Lý do vì sao có sự kín tiếng và im lặng lâu như thế - những 20 năm, không nói chắc mọi người đều rõ. Điều quan trọng là, từ giữa những năm 80 (thế kỷ XX), 30 năm sau khi xẩy ra sự kiện Nhân văn - Giai phẩm, cái tên Lê Đạt (chứ không phải là Đào Công Đạt) đã có thể xuất hiện trở lại; và thời điểm 1990 quả là thuận nhất, thích hợp nhất cho việc công bố một trường ca về Bác; và với nó, dẫu 20 năm đã qua, nhưng vẫn là không muộn (với Bác, đối với dân tộc ta, và các nhà thơ ta, có lẽ không lúc nào muộn) để, Lê Đạt được góp phần chia sẻ nỗi đau lớn cùng với niềm tin lớn của toàn dân tộc trong và sau ngày Bác qua đời...
Có điều cần nói thêm - năm 1970, trong khó khăn chung của đất nước, đó cũng là những năm gian khổ, vất vả nhất của Lê Đạt.
*
* *
Những ai đã quen, đã đọc Lê Đạt hơn 30 năm về trước (kể từ thời điểm 90) vẫn dễ dàng nhận ra nhà thơ trong sự chú tâm kiếm tìm những cách thức thể hiện, sao cho mới lạ, để khác người. Và là khác từ hình thức trở đi. Và nói hình thức trong quan hệ với nội dung, như cách chúng ta hiểu xưa nay - thì đó là câu và chữ; là cách ngắt dòng, cách liên kết các ý; là cách dùng hình ảnh và biểu tượng nhằm gợi một lô gích riêng - cái lô gích đối với người đọc bình thường chắc gây nhiều ngạc nhiên hơn là dễ hiểu. Tóm lại một kiểu thơ, theo lối leo thang, Lê Đạt quen sử dụng trong các bài và tập thơ trước đây, gần như đã định hình từ hơn 30 năm trước mà làm nên một dòng chảy âm thầm của nó - đòng thơ Lê Đạt.
Mở đầu Trường ca Bác là 2 câu, 6 dòng:
Mở rằm
nhớ
một ông trăng
Cái đèn
băng đen
tháng Tám
Ta nhớ ngày mất của Bác - 2 tháng 9 là vào dịp Tết Trung thu...
Tiếp đó là sự trực tả nỗi đau chung của nhân dân và lịch sử trong một cái tang lớn:
Thuở long lanh
Nước
nức
nở
Ba Đình
Sử mở
trắng tang
trang
Ta gọi
Việt Nam
Ta khóc
Bác
"Các cháu bây giờ cháu của ai?"
Và đoạn kết là cả một chùm dài, chỉ một chữ Xuân bao trùm, gồm những:
Đoàn Vệ xuân/Đoàn Giải phóng xuân/Đoàn du kích xuân/ Đoàn bạch đầu xuân/ Đoàn xung phong xuân/ Đoàn vận tải xuân.
Trai xuân gái xuân/Đoàn đoàn dân xuân
Bác/vẫn/hô xuân
Cả nước/xuân/xuân/xuân
Tiến quân/tiếng xuân
Việt Nam/mới xuân/mở xuân/sáng xuân
Quả xuân/nhớ người/trồng xuân
Ta đi/trồng xuân
Trùng trùng xuân/điệp núi/điệp sông/điệp Đồng Tháp/điệp Trường Sơn
Và câu cuối cùng:
Điệp điệp
BáC
đi
Xuân...
Cả bản trường ca gồm 626 dòng, theo lối thơ leo thang, mỗi dòng gồm từ 1, 2 đến 3, 4 chữ; thỉnh thoảng mới có dòng dài hơn, thường là một số trích dẫn lời Bác, hoặc lời thế giới viếng Bác (2)...
Vậy là nếu bắt đầu từ câu và chữ, thì ấn tượng để lại - đó là đoạn mở đầu, với băng đen, Nước, nức nở, trắng tang, lời gọi, tiếng khóc, một cảm xúc bơ vơ trong rời rạc, đứt nối của tiếc thương... Và phần kết là điệp điệp những hình xuân, ý xuân, kết nối với nhau như cả một chiến lũy xuân...
Đọc Lê Đạt, khó lòng đưa lô gích của ta để hiểu thơ ông. Cũng chẳng nên nhọc lòng đi tìm một lôgích thông thường trong thơ ông. Mà hãy thả lỏng mình để tìm đến những mảng khối của hình và ý, sau câu và chữ. Điều quan trọng là sau chữ - những chữ lạ, sau câu - những cấu trúc lạ vẫn có sự khuôn lại được những tình - của đời, và những ý - của người. Tất nhiên,sau hình và ý, đó là tình. Và với Trường ca Bác, đó là cái tình của Bác với nhân dân, và của nhân dân với Bác, trong đó có nhà thơ - Dẫu có muộn một chút, sau 20 năm; nhưng qua trường ca được viết vào ngày gĩô đầu của Bác, ta vẫn nhận ra, trong trùng điệp những người khóc và đưa tiễn Bác vào 9 giờ sáng ngày 9 tháng 9 - 1969 trên Quảng trường Ba Đình lịch sử có một Lê Đạt lặng lẽ, và có chút lủi thủi, trải được lòng mình để hòa quyện và góp phần làm nên sự sống và sức sống chung của dân tộc sau một mất mát lớn.
Đọc Trường ca Bác tôi thường chú tâm đi tìm những hình khối trong liên kết của những ý tưởng ngỡ như cách rất xa nhau:
Mây trắng đền Hùng/ Râu Bác ung dung
Suối Lê Nin/ núi Mác
Nắm đất nhỏ biên thuỳ/Bác lặn lội/nhân lên/ thành Nước/đón/Người về
Một cách ngợi ca riêng:
Từ gốc thật/lòng mình
Nhân loại/tâm tặng/Người
Huân chương/không huân chương nào/ so sánh được
Mục/Hồ CHí MINH/tập Đại Toàn thư lịch sử
Chỉ cần ghi/hai chữ/BáC Hồ
Một đúc kết về Hồ Chí Minh bằng chính lời Hồ Chí Minh.
Qua thế kỷ đảo điên/Bác điềm nhiên - sự thật
Qua hằn thù đâm giết nhau/Bác quyết liệt- nhân từ
Qua chia rẽ/Bác không mỏi/mệt
"Đoàn kết... Đoàn kết... đại đoàn kết
Thành công - Thành công - đại thành công".
...
Thấu hiểu/hơn ai
Những dối lừa/
những xấu sai/ nhân loại...
Cho đến cuối đời/ Bác vẫn
nguyên hồn nhiên - từng trải/
chắt chiu/Người tốt/Việc tốt
"Vì lợi ích mười năm/... trồng cây
Vì lợi ích trăm năm/... trồng người.”
Có rất nhiều những khối hình như thế, để đưa ta đến với chân dung Hồ Chí Minh, trong từng nét riêng hoặc trong một chỉnh thể, qua rất nhiều cân nhắc của câu và chữ:
Bác thường trực tương lai/ cửa lúc nào cũng mở
Những kẻ lạc đường/những người lỡ chậm.
Lửa/nhà sàn đầm ấm /Bác/chờ
...
Bác để lại/cho ta
Một canh cánh thiết tha/thống nhất
Một quyết tâm "to đẹp/đàng hoàng"
Bác để lại/cho ta/bốn biển/sâu xa/tình đồng chí
Bác để lại/cho ta/ tất cả/Bác Hồ.
Sau cái chết là sự sống - đó là lẽ biến hóa và trường tồn của vạn vật. Nhưng với cái chết của Bác Hồ – thì đó là một sự sống sinh sôi, đến thành trùng điệp:
Cái chết/mở/sinh/nhân/chồi
Xuân chín ồi ồi/gọi nở/gọi mở/ gọi trổ
Đồng đồng đông lúa/ Đồng đồng đông nụ/Vườn vườn đông vụ/ Trường trường đông chữ
Máy nổ... máy rộ/Hàng hàng đông cửa/Hàng hàng đông phố/Nồi nồi đông lửa/ Nhà nhà đông bữa
Cả nước nghe rất rõ:
"Người người thi đua/Ngành ngành thi đua/Ngày ngày thi đua".
Trường ca Bác 626 dòng; nhiều dòng đặt trong ngoặc đơn; nhiều dòng đặt trong ngoặc kép; một số đoạn trích Trường ca Lênin của Maiacopxki (người viết Trường ca Bác quả rất thích trường ca Lênin)... Hiểu được cách thức và mục đích tìm tòi của Lê Đạt, ta sẽ thấy sau chữ và câu, hình và ý, là sự bao trùm của một tình cảm lớn: Tình Bác - Bác đối với Dân và Dân đối với Bác, mà Lê Đạt đã gắng công thể hiện, để có một giọng riêng, trong một lịch sử hơn hai phần ba thế kỷ thơ viết về Bác Hồ.
*
* *
Nhà thơ cao niên Khương Hữu Dụng (1907-2001) đã có Lời bạt cho trường ca này. Già Khương đã dầy công phân tích cái hay của trường ca về phương diện thi pháp - với kiểu cắt dán (montage) của điện ảnh, và hệ pháp đa nghĩa (système polysémique) của thơ phương Tây; và kể rằng, trong suốt 20 năm, kể từ khi trường ca được viết cho đến khi ấn hành, cụ luôn luôn có nhu cầu đọc đi đọc lại; bởi "bài thơ như một tòa tháp nhiều tầng, nhiều hành lang... lúc nào ta cũng có thể tìm thấy một thú vị bất ngờ ở một góc nào đó chưa tới". Đọc bài của chị Đào Phương Liên viết về bố Lê Đạt (tức Đào Công Đạt) ngay sau ngày bố mất (21-4-2008) đăng trên Tuổi trẻ cuối tuần (12-4-2009): Bố ơi, những câu chuyện của con... ta biết mối tình thân giữa Già Khương và Lê Đạt; và ta hiểu sự tri ngộ, tri âm giữa hai người có cùng một khát vọng đi tìm và khảo sâu vào các vỉa, tầng của chữ; của từng chữ một với biết bao là nghĩa, để không bao giờ dùng phải chữ mòn và làm cho mòn chữ. Chuyện đó ở phương Tây là chuyện thường. Đã có một trường phái, với các thủ lĩnh là những nhà bác học, hoặc nhà thơ lớn xây dựng nên cái lý thuyết chủ trương chỉ được xem là nhà văn, những người có dụng công trau chuốt ngôn từ, chú ý tạo ra văn phong và làm nên một ngôn ngữ riêng của mình, khác với những người viết thông thường coi chữ viết chỉ là phương tiện diễn đạt các hành vi, ý tưởng. Thì đây, Già Khương - tác giả câu thơ tuyệt diệu Một tiếng chim kêu sáng cả rừng, người có một cuộc đời hoạt động rất phong phú và rất đáng kính trọng trên rất nhiều lĩnh vực suốt gần một thế kỷ, thế mà cái ước vọng cao nhất của cụ lại chỉ là:
... trọn đời khi nhắm mắt
Được câu thần cú đủ vui rồi
Và, người xứng đáng kế tiếp là Lê Đạt, vào những năm trở lại nghiệp thơ, sau 30 năm gián đoạn, sẽ là người cho in cả một tập thơ có tên Bóng chữ (1995); và lại đã có thêm một tập tiểu luận chờ in: Đường chữ. May mắn có trong tay Trường ca Bác, in năm 1990, tôi sung sướng nhận rõ một chân dung Lê Đạt , người định hình và kết nối thành một phu chữ, trong mọi thể hiện của ngôn từ về bất cứ đề tài gì. Nhưng là một trường ca về Bác, nên chữ, câu, cùng với hình, ý dường như cùng hội sức để đến với một trường cảm xúc bao trùm - đó là lòng yêu kính và ngưỡng mộ Hồ Chí Minh.
Trong bài viết trên của chị Đào Phương Liên có đoạn nhớ lại ngày 3-9 năm 1969, nhà trường hoãn khai giảng; chị hỏi bố thì được biết vì "Ông mất" - trong nghẹn ngào, rơm rớm nước mắt bố còn nói với chị, đó là "Ông của cả nước"; do vậy mà "Bố, mẹ để tang ông".
Có lẽ Trường ca Bác được bắt đầu từ đấy.
Với bài thơ này, tôi hiểu thêm Lê Đạt.
Và càng hiểu sâu thêm Hồ Chí Minh.
Thái Hà 15-16/4/2009
(1) Trường ca 43 trang cỡ nhỏ, khoảng 17,5 cm x 10 cm; gồm 33 trang in thơ; 3 trang tranh minh hoạ, và 7 trang lời bạt của nhà thơ Khương Hữu Dụng
(2) Để tránh các khoảng trống, do câu thơ leo thang, xin được dùng dấu cách (/) để chỉ sự xuống dòng.