Những góc nhìn Văn hoá

Văn hóa học

Văn hóa học là khoa học hình thành trên vùng giáp ranh của các kiến thức xã hội và nhân văn về con người và xã hội, nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể toàn vẹn, một chức năng đặc biệt và tính tình thái (modalnost) của tồn tại con người.

Mặc dù xuất xứ của thuật ngữ văn hóa học được cho là gắn liền với tên tuổi nhà nhân học văn hóa Mỹ L.White, tên gọi đó không bén rễ được trong khoa học phương Tây, nhưng trong 2-3 thập kỷ gần đây đã bám chắc được ở nước Nga. Việc làm rõ sự tương đồng trực tiếp giữa Văn hóa học Nga với những cách phân loại các khoa học được thừa nhận ở nước ngoài là rất phức tạp, bởi vì khác với truyền thống Nga gắn khái niệm văn hóa trước hết với thực tiễn và mảng đề tài nghệ thuật và giáo dục, trong truyền thống khoa học phương Tây hiện tượng đặc biệt văn hóa được hiểu thiên về ý nghĩa xã hội-dân tộc học. Từ đây, được coi là những khoa học cơ bản về văn hóa ở châu Âu và Mỹ là: nhân học văn hóa và xã hội (theo cách phân loại Nga - là một cái gì đó trung gian giữa xã hội học, dân tộc học và tâm lý học), xã hội học thuần tuý, nhân học cấu trúc (ở Nga người ta sẽ gọi đó là ngôn ngữ học tâm lý dân tộc), lịch sử văn hóa mới (tổng hợp lịch sử lối sống với tâm lý học lịch sử dân tộc), ký hiệu học và ngôn ngữ học hậu cấu trúc (chủ nghĩa hậu hiện đại) v.v...

Văn hóa học Nga hiện đại cố gắng kết hợp các khuynh hướng và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa kể trên cùng một vài khuynh hướng khác với truyền thống Nga trong nghiên cứu lịch sử tập quán, nghiên cứu tái cấu trúc huyền thoại và văn hóa - ngữ văn, nghiên cứu các quan niệm kiểu loại lịch sử - văn hóa, với triết học và hệ tư tưởng về chức năng giáo dục của văn hóa, với các tư tưởng của triết học “chủ nghĩa vũ trụ Nga” v.v... Có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành Văn hóa học Nga là kinh nghiệm của ngành Phương Đông học Nga, giải quyết những nhiệm vụ tương tự trong việc tổng hợp các kiến thức khoa học xã hội với kiến thức nhân văn, nhưng thiên về các phác đồ thu nhỏ mang tính đất nước học hạn hẹp.

Cùng với sự mở rộng các tiếp xúc khoa học và giáo dục quốc tế đã nảy sinh vấn đề chuyển dịch tương đương thuật ngữ Văn hóa học được chấp nhận ở Nga sang các thứ tiếng châu Âu và giải thích nội dung đầy đủ của nó. Văn hóa học Nga rõ ràng rộng hơn Nhân học (Anthropology) phương Tây, nhưng không bao trùm toàn bộ khái niệm Nhân văn (Humanitaria). Những định nghĩa kiểu Cultural research hoặc Cultural studies chính xác hơn về mặt hình thức, nhưng ít giải thích được gì về bản chất. Cho đến nay vấn đề diễn giải quốc tế Văn hóa học Nga vẫn chưa được giải quyết.

Sự đa dạng các định nghĩa khoa học và triết học hiện hành trên thế giới về văn hóa không cho phép viện dẫn khái niệm này như là cách biểu thị rõ ràng nhất về khách thể và đối tượng của Văn hóa học, và đòi hỏi một sự cụ thể hoá nó hẹp hơn và rõ ràng hơn: “văn hóa, được hiểu như...”. Do đó văn hóa, với tư cách khách thể nhận thức của Văn hóa học, có thể biểu thị như kinh nghiệm xã hội - lịch sử của con người thông qua việc chọn lọc, tích luỹ và áp dụng những hình thức hoạt động và tác động lẫn nhau, những hình thức ấy ngoài tính hiệu quả thực dụng còn được tiếp nhận đối với các tập thể người nhờ giá trị và các kết quả xã hội của chúng, được lựa chọn trên cơ sở phù hợp với tiêu chí không làm hại cho sự đoàn kết xã hội của các cộng đồng, và được củng cố trong hệ thống các giá trị văn hóa, các quy tắc, chuẩn mực, truyền thống v.v., có nghĩa là một hệ thống “các khế ước xã hội” nhất định, đảm bảo trực tiếp hoặc gián tiếp đặc tính tập thể của hoạt động sống của con người. Kinh nghiệm văn hóa - xã hội này được thể hiện trong hệ thống các qui định có tính điều chỉnh trực tiếp - các phong tục, đạo luật, tôn pháp, luân lý và đạo đức, nghi thức v.v...; được vật thể hoá trong các đặc điểm đặc thù của công nghệ và sản phẩm (các kết quả) hoạt động của con người nhằm thỏa mãn các quyền lợi và nhu cầu của cá nhân hoặc tập thể (xác định các phương thức được chấp nhận trong xã hội đó để thực hiện hoạt động nào đó và các tham số của kết quả thu được trong hoạt động ấy) ; là nội dung cơ bản của mọi thể loại giao tiếp giữa người với người và hình thành các đặc điểm ngôn ngữ và “mã văn hóa” của loại giao tiếp đó; xác định nội dung và hệ phương pháp của quá trình xã hội hoá và nhập thân văn hóa của cá nhân con người; phản hồi và diễn giải trong các “văn bản văn hóa” của triết học, tôn giáo, các khoa học xã hội và nhân văn, văn học và nghệ thuật, tư duy xã hội, luật pháp và hệ tư tưởng, nghi lễ và nghi thức v.v...; được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác dưới dạng truyền thống, phong tục, định hướng giá trị, phép tắc v.v...; là cơ sở nội dung của các quá trình tái sản xuất xã hội của cộng đồng, các đặc điểm lịch sử - cụ thể mang tính địa phương trong các hệ thống và cấu hình văn hóa của chúng. Đó chính là văn hóa mà ở ý nghĩa đó Văn hóa học nghiên cứu nó.

Trong trường hợp này đối tượng nghiên cứu của Văn hóa học là khảo cứu nội dung, cấu trúc, tính năng động và công nghệ hoạt động của kinh nghiệm văn hóa - xã hội qua các lược đồ thu nhỏ về khởi nguyên của nó, về sự lựa chọn và tích lũy, cách sắp xếp hệ thống, thực hành điều chỉnh, tính biến dị, tính biểu cảm ngữ nghĩa, về thực tiễn lĩnh hội, sự hoàn thành và vi phạm của các cá nhân vào việc tái sản xuất có tính tiêu chuẩn kinh nghiệm đó và sự phát triển sáng tạo, các phản hồi và diễn giải có tính công ước và tính tác giả v.v..., nghĩa là cuối cùng nhận thức được việc “các công ước xã hội”, vốn được tạo nên nhằm liên kết mọi người và điều chỉnh các hình thức đồng tồn tại và đồng hoạt động của họ, đã sinh ra như thế nào, hoạt động ra sao, chuyển tiếp và diễn giải hoặc tự phát hoặc có mục đích như thế nào.

Khác với phần lớn các khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu lĩnh vực này hay lĩnh vực khác trong hoạt động sống của con người, được phân biệt theo đối tượng đặc thù của hoạt động ấy, - kinh tế, luật, chính trị, quân sự, nghiên cứu nghệ thuật, sư phạm và các khoa học khác, Văn hóa học thuộc về nhóm các khoa học nghiên cứu với tư cách khách thể tất cả các hình thức và thể loại thực hành có mục đích trong hoạt động sống của con người (cả chuyên nghiệp, lẫn thông thường), nhưng ở những bình diện được xác định chặt chẽ. Nhóm này bao gồm các khoa học lịch sử (bình diện di truyền - niên đại của tồn tại tập thể con người), tâm lý học (bình diện nguyên cớ tự bộc lộ của con người), xã hội học (các bình diện cấu trúc - chức năng và vai trò - hoạt động trong tính tích cực xã hội của con người), và văn hóa học (các bình diện giá trị - điều chỉnh và giao tiếp của hoạt động sống tập thể và cá nhân của con người).

Tính chất phức hợp vừa là khách thể, vừa là đối tượng như vậy của Văn hóa học quyết định đến kết cấu cũng vô cùng phức tạp của chính kiến thức văn hóa học. Về mặt tầng bậc, trong Văn hóa học có thể chia ra hai lĩnh vực nhận thức chính: Văn hóa học thuần túy (ở nghĩa hẹp) - như một loại kiến thức tích hợp về hiện tượng toàn vẹn văn hóa trong thời gian lịch sử có thực và trong không gian tồn tại xã hội của nó - và nghiên cứu văn hóa - như tổng hoà các bộ môn khoa học riêng biệt, nghiên cứu các tiểu hệ thống riêng rẽ của văn hóa theo các lĩnh vực hoạt động chuyên môn (văn hóa kinh tế, văn hóa chính trị, văn hóa tôn giáo, văn hóa nghệ thuật và các văn hóa khác). Trong đó triết học văn hóa, như phương pháp luận để thấu hiểu bản chất siêu hình của văn hóa và để hình thành các nền tảng thế giới quan về cách hiểu văn hóa, được hàng loạt các nhà văn hóa học không đưa vào kết cấu của các khoa học văn hóa học thuần túy, mà đưa sang lĩnh vực kiến thức triết học có những mục đích nhận thức khác với các khoa học xã hội, trong đó có Văn hóa học. Dĩ nhiên, các tiêu chí phân định giới hạn ở đây là vô cùng ước lệ; không ít các nghiên cứu về mặt lý luận trong lĩnh vực văn hóa được thực hiện ở vùng tiếp giáp giữa văn hóa triết học và Văn hóa học, dựa trên phương pháp luận tổng hợp và chứa đựng trong mình các yếu tố của cả hai lĩnh vực và hai phương pháp nhận thức và phản hồi trí tuệ. Như vậy, Văn hóa học thuần túy là một khoa học hoàn toàn kinh nghiệm chủ nghĩa, nghiên cứu những hiện tượng lịch sử - cụ thể của văn hóa và phát hiện những quy luật có tính tổng hợp của sự hình thành, hoạt động và biến đổi của các hiện tượng ấy.

Cũng có thể có cách phân loại theo các khuynh hướng chính của Văn hóa học, trong đó chia ra Văn hóa học xã hội, nghiên cứu thiên về các cơ cấu chức năng, các quy trình và hình thức tổ chức và điều chỉnh văn hóa - xã hội của đời sống tập thể con người (các giá trị, quy tắc, phong tục, lối sống, công nghệ hoạt động, ngôn ngữ giao tiếp, các công cụ tái sản xuất xã hội của cá nhân và cộng đồng v.v...), và Văn hóa học nhân văn, tập trung vào nghiên cứu các quá trình và các hình thức tự nhận thức của văn hóa - các phản xạ sáng tạo bằng trí tuệ và bằng hình ảnh, các cách diễn giải những hiện tượng tự nhiên và xã hội của tồn tại, thể hiện trong các “văn bản văn hóa” bằng lời và không bằng lời khác nhau. Hai khuynh hướng này của Văn hóa học còn khác nhau rõ rệt ở phương pháp luận nhận thức chủ đạo: ở trường hợp thứ nhất là phương pháp luận giải thích - hợp lý và ở trường hợp thứ hai là phương pháp luận diễn giải - miêu tả. ở đây cần phân biệt phương pháp nhận thức thuần tuý văn hóa học, nhằm hướng tới trước hết việc tái cấu trúc có tính phân tích “các nguyên tắc chơi” (“các khế ước xã hội”, các định hướng giá trị v.v...), chúng xác định các hình thức thực hiện hoạt động sống của con người, được chấp nhận trong cộng đồng đang nghiên cứu, và hướng tới việc phân tích bối cảnh văn hóa nhằm khảo cứu các khách thể nổi trội trong môi trường lịch sử - văn hóa của chúng, nhưng trong khuôn khổ các cách tiếp cận của phương pháp luận diễn giải - miêu tả lịch sử theo truyền thống. Mặc dù đã định hình trong khoa học Nga truyền thống cho rằng chính phân tích bối cảnh văn hóa là phân tích văn hóa học, điều đó về mặt phương pháp luận là không hoàn toàn đúng đắn.

Ngoài cách phân biệt Văn hóa học dựa theo khách thể và phương pháp luận, còn có thể có cách kết cấu dựa theo các mục đích đặc thù, các lĩnh vực đối tượng và các cấp độ nhận thức và tổng kết. ở đây có vị trí trước tiên là việc phân chia Văn hóa học ra thành Văn hóa học cơ bản, nghiên cứu văn hóa với mục đích nhận thức lý luận và lịch sử về hiện tượng đặc biệt này, tạo lập hệ thống phạm trù và các phương pháp nghiên cứu v.v..., và Văn hóa học ứng dụng, định hướng đến việc sử dụng các kiến thức cơ bản về văn hóa với mục đích dự báo, lập dự án và điều chỉnh các quá trình văn hóa cấp thiết, đến việc tạo lập các công nghệ đặc biệt để chuyển tải kinh nghiệm văn hóa và các cơ chế nhằm đạt mức độ phát triển phù hợp với các tiêu chuẩn văn hóa của hình thức này hay hình thức khác trong thực tiễn xã hội. ở đây, trong khuôn khổ Văn hóa học cơ bản lại có thể chia ra những khuynh hướng tuỳ theo đối tượng đã định hình nhiều hay ít, như nhân học văn hóa và xã hội, nghiên cứu văn hóa như một hiện tượng xã hội đặc biệt và nghiên cứu tính vi mô năng động xã hội trong sự hình thành và hoạt động của các hiện tượng văn hóa; như văn hóa học lịch sử, nghiên cứu tính năng động vĩ mô trong sự hình thành và hoạt động của các “công ước xã hội” trong hoạt động sống tập thể của con người, cũng như nghiên cứu cách phân loại văn hóa - lịch sử các cộng đồng người; như nhân học tâm lý, xem xét cá nhân con người như “sản phẩm”, “người tiêu thụ” và “người sản xuất” văn hóa, cũng như nghiên cứu tâm lý học các động cơ văn hóa - xã hội, sự tự đồng nhất và tác động lẫn nhau giữa con người; như ngữ nghĩa học văn hóa, nghiên cứu các đặc điểm và chức năng ký hiệu - giao tiếp của các hiện tượng văn hóa, sử dụng các phương pháp của ngôn ngữ học và ngữ văn học để “giải mã” và tái cấu trúc các khách thể văn hóa, với tư cách các văn bản mang ý nghĩa (chính là điều mà cuối cùng đại đa số các nghiên cứu nhân văn về văn hóa hướng tới, mặc dù ngữ nghĩa học văn hóa với tư cách một ngành khoa học không chỉ hạn chế bằng các phương pháp luận nhân văn), cùng một loạt các khuynh hướng nghiên cứu văn hóa chuyên biệt hơn. Trong mỗi bộ môn của Văn hóa học cơ bản có thể tách ra vài cấp độ nhận thức và tổng kết tư liệu: cấp độ lý luận đại cương, cấp độ tiểu hệ thống khách thể, cấp độ cụ thể hoá (các hình thức có tính khuôn mẫu, chuẩn mực...), cấp độ các cổ mẫu riêng lẻ của văn hóa. Trong Văn hóa học ứng dụng cũng hình thành các hướng nghiên cứu như: quản lý văn hóa, lập dự án văn hóa - xã hội, hoạt động bảo tồn văn hóa, phục hồi văn hóa - xã hội, các bình diện văn hóa - xã hội của giáo dục, công tác giáo dục văn hóa và thời gian nhàn rỗi, nghiên cứu bảo tàng, thông tin - thư viện và công tác lưu trữ v.v...

Khác với Văn hóa học thuần túy, các khảo cứu có tính nghiên cứu văn hóa được đặc trưng ở chỗ trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào của con người, ngoài các mục đích và công nghệ đạt kết quả thực dụng chủ yếu, còn tồn tại một hệ thống các quy tắc và hiệu chỉnh có tính phi thực dụng, xác định các hình thức được xã hội chấp nhận để thực hiện hoạt động đó và tham số các kết quả của nó, xác định các ảnh hưởng mang giá trị xã hội của hoạt động đó, xác định đạo đức chuyên môn và truyền thống nghề nghiệp trong môi trường các nhà chuyên môn, kết cấu và hệ phương pháp của học vấn nghề nghiệp, các tiêu chí của tính chuyên nghiệp, các ngôn ngữ trao đổi thông tin nghiệp vụ v.v... Tổng thể các đặc điểm này tạo nên một hiện tượng như là “văn hóa nghề nghiệp” trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của thực tiễn chuyên ngành (“văn hóa kinh tế”, “văn hóa quản lý”, “văn hóa triết học” v.v...), tích lũy trong mình các tham số chủ yếu về giá trị xã hội của lĩnh vực hoạt động này, thể hiện bình diện giá trị - xã hội của nó, các tiêu chuẩn chuyên môn nắm vững công nghệ v.v..., điều này đòi hỏi phải nghiên cứu với tư cách một đối tượng độc lập cũng như giảng dạy loại “văn hóa nghề nghiệp” này cho đội ngũ cán bộ cần đào tạo.

Viễn cảnh xã hội của Văn hóa học được nhìn thấy trước hết là ở chỗ trong tiến trình của “cách mạng thông tin”, đã bao trùm nhân loại từ nửa cuối thế kỷ XX và động chạm chủ yếu đến công nghệ điều khiển các quá trình sản xuất, giao tiếp và các quá trình khác của hoạt động sống của con người, tất yếu sẽ đến giai đoạn “cách mạng” trong lĩnh vực dự báo và lập dự án, lĩnh vực ấy phải nâng hệ phương pháp điều khiển bất kỳ quá trình nào lên cấp độ hiệu quả mới. Trong số những quá trình quan trọng nhất của công việc này có cả nhiệm vụ lập dự án văn hóa và xã

hội cho công tác điều chỉnh các quá trình phát triển văn hóa - xã hội của xã hội, tính toán những tác động văn hóa - xã hội của các cách quản lý và các công nghệ đã áp dụng, duy trì sự thăng bằng kỹ thuật - nhân văn trong các hệ thống định hướng giá trị và tiêu chuẩn xã hội, tìm kiếm những phương pháp mới xã hội hoá và văn hóa hoá nhân cách con người, các phương pháp tái sản xuất xã hội hiệu quả hơn cho cộng đồng và bảo tồn các đặc điểm văn hóa đặc thù của chúng trong hoàn cảnh chung hiện đại hoá và đồng nhất hóa văn hóa - xã hội v.v... Chính để giải quyết những nhiệm vụ này mà ngày càng cần thiết hơn bao giờ hết các chuyên gia - các nhà văn hóa học có hiểu biết đầy đủ về các quy luật phát triển văn hóa - xã hội, quy luật nảy sinh và củng cố các cách tân, các phương pháp luận và phương pháp lập dự án và điều chỉnh văn hóa - xã hội, cũng như kinh nghiệm lịch sử trong cách tự tổ chức và tự điều chỉnh xã hội của cộng đồng./.

Từ Thị Loan dịch

từ Bách khoa toàn thư Văn hoá học thế kỷ XX

 

___________________

Tài liệu tham khảo

1. Phlier A. Ia. Văn hóa học hiện đại: Khách thể, đối tượng, cấu trúc // Các khoa học xã hội và thời đại hiện nay. 1997. N02.

2. Aleksandrova E. Ia., Bykhovskaia I. M. Các thực nghiệm văn hóa học. Matxcơva, 1996.

3. Orlova E. A. Dẫn luận vào nhân học văn hóa và xã hội. Matxcơva, 1994.

4. Hình thái học văn hóa: Kết cấu và tính năng động. Matxcơva, 1994

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513560

Hôm nay

233

Hôm qua

2313

Tuần này

21497

Tháng này

220433

Tháng qua

121356

Tất cả

114513560