tảng mới, sẽ không thể có một xã hội mới. Đức tin không thể cải tử hoàn sinh, mà chỉ có thể tạo ra huyền thoại từ những tôn giáo đã chết.
Bởi vậy, thời đại sau chỉ là sự kiến lập của thời đại chúng ta trong cao trào dân chủ và khoa học từng lôi cuốn chúng ta và vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những gì tôi có thể bỏ qua, ấy là trong văn học, chúng ta đã khép chặt tầm nhìn một cách thái quá.
Bản thân tôi đã hối hận vì từng là tín đồ theo môn phái muốn trong nghệ thuật chỉ bám chặt vào những chân lý vừa được kiểm chứng. Những người vừa mới đến lại mở ra nhiều viễn tượng qua việc chiếm lĩnh sự bí ẩn và cái chưa ai biết, và họ đã làm việc thật tuyệt vời. Giữa những chân lí do khoa học tạo lập và nhờ thế mà trở nên vững chắc với những chân lí mà khoa học mai ngày sẽ đào bới từ lãnh địa của cái chưa biết để rồi sau đó định hình chúng có một khu vực vô định của những hoài nghi và dò tìm mà tôi có cảm giác, nó thuộc về văn học bao nhiêu thì cũng thuộc về khoa học bấy nhiêu.
Chính ở khu vực này đây chúng ta hoàn toàn có thể tạo cho mình sự nghiệp của những trang thiếu niên tiên tiến bằng cách lí giải tác động của những mãnh lực bí ẩn theo đặc điểm của mình và sức mạnh của trí tuệ. Chân lí chẳng phải là gì khác mà chính là cái không thể cắt nghĩa, là những mãnh lực của thế giới vô cùng mà chúng ta vẫn ngụp lặn trong đó nhưng không biết gì về chúng. Vả lại, nếu chúng ta nghĩ ra kế sách để lí giải cái chưa biết, thì chả lẽ chúng ta lại cho phép bản thân hoài nghi những quy luật đã được khám phá, hình dung những quy luật ấy là một cái gì khác và lấy đó để phủ nhận chúng hay sao? Rõ ràng là lí tưởng đang lùi dần theo mức độ tiến lên của khoa học, và thiết nghĩ, hình như ý nghĩa duy nhất của cuộc đời, niềm vui duy nhất mà chúng ta cần tìm thấy trong cõi nhân sinh nằm ngay ở công cuộc chinh phục chậm rãi ấy, dù rằng ai cũng đã tỏ tường điều đích thực rất buồn của cái mà chúng ta không bao giờ hiểu hết.
Thưa các ngài, ở thời đại tù mù mà chúng ta đang sống, ở thời đại biết bao thoả thuê lạc thú, biết bao kiếm tìm, lại thấy xuất hiện các đấng chăn dắt linh hồn, những người rất quan tâm và nhiệt thành đem đức tin chào mời tuổi trẻ. Lời chào mời thật độ lượng, nhưng chỉ tiếc, tín ngưỡng này bị thay đổi và bóp méo cho hợp với nhà tiên tri đang chào mời nó. Tín ngưỡng có nhiều loại, nhưng tôi không cảm thấy bất kì loại nào trong số ấy có đôi chút sáng tỏ, đôi chút minh định. Người ta khẩn cầu các ngài hãy tin tưởng mà không nói rõ phải tin vào cái gì. Có thể, không được làm như thế, mà cũng có thể, người ta không định làm như thế. Người ta mời chào các ngài tin tưởng là để các ngài có hạnh phúc được tin; cái chính, để các ngài học tin tưởng. Vấn đề tự nó chẳng có gì xấu: tất nhiên, bất luận thế nào, nương tựa vào sự đích đáng của tín ngưỡng là phúc lớn, nhưng khốn nỗi, lộc trời không thể điều khiển: ưng ở đâu, nó lùa về đấy.
Vậy thì, về phía mình, tôi sẽ kết thúc, sau khi cũng đề xuất với các ngài một tín ngưỡng, cầu xin các ngài hãy có niềm tin vào lao động. Hãy làm việc đi, hỡi những chàng trai trẻ. Tôi biết lời khuyên này có vẻ tẻ nhạt như thế nào. Chưa có hành vi công khai mà nhân đó người ta không nhắc lại lời khuyên ấy giữa sự lãnh đạm chung của những người được dưỡng dục. Nhưng xin các ngài hãy suy nghĩ về nó và tôi, vốn lúc nào cũng chỉ là người thợ, tự cho phép nói với các ngài về lợi ích mà mình đã thu hoạch từ công việc dài lâu từng choán hết cả đời tôi. Tôi bước vào đời một cách khó khăn: tôi biết cả sự thất vọng lẫn nghèo túng, sau đó tôi sống trong tranh đấu, và ngay cả bây giờ vẫn sống trong cuộc đấu tranh ấy, vẫn chịu sự phẩm bình, bị phủ nhận, nếm trải đủ mọi thứ xỉ nhục. Nhưng biết làm thế nào? Tôi chỉ có một tín ngưỡng, một sức mạnh, ấy là lao động. Nâng đỡ tôi chỉ có công việc lớn lao mà tôi đã giao phó cho bản thân, trước tôi bao giờ cũng có cái đích ở phía xa mà tôi nhắm tới,- chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để vực tôi dậy, truyền cho tôi dũng khí khi cuộc đời tồi tệ vùi dập tôi. Công việc lao động mà tôi đang nói với các ngài là lao động chính đính, thường nhật, là bài học, là nghĩa vụ đặt ra cho bản thân, dẫu mỗi ngày chỉ được một bước nhích lên trong sự nghiệp của mình. Đã bao lần vào mỗi sáng, tôi ngồi vào bàn với đầu óc bối rối, miệng đắng nghét, bị một nỗi đau lớn lao nào đó, thể chất hay tinh thần, hành hạ! Và mỗi lần, dù nỗi đau trỗi dậy, bài học tôi dành cho bản thân vẫn là sự tĩnh tâm, dưỡng tính.Tôi bao giờ cũng được an ủi khi rời công việc, với trái tim, có thể bị tổn thương, nhưng không sa sút và vẫn mạnh mẽ sống tiếp đến ngày mai.
Lao động! Thưa các ngài, hãy tâm niệm rằng đó là quy luật duy nhất của thế giới, là công cụ điều chỉnh đưa vật chất hữu cơ đến với cái đích đã biết của nó! Cuộc đời không có ý nghĩa nào khác, nguyên nhân nào khác, tất cả chúng ta sinh ra chỉ để hoàn thành phần việc lao động của mình rồi biến đi.
Cuộc đời chẳng phải là gì ngoài sự vận động liền mạch mà nó nhận lấy và để lại và từ trong bản chất, sự vận động ấy cũng không phải là gì khác mà chính là lao động, là công trình của một sự nghiệp lớn lao được thực hiện ở mọi thời đại. Vậy thì lẽ nào ta không làm người khiêm tốn và tiếp thu bài học dành cho mỗi chúng ta bằng cách lạnh lùng không nhượng bộ sự kiêu ngạo “cái tôi” lúc nào cũng xem mình là trung tâm, không chịu đứng vào đội ngũ. Thiết nghĩ, chỉ cần tiếp nhận bài học ấy, mỗi người, ngay cả những kẻ khốn khổ nhất, sẽ tìm thấy sự bình tâm. Tôi biết có những khối óc bị cái vô cùng hành hạ, lúc nào cũng đau khổ bởi sự huyền bí, tôi giao du với họ bằng tình huynh đệ, tôi khuyên họ dành đời mình cho một công trình lớn lao nào đấy mà rất hay là họ không nhìn thấy kết cục của nó. Đó là con lắc định vị mang lại cho họ khả năng thẳng bước, đó là sự bung nở ở mỗi thời khắc, là hạt giống gieo vào trí tuệ để nó xay giã nhào nặn để làm thành thực phẩm thiết yếu với ý thứ mãn nguyện của một bổn phận đã được hoàn thành. Tất nhiên, điều đó không giải quyết bất kì một nhiệm vụ siêu hình nào, nó chỉ là phương tiện trực quan dùng để sống trọn đời mình một cách trung thực hoặc gần như bình thản; nhưng chả lẽ, để có được sức khoẻ tinh thần và thể chất, tránh được hiểm hoạ của mơ mộng mà chỉ cần giải quyết vấn đề về việc chiếm lĩnh hạnh phúc lớn nhất có thể có trên trái đất này bằng lao động, thế vẫn còn ít lắm sao?
Xin thú nhận, tôi chưa bao giờ tin vào những ảo tưởng. Với mỗi con người, cũng như với các dân tộc, chẳng có gì kém bổ ích nhất như là sự nhầm lẫn: nó tiêu diệt sự gắng gỏi, nó làm cho mù quáng, nó tạo thành hư danh của những thứ èo uột. Tiếp tục bám vào các huyền thoại, nhắm mắt trước hiện thực, tin rằng chỉ cấn mơ ước về sức mạnh để trửo nên mạnh mẽ cũng là đã quá đủ,- chúng ta đã thấy, điều đó đang đưa đi dâu, dẫn tới những thảm hoạ khủng khiếp như thế nào. Người ta bảo các dân tộc hãy ngửa cổ trông lên, hãy tin vào quyền năng tối thượng, hãy hướng tới lí tưởng.
Không! Không! Đôi khi tôi có cảm tưởng, những phát ngôn như thế là hết sức trâng tráo. Một dân tộc mạnh mẽ chỉ có thể là dân tộc lao động, và chỉ có lao động mới đem lại dũng khí và đức tin. Muốn chiến thắng phải làm sao cho kho tàng được phong túc, trang bị được vững chắc và hoàn hảo nhất, binh sĩ phải được huấn luyện, phải tin vào chỉ huy và chính bản thân mình. Sẽ có được tất cả những cái đó: muốn thế, chỉ cần ước vọng và phương pháp tốt. Thời đại sau này, tương lai bao la sẽ thuộc về lao động. Hãy để mọi người không nghi ngờ điều đó. Chả lẽ chúng ta không nhìn thấy mầm mống quy luật của xã hội tương lai, quy luật ai cũng lao động, lao động là người giải phóng và người hoà giải trong chủ nghĩa xã hội đang lên hay sao?
Hỡi thanh niên, những người trẻ tuổi, xin hãy bắt tay ngay vào công việc. Hãy để mỗi người trong các ngài nhận lấy bài học cần thấm đượm cuộc đời của mình. Công việc này dẫu khiêm tốn thế nào, thì nó vẫn có ích; dù có là cái gì, thì nó cũng chỉ nâng đỡ các ngài. Khi các ngài chấn chỉnh công việc không mệt mỏi bằng cách tạo ra một khối lượng vừa với sức sản xuất hàng ngày của các ngài, nó sẽ mang lại cho các ngài khả năng sống lành mạnh và vui vẻ, cứu các ngài thoát khỏi nỗi thống khổ của cái vô cùng. Xã hội mà mỗi thành viên đều góp vào đó phần lao động hợp lí của mình là xã hội của những con người lành mạnh và vĩ đại biết bao! Người lao động bao giờ cũng nhân hậu. Bởi thế, tôi tin rằng, tín ngưỡng duy nhất có thể cứu các ngài là niềm tin vào sự nỗ lực hoàn thiện. Ước mơ về cái vĩnh hằng là tuyệt vời, nhưng với người lương thiện, thì được sống trọn đời sau khi hoàn thành sự nghiệp của mình, thế là mãn nguyện lắm rồi.
*
Ngài Zola không tán thành ý kiến cho rằng các ông thầy mới của thanh niên đang mời chào họ tin vào một cái gì đó mập mờ và mơ hồ; và ở điểm này, ông ấy hoàn toàn có lí, nhưng chỉ tiếc, về phần mình, ông cũng đề xướng với họ một tín ngưỡng và tín ngưỡng nhắm tới một cái gì đó còn mập mờ và mơ hồ hơn nhiều: tín ngưỡng khoa học và lao động.
Ngài Zola cho rằng, dường như đã giải quyết xong xuôi và chẳng còn gì phải nghi ngờ đối với câu hỏi: thứ khoa học mà người ta phải luôn tin tưởng là gì. Hãy lao động vì khoa học! Nhưng vấn đề ngay ở chỗ này là chữ “khoa học” có ý nghĩa rất rộng và ít xác định, nên cái được những người này xem là khoa học, tức là công việc tối quan trọng, thì những người kia, khối người đông đảo nhất, toàn thể dân thợ thuyền lại xem là những trò ngu ngốc vô bổ. Cũng không thể nói có chuyện như thế là do sự thất học của dân thợ thuyền, những người không hiểu được ý nhĩa sâu xa của khoa học: bản thấn các học giả cũng thường xuyên phủ định lẫn nhau đấy thôi. Nhiều học giả cho rằng, khoa họ chỉ gồm các môn triết học, thần học, luật học, kinh tế - chính trị học; những học giả khác - các nhà khoa học tự nhiên - lại xem tất cả những bộ môn ấy chỉ là thứ rỗng tuếch, phi khoa học. Ngược lại, những gì được cánh thực chứng xếp vào loại khoa học quan trọng nhất thì lại bị các tín đồ của chủ nghĩa duy linh, các nhà triết học học, thần học xem là những việc nếu không có hại, thì cũng là vô bổ. Vả lại, trong cùng một lĩnh vực, bất kì hệ thống nào,giữa đám người phụng sự bao giờ cũng có những người ủng hộ và những kẻ chống đối quyết liệt, đều sành sỏi như nhau, nhưng khẳng định những điều trái ngược. Hơn nữa, trong mỗi lĩnh vực thường xuất hiện những quan điểm khoa học, sau một thời gian tồn tại, có khi một năm, đôi khi là mười năm, những quan điểm ấy bỗng hoá ra là sai lầm và nhanh chóng bị lãng quên bởi chính những người đã tuyên truyền chúng.
Bản thân chúng ta đều biết, cái được xem là khoa học tuyệt đối và là công việc rất quan trọng với người La Mã, dân La Mã tự hào về nó, thiếu nó, con người bị xem là man rợ - chính là mĩ từ pháp, tức là loại bài tập mà giờ đây chúng ta chế nhạo, chẳng những chúng ta không xem là khoa học, mà còn cho là trò nhảm nhí. Chúng ta cũng biết, cái được xem là khoa học và là công việc quan trọng nhất ở thời trung đại là khoa học kinh viện, loại khoa học mà giờ đây chúng ta cũng chế nhạo như thế. Và tôi nghĩ, chẳng cần phải có tư tưởng táo bạo gì cũng có thể tiên đoán, trong khối tri thức khổng lồ được thời đại chúng ta xem là công việc quan trọng và gọi là khoa học, thể nào cũng có những thứ mà sau này, khi đọc những đoạn miêu tả thái độ nghiêm túc của chúng ta trong việc nghiên cứu tu từ học và triết khọc kinh viện của mình, - tức là những bộ mộn được xem là khoa học ở thời đại chúng ta, lớp hậu bối chắc chắn cũng sẽ nhún vai.
Ở thời đại chúng ta, nhiều người, sau khi được giải thoát khỏi một loạt dị đaon mà vẫn không biết, lại rơi vào những dị đoan khác cũng vô ý thức và độc hại chẳng kém gì những thứ họ vừa được giải thoát. Vừa được giải thoat khỏi những dị đoan của các tôn giáo lỗi thời, người ta lại rơi vào các dị đoan khoa học. Thoạt nhìn, có vẻ như không thể có sự tương đồng giữa niềm tin của một người Do Thái cổ đại cho rằng thế giới được tạo ra trong sáu ngày, tội lỗi tổ tông sẽ bị trừng phạt ở thế hệ con cháu, có thế cho rắn nhìn để chữa lành một số bệnh, với niềm tin của con người ở thời đại chúng ta cho rằng, thế giới ra đời từ sự vận động của vật chất và sự đấu tranh giữa các chất, tội ác có cội rế ở di truyền và có những loại vi sinh tồn tại dưới dạng phẩy khuẩn, nhiều bệnh tật sinh ra từ đó… Dường như chẳng có gì tương đồng giữa những tín ngưỡng như thế, nhưng đó cũng chỉ là dường như mà thôi.
Chỉ cần hình dung qua tưởng tượng tình trạng trí tuệ của người Do Thái cổ đại khi anh ta được đám tư tế rao rảng cho mình các tín ngưỡng, ta sẽ thấy rõ, cơ sở tiếp nhận các luận điểm về nguồn gốc thế giới của anh ta và cơ sở để mọi người ở thời đại chúng ta tiếp nhận nhiều loại quan điểm khoa học không chỉ giống nhau, mà còn đồng nhất hoàn toàn.
Những người Do Thái thật ra chẳng tin câu chuyện về sự sáng thế trong sáu ngày và rắn chữa bệnh, mà tin rằng có những người biết rành rẽ chân lí tối cao dễ hiểu với con người, và vì thế mà họ sẵn lòng tin những người ấy, hệt như thế, con người ở thời đại chúng ta cũng không tin thuyết di truyền của Darwin và phẩy khuẩn, mà tin vào tất cả những gì được trao thay cho chân lí từ các tín đồ của khoa học mà cơ sở hoạt động của họ mãi mãi là bí ẩn đối với những người tin họ, cũng giống như cơ sở tri thức của những kẻ chỉ đường dẫn lối cho người Do Thái mãi mãi là bí ẩn với người Do Thái.
Tôi dám bạo gan nói về điều mà thậm chí đã nhiều lần chỉ ra, rằng đám tư tế ở thời cổ đại, do không bị ai kiểm soát ngoài các vị tư tế của mình, đã liều lĩnh đánh lừa và mạo nhận những gì vừa nẩy ra trong đầu là chân lí, nó cũng giống như cái mà những người được gọi là giới khoa học thường xuyên vẫn làm.
Toàn bộ bài phát biểu của ngài Zola đều nhằm chống lại những ông thày đang kêu gọi thanh niên quay về với những tín ngưỡng lỗi thời, và ngài Zola xem mình là địch thủ của họ. Thực ra, những người mà ngài Zola lên tiếng chống lại, tức là những người đang tin, hay đúng hơn là đang muốn tin vào thứ tôn giáo lỗi thời, và những người mà ông ấy đang chiến đấu để bảo vệ, tức là các đại biểu của khoa học,- là những người cùng một phe; vả lại, nếu ông ấy hiểu rõ hơn một chút những ước muốn của mình thì ông ấy chẳng còn gì để tranh luận: querelles d’amoureux[1]như ngài Dumas nói. Cả những người này lẫn những người kia đều không tìm kiếm nền cốt đời sống, động lực vận động của nó trong bản thân, trong trí tuệ của mình, mà tìm ở những hình thức bên ngoài của đời sống con người: những người này thì tìm ở cái mà họ gọi là tôn giáo, những người kia lại tìm ở cái được gọi là khoa học. Đám người này, những người tìm kiếm sự giải thoát trong tôn giáo, nhận được sự cứu rỗi từ truyền thuyết về tri thức cổ đại của những người khác và muốn tin vào tri thức cổ đại xa lạ ấy; đám người kia, những người tìm kiếm sự giải thoát trong cái mà họ gọi là khoa học, khai thác nó không phải từ vốn tri thức của mình, mà từ tri thức của những người khác và tin vào những tri thức xa lạ ấy. Đám người này nhìn thấy sự cứu vớt nhân loại ở Ki-Tô giáo đã được chỉnh đốn, đổi mới, tinh chế thành thứ bán Do Thái giáo, nửa đa thần giáo; đám người kia nhìn thấy sự cứu vớt ấy ở toàn bộ những tri thức ngẫu nhiên, rời rạc, vô bổ nhất mà họ gọi là khoa học và xem nó là cái gì đó hữu hiệu - độc đáo, ưu việt và vì thế nó là cái có thể sửa chữa mọi khiếm khuyết của đời sống và mang lại cho nhân loại lợi ích cao nhất có thể đạt được. Đám người này dường như cố ý không nhìn thấy cái mà họ muốn phục hồi và gọi là tôn giáo chỉ là tổ kén rỗng mà bướm đã bỏ lại, bay đi từ lâu và đang đẻ trứng ơ chỗ khác, và rằng, sự khôi phục một tôn giáo như thế chẳng những không thể giúp làm giảm bớt, mà có thể còn làm tăng thêm hiểm hoạ của thời đại chúng ta, bởi nó làm mọi người xao nhãng những công việc đích thực. Đám người khác không muốn nhìn thấy cái mà họ gọi là khoa học - vốn là sự tập hợp ngẫu nhiên của một số tri thức được một số người nhàn rỗi hiện nay quan tâm - có thể trở thành trò tiêu khiển vô hại dùng để giết thời gian dành cho những kẻ giàu có, hoặc may lắm, thành công cụ của cái thiện hoặc cái ác, có điều, bất luận là trong tay ai, tự bản thân, nó không thể thay đổi được gì cả. Mà thật ra, tự đáy lòng, cả những người này, lẫn những người kia, chẳng ai tin vào tính thực tế của phương thuốc mà người ta đề xuất: tất cả bọn họ đều chỉ muốn dùng một cái gì đấy che mắt mình và mắt mọi người để khỏi nhìn thấy cái cái vực đang chắn ngay trước mặt nhân loại mà nó tất sẽ ngã nhào xuống đó nếu đi tiếp con đường của mình. Những người này thì nhìn thấy cách thức quên lãng ở chủ nghĩa thần bí, ở tôn giáo, những người kia, mà đại diện là Zola, lại tìm thấy nó trong tác động làm mụ mị của lao động đối với khoa học. ,
Sự khác nhau giữa những người tin vào tôn giáo và tin vào khoa học chỉ là ở chỗ, những người này thì tin vào sự thông thái xưa cũ mà sự dối trá của nó đã bị bóc trần; còn những người kia thì tin vào sự thông thái mới mẻ mà sự dối trá của nó vẫn chưa bị vạch mặt và nhờ thế, nó vẫn gợi dậy ở một số người ngây thơ tâm trạng xốn xang đầy sùng mộ. Kì thật là, cái được gọi là khoa học vị tất đã kém phần mê tín dị đoan hơn so với cái được gọi là tôn giáo. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ, một đằng là sự mê tín cái đã qua, một đằng là sự mê tín cái hiện tại.
Có một nhà triết học không mấy nổi tiếng của Trung Hoa là Lão Tử (bản dịch đầu tiên và cũng là bản dịch tốt nhất cuốn Đạo đức kinh của ông do Stanislas Julien thực hiện). Bản chất học thuyết của Lão Tử là tư tưởng cho rằng, mỗi cá nhân, đặc biệt là toàn thể nhân quần, có thể tìm thấy sự an lạc tuyệt đối thông qua việc tri “đạo” - một khái niệm được dịch là “con đường, đức hạnh, chân lí”; chỉ có thể đạt được sự tri “Đạo” bằng cách vô vi, “le non agir” như Julien đã dịch khái niệm ấy. Theo học thuyết của Lão Tử, mọi bất hạnh của con người không hẳn là sinh ra từ chỗ họ không làm những việc cần làm, mà chủ yếu là bắt nguồn từ chỗ họ toàn làm những việc không cần làm. Bởi vậy, con người sẽ tránh được những hiểm hoạ, nhất là những hiểm hoạ xã hội mà triết gia Trung Hoa đặc biệt lưu ý, nếu biết tuân thủ vô vi (s’ils pratiquaient le non agir).
Tôi cũng nghĩ là Lão Tử hoàn toàn có lí. Hãy cứ để từng người sốt sắng làm việc. Thế thì làm sao nào? Nhà đầu tư chứng khoán, ông chủ nhà băng trở về từ sở giao dịch, nơi ông sốt sắng làm việc, viên đại tá trở về từ nơi huấn luyện người ta giết người, chủ xưởng trở về từ xí nghiệp, nơi hàng nghìn người đang huỷ hoại đời mình bởi việc sản xuất gương kính, thuốc lá, rượu cồn. Tất cả những người ấy đang làm việc, nhưng chả lẽ có thể cổ xuý cho công việc của họ?
Nhưng có lẽ chỉ cần nói riêng về những người làm việc phục vụ cho khoa học.
Tôi thường nhận được vô khối những cuốn vở, thường có cả sách với những công trình nghệ thuật và khoa học từ nhiều tác giả khác nhau.
Một người giải quyết triệt để vấn đề nhận thức luận Ki-Tô giáo, người khác in một cuốn sách về lớp Ete vũ trụ, người thứ ba giải quyết vấn đề xã hội học, người thứ tư - vấn đề chính trị, người thứ năm - vấn đề Đông phương học, người thứ sáu xuất bản một tạp chí nghiên cứu các sức mạnh bí ẩn của tâm linh và tự nhiên, người thứ bảy giải quyết vấn đề về ngựa.
Tất cả những người ấy đều làm việc phục vụ khoa học một cách sốt sắng và không mệt mỏi, nhưng tôi nghĩ, thời gian và công sức không chỉ của các cấy bút ấy, mà còn của nhiều người khác, chẳng những mất toi, mà còn có hại nữa. Có hại bởi trước hết, để chuẩn bị cho sự viết lách ấy, hàng nghìn người phải làm giấy, đúc khuôn, sắp chữ, in ấn và tệ nhất là phải lo cái ăn, cái mặc cho tất cả những người lao động khoa học của mình; thứ đến, đám người viết lách kia lẽ ra phải cảm thấy có lỗi trước xã hội, không cảm thấy có lỗi sao được, nếu như họ đánh bài hay chơi trò đuổi bắt, đằng này, họ vẫn cứ bình tâm tiếp tục làm cái công việc chẳng ai cần đến của mình.
Ai chẳng biết những người không thể cứu vãn chân lí và thường tàn nhẫn bao giờ cũng bận tới mức chẳng có lúc nào - cái chính là chẳng có lúc nào, để tự hỏi, công việc mà họ đang làm sốt sắng đến thế liệu có cần cho ai đó, hay liệu có hại hay không. Các ngài nói với họ: “Công việc của quý vị vô bổ hoặc có hại vì như thế, vì như thế, quý vị hãy chờ đấy, chúng ta sẽ phân xử công việc”; họ sẽ không nghe các ngài đâu, thậm chí còn phản đối với thái độ hài hước: “Sẽ tốt để các ngài đàm luận khi chẳng có việc gì làm, còn tôi thì đang bận nghiên cứu cái mà nhà văn nọ đã dùng từ kia để gọi không biết bao nhiêu lần, hoặc bận xác định các dạng thức của nguyên tử, hay hiện tượng thần giao cách cảm” v.v…
Nhưng ngoài điều đó, từ lâu, bao giờ tôi cũng sửng sốt trước một ý kiến kì cục từng được khẳng định rộng rãi ở Tây Âu, rằng lao động là cái gì đó tựa như đức hạnh, và từ rất lâu trước khi đọc được ý kiến được trình bày rõ ràng trong bài phát biểu của ngài Zola, tôi đã nhiều lần ngạc nhiên với ý nghĩa lạ lùng được gán cho lao động ấy.
Quả là chỉ con kiến trong ngụ ngôn như một bản thể không có lí trí và ý muốn hướng thiện là có thể nghĩ rằng, lao động là đức hạnh và có thể hãnh diện vì lao động.
Ngài Zola nói rằng, lao động làm con người trở nên nhân hậu; tôi bao giờ cũng thấy điều ngược lại: lao động tự giác, niềm hãnh diện kiểu kiến với lao động của mình chẳng những làm cho kiến, mà còn khiến cả con người trở nên tàn bạo. Néron và Piot đệ Nhất bao giờ cũng vô cùng bận rộn và lo lắng, chẳng có phút nào rảnh rỗi hoặc tiêu khiển.
Nhưng nếu như tình yêu lao động không phải là thói xấu hiển nhiên, thì dẫu thế nào, nó cũng không thể trở thành đức hạnh. Lao động ít có khả năng trở thành đức hạnh giống như thức ăn. Lao động là nhu cầu mà nếu bị tước bỏ sẽ tạo ra đau khổ, nhưng nó không thể là đức hạnh. Nâng lao động lên địa vị của cái ưu việt cũng quái gở giống như nâng thức ăn của con người lên địa vị của cái ưu việt và đức hạnh. Ý nghĩa được gán cho lao động trong xã hội chúng ta có thể đã xuất hiện chỉ như một phản ứng chống lại sự nhàn rỗi được nâng lên thành đặc điểm của sự cao quý và cho đến nay vẫn được xem là dấu hiệu thể hiện sự ưu việt trong các tần lớp giàu có và thiếu giáo dục. Lao động, sự luyện tập các bộ phận cơ thể, bao giờ cũng là thiết yếu đối với con người, chú bê lồng lên quanh cái cọc mà người ta cột nó vào đó, đám người giàu có, những kẻ chịu cực hình của môn thể dục, của đủ loại trò chơi: bài, cờ, lawn tennis’a v.v…do không tìm được cách luyện tập hợp lí hơn cho các bộ phận cơ thể cùng chứng tỏ một sự thiết yếu như thế.
Lao động chẳng những không phải là đức hạnh, mà đa phần, trong xã hội được tổ chức dối trá của chúng ta, nó còn là phương thức gây mê tinh thần giống như hút thuốc, uống rượu để tự che dấu những khuyết tật và thói xấu của đời mình.
“Khi được luận bàn với các ngài về triết học, đạo đức và tôn giáo,- tôi phải xuất bản tờ nhật báo có nửa triệu người đặt mua dài hạn, tôi phải tổ chức quân chủng, tôi phải xây Tháp Eiffel , tổ chức triển lãm ở Chicago, đào kênh Panama, viết xong tập hai mươi tám trong bộ tổng tập của mình, bức tranh và vở opera của mình”. Đừng để mọi người ở thời đại ta có cớ thoái thác công việc ổn định, vẫn thu hút tất cả bọn họ, liệu mọi người có thể sống như đang sống hay không. Chỉ nhờ dựa vào công việc rỗng tuếch và đa phần là có hại để che đậy những mâu thuẫn mà họ phải sinh sống trong đó, mọi người có thể sống như họ đang sống.
Quả là ngài Zola đã trình bày cho thính giả của mình về lao động đích thị trong tư cách của một phương sách như vậy. Ông nói thẳng: “Đó chỉ là phương pháp trực quan để sống trọn đời trung thực và dường như thanh thản. Nhưng chả lẽ như thế vẫn còn ít, chả lẽ giải quyết vấn đề hạnh phúc tối đa mà con người có thể đạt được bằng lao động để tìm thấy sức khoẻ cả thể chất lẫn tinh thần và tránh được hiểm hoạ của sự mơ mông, thế vẫn còn ít sao?”.
Lời khuyên mà ngài Zola trao cho tuổi trẻ của thời đại chúng ta là như thế.
Dumas lại nói chuyện hoàn toàn khác.
Đây là lá thư của ông gửi cho tờ Gaulois.
Thưa ngài! Ngài hỏi ý kiến của tôi về hoài bão mà ý chừng có thể tìm thấy ở tuổi trẻ học đường, về cả những cuộc tranh cãi từng xẩy ra trước và đồng thời với những biến cố ở Sorbonne. Tôi cho là về bất kì chuyện gì, mình không phát biểu ý kiến thì vẫn tốt hơn, vì biết rõ, có phát biểu cũng chẳng đi đến đâu. Những người trước kia có cùng ý kiến với chúng tôi sẽ tiếp tục bảo lưu ý kiến ấy thêm một thời gian nữa; những người đối lập sẽ ngày càng kiên trì hơn với quan điểm của mình. Tốt nhất là không tranh luận gì cả. Ý kiến giống như những cái đinh, một nhà đạo đức trong đám bạn hữu của tôi nói: càng đóng vào đó, chúng càng cắm sâu thêm.
Điều đó chẳng phải tôi không có ý kiến riêng về cái mà người ta gọi là những vấn đề lớn lao toàn thế giới và về những hình thức khác nhau được trí tuệ con người sử dụng để trong tích tắc chiếm lĩnh các đối tượng mà nó luận bàn. Ý kiến này rõ ràng tới mức và hiển nhiên tới mức khiến tôi từng nghĩ, tốt nhất là giữ nó lại trong vòng kiểm soát của cá nhân mình, chứ không có tham vọng tạo ra cái gì, phá huỷ cái gì.
Có lẽ tôi cần trở lại với những vấn đề chính trị, xã hội, triết học, tôn giáo lớn lao, và điều đó sẽ dẫn ngài đi rất xa, nếu như tôi tiếp bước theo ngài trong việc nghiên cứu những hiện tượng nhỏ mọn bề ngoài mà những vấn đề ấy gợi ra ở mỗi thế hệ mới. Quả thật, mỗi thế hệ mới bao giờ cũng xuất hiện với những tư tưởng và đam mê xưa cũ như trái đất, dù nó vẫn nghĩ rằng, trước nó không ai có như thế, bởi vì lần đầu nó chịu ảnh hưởng của những tư tưởng và những tình cảm ấy, và nó tin rằng chỉ chốc lát nữa thôi, nó sẽ cải tạo toàn bộ thế giới hiện tồn.
Đồng thời, giống như nhân loại dự định trong vòng một nghìn năm sẽ giải quyết cái nhiệm vụ lớn lao về nhân quả mà sau một nghìn thế kỉ nữa chưa chắc nó đã giải quyết xong xuôi, nếu giả thiết, điều mà tôi không nghĩ tới, là nhiệm vụ ấy có khả năng giải quyết, những chàng trai hai mươi tuổi tuyên bố, rằng trong những khối óc hoàn toàn non trẻ của mình, họ có cách giải quyết không thể bác bỏ. Và, như là chứng cớ đầu tiên ngay trong cuộc tranh luận đầu tiên, họ bắt đầu gõ vào những nơi không tán thành với họ. Từ chỗ này, liệu có cần kết luận rằng đó là dấu hiệu chứng tỏ toàn xã hội đã quay về với lí tưởng tôn giáo đang tạm thời bị lu mờ và bị lãng quên? Hay ở các tín đồ trẻ tuổi này, cái đó chỉ là vấn đề thể chất thuần tuý, vấn đề nhiệt tình của máu huyết, sức mạnh của cơ bắp; nhiệt tình và sức mạnh từng đẩy thanh niên đến với phong trào đối lập hai mươi năm trước kia? Tôi nghiêng về giả thiết thứ hai này.
Ai muốn nhìn thấy bằng chứng về sự phát triển triệt để, hay dẫu chỉ là bền vững, trong những biểu hiện của lứa tuổi tràn trề sức lực, kẻ đó sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng. Ở đó chỉ có cơn sốt của sự phát triển. Những tư tưởng mà đám người trẻ tuổi đang nhân danh để đấm đá lẫn nhau dẫu thuộc loại nào, vẫn có thể đánh cược, rằng họ sẽ trở thành những kẻ đối địch với những tư tưởng ấy, cũng như sắp tới, họ sẽ gặp lại chúng trong lớp con cháu của mình. Tuổi tác và kinh nghiệm sẽ tạo ra điều đó.
Giữa những chiến binh và địch thủ ở thời khắc hiện nay, có nhiều, rất nhiều người sớm hay muộn lại sẽ gặp nhau nơi ngõ ngách của cuộc đời, phần thì mệt mỏi, phần thì thất vọng bởi đấu tranh với thực tại, họ tay nắm tay cùng trở lại con đường lớn, buồn bã thừa nhận, rằng bất chấp xác tín trước kia của họ, trái đất vẫn tròn, vẫn quay theo hướng ấy và vẫn là những chân trời ấy đang trải dài dưới bầu trời vô tận và đóng kín như thế.
Sau khi cãi vã và ẩu đả thoả thích, người này vì tôn giáo, người khác vì khoa học, bao nhiêu người muốn chứng minh có trời, bấy nhiêu người muốn chứng minh trời không có,- ấy là hai ý kiến mà bàn về chúng, có thể choảng nhau mãi mãi, nếu quyết không hạ vũ khí cho đến chừng nào người ta chưa thể chứng minh,- họ dứt khoát nhất trí, rằng đám người này chẳng biết gì nhiều hơn so với đám người kia, nhưng họ cũng biết chắc rằng rốt cuộc, con người cần hy vọng nếu không nhiều hơn biết thì cũng phải bằng chừng ấy, rằng nó đau khổ khủng khiếp vì sự tăm tối mà nó sống trong đó, về những thứ nó thấy hứng thú hơn cả, rằng nó luôn tìm kiếm một vị thế tốt hơn cái vị thế nó đang có, và rằng, nó cần được tuyệt đối tự do tìm kiếm trong lĩnh vực triết học cách thức để có được hạnh phúc nhiều hơn.
Trước nó là cái thế giới từng có lúc nó sinh và sẽ vẫn vậy sau khi nó không còn, chính nó cũng biết, rằng thế giới này vĩnh hằng và nó muốn can dự vào sự vĩnh hằng ấy. Nếu nó được mời gọi đến với đời, nó sẽ đòi phần của mình trong cuộc sống vĩnh hằng đang bao bọc nó, khêu gợi nó, chế nhạo nó và huỷ diệt nó. Vì nó biết, rằng nó đã bắt đầu, nên nó không muốn kết thúc. Nó lớn tiếng kêu gào, nó thì thầm cầu xin cái đích thật mà nó vẫn thường để tuột vì hạnh phúc của nó , bởi với nó, tri thức đích thật là bất động và chết chóc. Bởi động cơ mạnh nhất của nghị lực con người là cái chưa ai biết, bởi nó không muốn dừng lại ở cái đích thật, nên nó mới ấp ủ những lí tưởng viển vông, và dẫu nó có chệch xa thế nào sang phía của chủ nghĩa hoài nghi, phủ định, thì do kiêu ngạo, hiếu kì, giận dữ, thời thượng, nó lại quay về với hoài bão mà nếu thiếu, nó không thể sống. Cái đó giống như cuộc cãi vã của những cặp tình nhân: chỉ trong chốc lát.
Cho nên, thường có đôi lúc mờ tối, nhưng lí tưởng của con người không bao giờ biến mất vô tăm tích. Lớp sương mù triết học trôi qua lí tưởng giống như đám mây che khuất vầng trăng, nhưng hằng nga vẫn tiếp tục hành trình của mình và từ phía sau, nó bỗng xuất hiện với vẻ đẹp nguyên sơ và chói lọi. Nhu cầu không thể kìm hãm ấy của lí tưởng trong con người lí giải vì sao con người lại tin tưởng như thế, hào hứng đến thế, chẳng hề có sự kiểm soát của lí trí khi lao vào các định thức tôn giáo khác nhau, những định thức tuy hứa hẹn mang lại cho nó cái vô cùng, nhưng lại trao cho nó cái hợp với bản chất của nó và đặt nó vào những khuôn khổ đã biết, bao giờ cũng thiết yếu ngay cả với lí tưởng.
Nhưng té ra đã từ lâu, trong mỗi trạm vận động của nhân loại, số lượng những người mới bước ra khỏi bóng tối ngày càng đông hơn, nhất là 100 năm gần đây, nhân danh lí trí, khoa học và sự quan trắc, những người này phủ định chân lí, nói rõ tính tương đối của chúng và muốn xoá bỏ các định thức từng kìm giữ họ.
Trong cuộc tranh cãi này, ai đúng? Ai cũng đúng - cho đến chừng nào tất cả còn tìm kiếm, nhưng cũng chẳng có ai - ngay khi người ta vừa bắt đầu hằm hè. Giữa chân lí tạo thành cái đích và việc nghiên cứu tự do mà ai cũng có quyền, sức mạnh chẳng có việc gì để làm, dẫu rằng vẫn có những ví dụ nổi tiếng về trường hợp ngược lại. Sức mạnh chỉ đẩy chân lí ra xa, thế là xong. Nó không chỉ tàn khốc, nó vô bổ, là cái tạo nên khiếm khuyết lớn nhất trong sự nghiệp của văn minh. Chẳng có đòn đánh nào của nắm đấm, dù nó mạnh thế nào, chứng minh được sự tồn tại hoặc không tồn tại của thượng đế.
Và, cuối cùng, dù là thế nào, cái sức mạnh đã tạo ra thế giới, vì thế giới, như tôi nghĩ, dẫu sao vẫn không thể tự kiến tạo, sau khi nhào nặn ra chúng ta bằng công cụ của mình, vẫn giữ cho mình cái quyền được biết, nó đã tạo ra chúng ta để làm gì và nó đang dẫn dắt chúng ta tới đâu? Sức mạnh ấy, bất chấp những ý đồ được người ta gán cho nó và những yêu cầu mà người ta yêu sách nó, sức mạnh ấy, có vẻ như, muốn giữ bí mật của mình và vì tôi thấy (ở đây tôi sẽ nói tất cả những gì tôi đang nghĩ), rằng nhân loại bắt đầu khước từ khát vọng thâm nhập vào đó. Nhân loại đã hướng tới những tôn giáo chẳng chứng minh được cho nó điều gì vì chúng rất rất khác nhau; hướng tới những triết học không làm nó sáng tỏ hơn vì chúng đầy mâu thuẫn, bây giờ một mình nó cố gắng tự kết thúc công việc với bản năng thô sơ và ý nghĩ lành mạnh của mình, và bởi nó sống trên mặt đất mà không biết sống để làm gì và sống như thế nào, nên nó cố gắng hưởng phúc hết mức nó có thể hưởng bằng các phương tiện mà hành tinh của chúng ta đang ban cho nó.
Mới đây, trong một bài diễn văn xuất sắc dành cho sinh viên, Zola khuyên họ dùng lao động như một loại thuốc, thậm chí là thuốc bách bệnh chống lại mọi khó khăn trong đời sống. Labor improbus omnia vincit[5].
Thuốc ai cũng biết, mà nó cũng không kém hiệu quả vì điều đó, nhưng nó đã và sẽ tiếp tục mãi mãi là cái chưa đầy đủ. Hãy mặc cho con người lao động bằng cơ bắp hoặc trí tuệ của mình, có điều, việc kiếm ăn, gây dựng cơ nghiệp hay tìm kiếm danh vọng dẫu sao vẫn không phải là mối quan tâm duy nhất của nó. Tất cả những ai giới hạn bản thân trong những mục đích như thế, khi đã đạt được, sẽ cảm thấy, nó vẫn còn thiếu một cái gì đó: vấn đề ở chỗ là dù con người làm gì, nói gì, dù người ta nói cái gì với nó, nó vẫn không chỉ là cái thân xác cần cho ăn, là trí tuệ cần dạy giỗ và phát triển, mà hiển nhiên nó còn có một tâm hồn luôn lên tiếng nói rõ những yêu cầu của mình. Chính cái tâm hồn này đây đang tồn tại trong lao động liên tục, trong phát triển không ngừng và trong khát vọng hướng tới ánh sáng và chân lí. Chừng nào nó chưa thu nhận được toàn bộ ánh sáng và chưa chiếm lĩnh được toàn bộ chân lí, chừng ấy nó vẫn còn hành hạ con người.
Và thế là, nó chưa bao giờ chiếm giữ, chưa bao giờ áp đặt quyền lực của mình với con người bằng một sức mạnh giống như ở thời đại chúng ta. Có thể nói, nó đã hoà vào toàn bộ bầu khí quyển mà thế giới đang hít thở. Một số tâm hồn cá nhân từng mong ước riêng rẽ về sự thay đổi xã hội, ít nhiều đã tìm kiếm, hô hào, xích lại với nhau, đã hợp nhất, thấu hiểu bản thân và tạo thành một nhóm, một trung tâm cuốn hút mà giờ đây những tâm hồn từ bốn phương đều hướng về đó giống những chú sơn ca bay nhào vào gương: bằng cách ấy, chúng tạo thành một tâm hồn chung, tâm hồn tập thể để từ nay về sau thực hiện chung sự thống nhất mai này một cách có ý thức, không gì ngăn cản nổi và sự tiến bộ chân chính của các dân tộc mà mới đây còn thù địch với nhau. Tâm hồn mới mẻ ấy, tôi tìm thấy và nhận ra ở những hiện tượng có vẻ như phủ định nó nhiều nhất.
Sự vũ trang kia của các dân tộc, sự đe doạ mà những đại diện của họ tạo ra cho nhau ấy, sự phục hồi đàn áp các sắc tộc nổi tiếng nọ, sự thù địch giữa những người đồng bào và ngay cả sự ngây thơ này của Sorbonne là những biểu hiện thuộc loại tồi tệ, nhưng cũng không phải là điềm dữ. Đó là những cơn co giật cuối cùng của chứng bệnh cần phải biến mất. Trong trường hợp này, bệnh tật chỉ là sự tăng cường năng lượng của cơ thể thoát khỏi tử huyệt.
Những kẻ đã sử dụng và hi vọng sẽ sử dụng lâu dài, mãi mãi những lầm lạc của quá khứ đang gắn kết với nhau nhằm mục đích cản trở mọi sự thay đổi. Hậu quả của nó chính là sự vũ trang kia, sự đe doạ ấy, sự đàn áp nọ; nhưng nếu ngài để ý chăm chú hơn, ngài sẽ thấy, rằng tất cả những cái đó chỉ là vỏ bề ngoài. tất cả những cái đó đồ sộ, nhưng rỗng tuếch.
Không có tâm hồn trong tất cả những thứ đó: nó đã đi qua chỗ khác. Tất cả hàng triệu người vũ trang hàng ngày tập dượt dưới dạng một cuộc chiến tranh tận diệt không còn căm thù những kẻ họ phải chiến đấu, và cũng không có một vị thủ lĩnh nào của họ dám liều lĩnh tuyên bố chiến tranh. Về những trách cứ thậm chí đang lây lan có thể nghe được ở bên dưới, thì từ bên trên, đã có sự cảm thông lớn lao và chân thành thừa nhận tính chính đáng của chúng bắt đầu đáp lại.
Sự thấu hiểu lẫn nhau tất yếu sẽ đến ở một thời điểm xác định và sẽ nhanh hơn chúng ta nghĩ. Tôi không biết điều đó xẩy ra liệu có phài vì sắp tới tôi sẽ lìa bỏ thế giới này và ánh sáng toả rạng từ phía chân trời chiếu rọi cho tôi đã làm tôi tối mắt, nhưng tôi nghĩ rằng, thế giới của chúng ta đã bước vào thời đại thực hiện câu nói: “Hãy yêu thương nhau”, không cần bàn xem ai đã nói những từ này: thượng đế hay con người.
Phong trào duy linh thấy rõ khắp mọi nơi, vô khối kẻ có lòng tự ái và ngây thơ định điều khiển nó, dứt khoát sẽ hợp nhân tình. Những người chưa làm gì với thái độ ôn hoà sẽ yêu nhau phát si mê, cuồng dại. Rõ ràng, lúc đầu, điều đó sẽ không tự xẩy ra. Sẽ có sự ngộ nhận, có thể cả sự đổ máu: chúng ta đã được dạy giỗ và giáo dục căm thù nhau như thế nhiều khi bởi những người có sứ mệnh dạy chúng ta về tình yêu. Nhưng bởi hiển nhiên là quy luật về tình hữu ái vĩ đại kia đến một lúc nào đó phải được thực hiện, nên tôi tin là đã xuất hiện những thời đại mà chúng ta hy vọng tràn trề, điều đó sẽ được thực hiện.
1 tháng 6 năm 1893
Sự khác nhau cơ bản giữa lá thư của Dumas và diễn văn của Zola, không kể khác biệt bề ngoài, là ở chỗ, diễn văn của Zola dành cho thanh niên và đúng là có vẻ xu nịnh họ (điều này đã trở thành hiện tượng bình thường và khó chịu ở thời đại chúng ta, giống như sự xun xoe của các nhà văn với đàn bà), thư của Dumas không gửi cho thanh niên và không nói với họ những lời đãi bôi, mà trái lại, vạch cho họ thấy sai lầm thông thường của sự tự tin thái quá, và vì chính điều đó mà nhẽ ra là khêu gợi để đám thanh niên nghĩ rằng, họ là những người tối ư quan trọng và rằng trong họ có tất cả sức mạnh, nên họ tuyệt nhiên chẳng cần phải lưu tâm làm một cái gì đó tử tế, lá thư không chỉ dạy họ, mà còn dạy cả người lớn và những người đứng tuổi rất nhiều điều,- sự khác nhau cơ bản còn là ở chỗ, diễn văn của Zola ru ngủ mọi người, kìm giữ họ trên con đường mà họ đang đứng, thuyết phục họ, rằng cái họ đang biết chính là điều họ cần biết; nhưng thư của Dumas lại đánh thức mọi người, chỉ cho họ thấy, rằng đời họ đang diễn ra hoàn toàn không giống như nó phải diễn ra, và rằng không biết điều cơ bản nhất mà họ cần biết. Dumas không mấy tin vào mê tín thời trước, cũng như dị đoan thời nay. Nhưng chính vì ông không tin cả mê tín thời trước, lẫn dị đoan thời nay, nên ông tự quan sát, tự nghiền ngẫm và nhờ thế, không chỉ thấy được hiện tại, mà còn nhìn rõ cả tương lai, giống như nó bao giò cũng được nhìn thấy bởi những người mà ở thời cổ đại từng được gọi là các đấng tiên tri thấu thị. Dẫu điều này dù có vẻ lạ lùng đến đâu với những ai khi đọc tác phẩm của các nhà văn chỉ thấy bề ngoài của sự miêu tả, chứ không thấy tâm hồn tác giả, thì bản thân ông Dumas, người từng viết “Dame aux Camelias”, “Affaire Clémenceau”[ 6]và nhiều tác phẩm khác, chính cái ông Dumas ấy giờ đã nhìn thấy tương lai và tiên đoán về nó. Dẫu điều này có vẻ lạ lùng thế nào với chúng ta, những kẻ chỉ quen hình dung nhà tiên tri trong bộ da thú rừng và sống nơi thâm sơn cùng cốc, thì sấm ngôn vẫn cứ là sấm ngôn, dù nó không được truyền đi trên đôi bờ Jordanes, mà được in trên bờ sông Seine, trong xưởng in của “Gaulois”, mà những lời của Dumas lại là sấm ngôn có thật, chứa đựng trong bản thân mọi dấu hiệu chính yếu của sấm truyền: thứ nhất, những lời nói ấy hoàn toàn trái ngược với tâm trạng chung của đám người thuộc phạm vi chúng lan truyền; thứ hai, dù vậy, những người lắng nghe lời nói ấy tự mình không hiểu vì sao lại tán thành chúng và, thứ ba, cũng là dấu hiệu chính yếu, sấm ngôn này tác động tới việc thực thi những gì được nó tiên đoán.
Mọi người càng tin nhiều hơn, rằng qua một cái gì đó bên ngoài, tác động mặc nhiên, bất chấp ý chí của họ, như tôn giáo hoặc khoa học, họ có thể làm thay đổi hay cải thiện đời mình, thì việc thay đổi và cải thiện ấy càng khó thực hiện hơn. Khiếm khuyết cơ bản trong diễn ngôn của Zola chính là ở đấy. Nhưng, ngược lại, mọi người càng tin nhiều hơn vào những gì Dumas tiên đoán,- tức là tin, rằng nhất định và chẳng bao lâu nữa sẽ xuất hiện thời đại, khi tất cả mọi người đều đắm đuối bởi tình yêu thương lẫn nhau, dâng hiến cho tình yếu ấy, tự bản thân thay đổi toàn bộ đời sống hiện tại theo ý muốn của mình, thì thời đại ấy càng đến gần nhanh hơn. Đây cũng chính là ưu điểm cơ bản trong thư của Dumas. Zola khuyên mọi người không cần đổi đời, mà chỉ cần đẩy mạnh hoạt động theo hướng đã tiếp nhận kịp thời, và bằng cách ấy, ông khích lệ họ thuỷ chung với cuộc sống của mình. Khi tiên lượng về sự thay đổi tình cảm của mọi người, chính Dumas đã khơi gọi để họ tạo ra sự thay đổi ấy.
Dumas tiên đoán, rằng sau khi nếm trải tất cả, cuối cùng - mà cũng chỉ trong một ngày rất gần, mọi người sẽ nghiêm cẩn bắt tay đưa quy luật về “tình yêu thương lẫn nhau” vào đời sống, và, như ông nói, họ sẽ đắm đuối trong tình yêu “si mê, cuồng dại”. Ông nói là đã thấy giữa những hiện tượng đang diễn ra cực kì hiểm nghèo các dấu hiệu của tình cảm yêu thương vừa mới nảy sinh ấy, thấy nhiều dân tộc được vũ trang toàn dân giờ đây không còn căm thù lẫn nhau: thấy rằng, trong cuộc đấu tranh của các giai cấp giàu có với các giai cấp nghèo khổ đang xuất hiện không phải hội mừng của người chiến thắng, mà là sự đồng cảm chân thành của người thắng trận với kẻ chiến bại, là sự bất bình và hổ thẹn trước thắng lợi của mình; thấy, điều chủ yếu, như ông nói, các trung tâm thu hút tình cảm đã được hình thành đang mở rộng và, giống như hòn tuyết, dứt khoát phải lôi cuốn về phía mình tất cả những gì sống động cho đến khi mọi sự sống động hoà nhập vào nó, và qua con đường thay đổi tình cảm, mọi cái ác đang khiến con người đau khổ sẽ bị sẽ tiêu diệt.
Tôi nghĩ, nếu bác bỏ và có thể bác bỏ sự cận kề của bước ngoặt mà Dumas tiên đoán, hoặc ngay chính khả năng lôi cuốn mọi người bằng tình yêu thương lẫn nhau, sẽ vẫn không có ai tranh luận xem, giả dụ điều đó xẩy ra thì liệu nhân loại có thoát khỏi những tai ương đang làm nó buồn phiền và đang đe doạ nó hay không. Không thể không thừa nhận, nếu con người làm được những gì hàng nghìn năm trước không chỉ Jesus, mà cả những nhà thông thái của thế giới đã phán cho họ, nói đúng hơn là, chỉ cần người ta chẳng những thương người như thể thương thân, mà cũng không làm chí ít là cho người khác cái mà họ không muốn người ta làm cho mình, nếu mọi người lấy đức vị tha thay cho thói vị kỉ, nếu lối sống cá nhân được thay bằng lối sống tập thể, giống như đám người khoa học vẫn biểu đạt cái ý nghĩa đúng như thế trong thứ biệt ngữ bỉ ổi của mình, thì cuộc đời của con người đã chuyển hoạ thành phúc. Ngoài ra, còn một điều nữa mọi người đều thừa nhận là cuộc đời vẫn tiếp diễn trên những nền tảng của cuộc đấu tranh mang tính đa thần giáo mà hiện nay nó vẫn dựa vào đó để hành, sẽ không tránh khỏi đưa nhân loại tới những thảm hoạ lớn nhất và thời khắc ấy đã đến rất gần. Mọi người đều thấy, họ càng chiếm dụng đất đai và sản phẩm lao động của nhau nhiều hơn, hăng hái hơn, thì họ càng trở nên hung hãn hơn và vì thế, không chóng thì chầy, những kẻ bị chiếm đoạt nhiều nhất tất yếu sẽ lại chiếm đoạt của bọn trộm cướp những gì từng bị chúng chiếm đoạt lâu đến thế, rồi họ còn trả thù một cách tàn bạo vì mọi sự tước đoạt đã gây ra cho họ. Mọi người từ lâu đã nhìn thấy sự phi lí rành rành đến nực cười của cuộc chạy đua vũ trang giữa các dân tộc mà nó tất yếu phải chấm dứt nếu không phải bằng những trận huyết chiến vô tận và khủng khiếp nhất, thì cũng là sự huỷ hoại và thoái hoá của tất cả mọi người đang tham dự vào vòng của những cuộc vũ trang ấy. Ngoài ra, mọi người trên hành tinh của chúng ta đều thừa nhận hoặc luật lệ Kitô giáo về tình thương yêu, hoặc luật lệ thế tục được xây dựng trên nền tảng Kitô giáo như thế về sự kính trọng đối với cuộc sống của người khác, với cá nhân và quyền năng của con người là điều thiết yếu với bản thân mình..
Ai cũng biết điều đó, dù ai cũng sắp xếp cuộc sống của bản thân trái ngược với cả lợi ích, cả sự bình yên của mình, lẫn luật lệ mà họ rao giảng.
Rõ ràng, có một nguyên nhân quan trọng nhưng bí ẩn nào đó đang cản trở mọi người thực hiện những gì có lợi cho họ, cứu họ khỏi cơn nguy biến rành rành cùng những gì họ thừa nhận là thiết yếu với bản thân, là giới luật của tôn giáo hoặc luận lí. Có đến mấy trăm năm tình yêu thương lẫn nhau được ngợi ca giữa họ và bây giờ nó được rao giảng từ hàng nghìn diễn đàn tôn giáo và thế tục khác nhau chắc hẳn không phải là để lừa dối lẫn nhau. Quả là từ lâu mọi người nhẽ ra đã phải quyết định, rằng tình yêu đồng loại là việc có ích, có lợi, là việc thiện và sẽ dựa vào nền tảng của nó mà xây dựng cuộc sống của mình, hoặc nếu thừa nhận tình yêu chỉ là giấc mơ không thể thực hiện, thì thôi, đừng nói tới nó nữa. Nhưng tất cả mọi người đều không làm thế này, mà cũng chẳng làm thế kia: họ tiếp tục sống trái ngược với tình yêu và tiếp tục ngợi ca tình yêu. Rõ ràng, họ tin rằng tình yêu là cái có thể, là hoài bão và là đặc tính vốn có của họ, nhưng họ không thể thực hiện được nó. Vì sao lại có chuyện như thế?
Mọi thay đổi lớn lao trong cuộc đời mỗi con người hoặc toàn nhân loại chỉ bắt đầu và kết thúc trong tư tưởng. Những biến chuyển bên ngoài đã diễn ra trong đời sống con người dù là thế nào, về sự bức thiết phải thay đổi tình cảm và hành vi dù được mọi người tuyên truyền ra sao, mà chừng nào những chuyển biến trong tư tưởng vẫn chưa xẩy ra, thì chừng ấy đời sống của con người cũng không thay đổi. Nhưng chỉ cần sự thay đổi diễn ra trong tư tưởng, thì nó sớm hay muộn, tuỳ vào tầm quan trọng của sự thay đổi, tất yếu sẽ xẩy ra cả trong tình cảm, trong hành động và cả trong đời sống của mọi người giống cú ngoặt của con tàu sau khi bẻ tay lái.
μ - hãy hồi tâm, hãy thay đổi cách hiểu đời sống của mình. Ngài không nói với mọi người: hãy thương yêu nhau (mãi sau này Ngài mới nói như thế với các môn đồ, những người thấu hiểu giáo lí của mình); mà nói với tất cả mọi người đúng cái điều thánh John Chrysostom, vị tiền bối của Ngài đã nói: hãy sám hối, tức là hãy hồi tâm, hãy thay đổi cách hiểu đời sống của mình, μετανοειτεετανοειτεNgay từ những lời thuyết giáo đầu tiên của mình, Jesus không bảo mọi người: phải làm thế này hay thế kia, phải có tình cảm này hay tình cảm khác; mà nói với mọi người: - hãy hồi tâm, nếu không tất cả sẽ tiêu vong, Ngài nói. Ý nghĩa cuộc sống của các ngươi không phải là làm sao để từng người tìm kiếm lợi ích riêng lẻ cho mỗi cá nhân hay lợi ích của một nhóm người nào đó, Ngài nói, bởi vì, cái lợi ích sở đắc gây thiệt hại cho những cá nhân khác, gia đình khác, dân tộc khác cũng đang tìm kiếm chính nó và bằng chính những phương cách như thế, rõ ràng chẳng những không thể có được, mà còn dẫn các người tới chỗ diệt vong. Hãy hiểu rằng, ý nghĩa đời sống của các ngươi chỉ có thể là thực hiện ý nguyện của người đã phái các ngươi đến với nó và đòi hỏi các ngươi phụng sự không phải cho mục đích cá nhân của mình, mà là mục đích nhắm tới việc tạo dựng sự thống nhất và tình yêu thương giữa tất cả các sinh linh, tạo dựng một vương quốc dưới gầm trời, khi người ta đúc kiếm thành lưỡi cày, đúc giáo mác thành liềm hái và sư tử nằm cạnh hươu con, như các đấng tiên tri đã bày tỏ. Hãy thay đổi cáh hiểu đời sống của các người, nếu không, tất cả sẽ chết, người nói. Nhưng khi ấy loài người không vâng lời Jesus và cho đến nay vẫn níu giữ cách hiểu ấy. Chính cách hiểu đời sống dối trá được mọi người níu giữ bất chấp sự phức tạp của các hình thái đời sống và sự phát triển ý thức của thời đại chúng ta ấy là nguyên nhân khiến mọi người, tuy hiểu được toàn bộ sự tốt lành của tình yêu, tất cả nguy cơ của lối sống đối lập với nó, tuy thừa nhận đó là luật lệ của trời hay của đời, rốt cục vẫn không thể theo đuổi được nó.
Kì thực là, trong thế giới của chúng ta, liệu cơ hội nào sẽ dành cho con người nghĩ rằng mục đích của đời mình nằm trong lợi ích của cá nhân mình, của gia đình, hoặc của dân tộc, thứ lợi ích chỉ thu được bởi cuộc đấu tranh quyết liệt với những người khác cũng hướng tới đó, giữa những thể chế của một thế giới luôn hợp thức hoá mọi cuộc đấu tranh và bạo lực,- đúng là phải yêu những người bao giờ cũng cản đường nó và dứt khoát phải giết chết để đạt được những mục đích nó đã đặt ra cho mình?
Để có thể diễn ra sự thay đổi của tình cảm và hành vi, trước hết phải diễn ra sự thay đổi của tư tưởng. Muốn sự thay đổi tư tưởng có thể diễn ra, con người phải dừng lại và phải chú ý tới cái mà nó cần phải hiểu. Để đám người đang cùng tiếng gào thét và tiếng các bánh xe rầm rầm lao xuống vực lắng nghe những người muốn cứu họ gào lên với họ, trước hết đám người ấy phải dừng lại. Nếu không thế thì làm sao con người có thể thay đổi tư tưởng của mình, cách hiểu đời sống của mình, một khi nó vẫn không dừng lại, vẫn cứ si mê, và lại còn thúc dục những người thuyết phục nó rằng cái đó là cần thiết tiếp tục làm việc trên cơ sở của bản thân cách hiểu dối trá về đời sống mà nó cần thay đổi?
Những đau khổ của con người xuất phát từ quan niệm giả dối về đời sống đã chín muồi tới mức, lợi ích do quan niệm đúng đắn về cuộc đời mang lại đã sáng tỏ và rõ ràng tới mức, trong thời đại của chúng ta, để mọi người thay đổi đời sống của bản thân phù hợp với quan niệm của mình, họ chẳng phải bắt đầu cái gì, không cần phải làm gì, mà chỉ cần dừng lại, thôi làm những gì họ đang làm, ngừng tập trung và suy nghĩ.
Những người thuộc thế giới Cơ Đốc giáo của chúng ta cùng ở trong một tình thế giống với tình thế của những người đang bị kéo bật khỏi vị trí do sức kéo của một trọng lực rất chỏ chỉ bởi tại họ không thể vội vã thoả thuận và không thể không nghiêng về phía đối lập.
Nếu thời trước, khi sự bất hạnh của đời sống đa thần giáo và lời ích được hứa hẹn bởi tình yêu chưa được làm sáng tỏ đúng mức, nên mọi người có thể duy trì cảnh nô lệ, chế độ áp bức, xử tử hình, chiến tranh một cách vô thức và dùng lí lẽ khôn ngoan để bảo vệ vị thế của mình, thì ở thời đại chúng ta điều đó hoàn toàn không thể xẩy ra: mọi người thời nay có thể sống theo lối sống đa thần giáo, nhưng họ không thể biện hộ cho nó.
Những người thuộc thế giới Cơ Đốc giáo cần dừng lại chốc lát trong hoạt động của mình, ngẫm nghĩ về tình thế của mình, cần ướm thử những yêu cầu của lí trí mình và trái tim mình vào hoàn cảnh sống đang vây bọc quanh họ để nhận ra rằng, toàn bộ đời sống của họ, mọi hành vi của họ là mâu thuẫn thường xuyên gay gắt với lương tri, trí tuệ và tâm hồn họ.
Hãy hỏi riêng từng người ở thời đại chúng ta xem cái gì đang dẫn dắt anh ta và anh ta thấy có cần phải dẫn dắt trong đời sống của mình hay không, hầu như ai cũng sẽ trả lời các ngài, rằng anh ta chịu sự dẫn dắt nếu không phải bởi tình yêu, thì cũng bởi công lí,- anh ta sẽ nói với các ngài, rằng, với anh ta, kẻ tự nguyện thừa nhận hoặc là sự cần thiết của giáo lí Cơ Đốc, hoặc là những nguyên tắc đạo đức thế tục dựa trên chính nền tảng Cơ Đốc giáo ấy, không cần phải có bạo lực, không cần toà án, không cần tử hình, không cần chiến tranh, và anh ta chịu phục tùng những điều kiện sống kia vì chúng cần thiết cho những người khác; nếu hỏi tiếp người thứ hai, thứ ba, hầu như tất cả đều trả lời đúng như thế. Mà tất cả bọn họ đều chân thành. Theo đặc điểm nhận thức của họ, đa số con người ở thời đại chúng ta đã từ lâu cần phải sống với nhau như một tín đồ Cơ Đốc giáo. Hãy xem, trong thực thế họ sống thế nào: họ sống như một bầy thú dữ.
Tóm lại, phần lớn những người thuộc thế giới Cơ Đốc giáo ở thời đại chúng ta đang sông cuộc sống đa thần giáo không hẳn vì họ muốn sống như thế, mà chủ yếu vì cơ chế đời sống, từng có lúc nào đấy cần thiết cho những người có nhận thức hoàn toàn khác, được giữ lại nguyên như thế và được duy trì bởi sự nhắng nhít muôn đòi của con người, không để họ có thời gian ngẫm ngợi và thay đổi nó cho phù hợp với nhận thức của mình.
Mọi người chỉ ngừng lại dẫu một thời gian, không làm cái mà Zola khuyên họ và những đối thủ tưởng tượng của ông, tất cả những ai viện cớ về sự tiến bộ chậm rãi và tiệm tiên hòng duy trì trật tự hiện hành: hãy ngừng làm mụ mị bản thân bằng những tín niệm dối trá của tôn giáo hay khoa học và , nhất là, bằng thứ lao động không ngừng đầy tự mãn dành cho những công việc mà lương tri của họ không thể biện hộ, lập tức họ sẽ thấy, rằng ý nghĩa đời sống của họ không thể nằm ở tham vọng nhắm tới lợi ích riêng biệt của cá nhân, gia đình, dân tộc hay quốc gia được tạo dựng trong cuộc đấu tranh với những người khác, họ sẽ thấy, rằng ý nghĩa duy nhất khả dĩ, hợp lí về đời sống hợp là những gì đã được Cơ Đốc giáo khai mở cho nhân loại từ 1800 năm trước.
Yến tiệc từ lâu đã sẵn sàng, và mọi người được mời đi dự tiệc cũng đã từ lâu; nhưng người mua đất, kẻ lấy vợ, người thứ ba thử bò, người thứ tư xây đường sắt, xưởng thợ, bận truyền giáo ở Ấn Độ hay Nhật Bản, giảng đạo, thông qua hay phản đối nghị định của “Home Rule”
[7]hoặc luật chiến tranh, dự thi, viết luận văn khoa học, trường ca, tiểu thuyết. Mọi người không còn bao giờ, chẳng có lúc nào để hoàn hồn, hồi tâm, nhìn lại mình và thế giới để tự vấn: mình đang làm cái gì? nhằm mục đích gì? Quả thực, cái thế lực từng sinh ra tôi cùng với bản tính của lí trí và tình yêu không thể nào sinh ra tôi với những bản tính ấy chỉ để đánh lừa, chỉ để tôi nghĩ, rằng muốn đạt được lợi ích cao nhất cho cá nhân đã chết của mình, tôi có thể tuỳ ý sử dụng cuộc đời tôi và cuộc đời của những người khác, cuối cùng, tôi tin rằng, tôi càng gắng sức làm những điều đó nhiều hơn, thì càng tồi tệ hơn với tôi, với gia đình, với dân tộc, và tôi càng lùi xa hơn khỏi lợi ích chân chính, khỏi những yêu cầu của tình yêu và trí tuệ được trao gửi ở trong tôi và không một phút giây ngưng nghỉ biểu lộ những yêu cầu của mình. Những bản tính cao nhất của tâm hồn mà tôi được ban tặng không thể chỉ để chúng, giống như gông xiềng dưới chân người tù, cản trở tôi đạt được mục đích của mình. Như thế này liệu sẽ đúng hơn chăng: cái sức mạnh, từng sinh hạ ra tôi, đã sinh ra tôi với với trí tuệ và tình yêu của mình không phải là để dành cho những mục đích ngẫu nhiên, chốc lát, bao giờ cũng đối lập với mục đích của những người khác (đó là điều nó không thể làm được, vì khi nó sinh ra tôi, cả tôi lẫn các mục đích của tôi đều chưa có), mà là để đạt được những mục đích của bản thân, để với sự hỗ trợ của nó, những bản tính cơ bản ấy của tâm hồn tôi được tạo ra cho tôi. Và bởi vậy, sẽ tốt hơn cho tôi chăng, nếu thay vì đi theo ý nguyện của bản thân và ý nguyện của người khác, điều trái với những bản tính cao cả kia và đang dẫn tôi tới hiểm hoạ, tôi vĩnh thừa nhận mục đích đời mình là thực hiện ý nguyện của kẻ đã phái tôi, atrong mọi việc và mọi lúc, bất chấp tất cả các lí lẽ khác, chỉ đi theo những chỉ dẫn của lí trí và tình yêu mà nó đã trao gửi cho tôi để thực hiện ý nguyện của nó?.
Quan niệm Cơ Đốc giáo về đời sống được gieo vào tâm hồn mỗi người ở thời đại chúng ta là như thế. Để nước chúa được thực hiện, phải làm sao cho mọi người bắt đầu yêu thương lẫn nhau không phân biệt cá nhân, gia đình, dân tộc. Muốn mọi người thương yêu nhau như thế, cần làm thế nào để thay đổi quan niệm sống của họ. Để thay đổi quan niệm sống của họ, cần làm cho họ hồi tâm, mà muốn họ hồi tâm thì trước hết họ cần phải dừng lại dù chỉ một lúc trong hoạt động nồng nhiệt nhân danh những công việc đòi hỏi phải có quan niệm đa thần giáo về đời sống mà họ đang đắm chìm trong đó; cần phải thoát thoát khỏi dù trong chốc lát cái mà người da đỏ gọi là “sansara”, thoát khỏi sự bắng sắng luôn cản trở con người nhiều nhất trong việc thấu hiểu ý nghĩa tồn tại của họ.
Ở thời đại chúng ta, tai ách của đời sống đa thần giáo, sự sáng tỏ và tính phổ biến của ý thức Cơ Đốc giáo đã đạt tới mức mà mọi người chỉ cần thôi bắng nhắng là họ sẽ lập tức nhìn thấy cái vô nghĩa trong hoạt động của mình, sẽ nhận ra quan niệm Cơ Đốc giáo tự nó là tất yếu, giống như nước tất yếu đông lại trong băng giá, như sắp tới nó chẳng động cựa gì nữa, sẽ định hình trong ý thức của họ. Chỉ cần mọi người lĩnh hội được quan niệm sống kia, thì tình yêu giữa họ với nhau, với mọi người và mọi sinh linh, giờ đang trong tình trạng bị đóng kín ở họ, dứt khoát sẽ được bộ lộ trong hoạt động của họ, giống tình yêu được bộc lộ với bản thân, với gia đình thuần tuý, với dân tộc thuần tuý theo quan niệm đa thần giáo về đời sống hiện nay.
Cũng chỉ cần tình yêu Cơ Đốc giáo nảy nở trong mọi người và trong bản thân mình mà chẳng phải mảy may gắng gỏi, những hình thức đời sống cũ sẽ tan rã và sẽ hình thành những hình thức đời sống tốt đẹp mà nếu thiếu chúng mọi người sẽ xem là trở ngại chính yếu đối việc thực hiện những gì lí trí và trái tim của họ từ lâu đã đòi hỏi.
Giá như chỉ một phần trăm cái năng lượng mà hiện nay người ta đang dốc ra để hoàn thành những công việc vật chất khác nhau, không gì có thể biện hộ và vì thế, làm mờ tâm trí họ, được mọi người sử dụng vào việc làm sáng tỏ bản thân sự giác ngộ nói trên và thực hiện những gì mà nó đòi hỏi họ, thì nước Chúa mà Ngài thỉnh cầu ở mọi người chắc đã được kiến tạo nhanh hơn và đơn giản hơn gấp bội lần so với chúng ta có thể tưởng tượng về điều đó, và chắc mọi người đã tìm thấy hạnh phúc mà họ được hứa hẹn.
Hãy tìm kiếm Nước Chúa và mọi sự thật của Người, mọi thứ còn lại, rồi các ngài sẽ có thôi.
Lev Tolstoi
9 tháng 8 năm 1893
Lã Nguyên dịch
[1] [Những cuộc cãi vã của các người tình]
[2] Lomboroso Cesare (1835 -1909): Bác sĩ tâm thần người Ý, tác giả của của luận thuyết về tội phạm bẩm sinh và là ông tổ của hướng nghiên cứu nhân học trong ngành tội phạm học và khoa học hình sự.- ND
[3] Koch R. (1843-1910): Nhà Vi trùng học người Đức, có công khám phá ra chất kích thích vi trùng lao.- ND
[4] Crookes William (1832-1919): Nhà hoá học, vật lí học người Anh, có công phát hiện chất Tali và chế ra chất Heli trong môi trường phòng thí nghiệm. Theo ông, vật chất có 4 thể: rắn, lỏng, khí và plasma (hay khí i-on hoá).- ND
[5] [lao động nhẫn nại chiến thắng tất cả.]
[6] [“Trà hoa nữ”, “Vụ án Clémenceau” ]
[7] “…nghị định của “Home Rule”: Tiếng Nga: “билль “гомруля””. “Home Rule” là phong trào đấu tranh đòi quyền tự trị của Ireland hồi cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.- ND