Tóm tắt
Xin được khởi đầu với giả định đề của Lecercle cho rằng ngôn ngữ là một “vấn đề” đối với Deleuze, một kẻ giống như Beckett luôn mong muốn biểu dương các tận biên ngôn ngữ văn chương và thi ca, nhưng lại chỉ có thể làm được điều đó bằng bút. Trong “Hắn Cà lăm” Deleuze nhủ rằng các thi bút chân kinh nghiệm đều vươn tới hai trục ngôn ngữ, cú pháp và liên tưởng ban đầu, với một điểm “không hề cân bằng” khiến cho bọn đó trở nên “cà lăm”, còn các từ, giống như các nguyên tử, thì bắt đầu tự chia tách và tự kết hợp. Sau khi khai thác mô hình này cùng các quan điểm khác của Deleuze về thực tiễn tự sự Beckett trong việc “vét kiệt các khả tính logic” trong “Kẻ Kiệt lả”, kẻ viết tiểu luận này đã chỉ ra rằng mặc dù ông hết sức bác bỏ “ẩn dụ” với tư cách là một thuật ngữ gắn liền với ký hiệu học cổ điển và trong các thảo luận của ông về cách vét kiệt kiểu Beckettien và chiếc máy-langue ngôn ngữ cà lăm(làm rung động các trục hoán dụ-ẩn dụ vượt khỏi sự thừa nhận) dường như đạp đổ ký hiệu học thì diễn ngôn của Deleuze lại có vẻ hằng xuyên được ngôn ngữ ẩn dụ lèo lái. Chẳng hạn quan niệm cho rằng vượt khỏi tận biên, ngôn ngữ nín thing chính là tự thân ngôn ngữ thi ca ẩn dụ chứ không phải là loại ngôn ngữ “logic” như lập luận về “phi-phong cách” phức hợp-phân biệt của Beckett đã “đem lại cho khả tính một hiện thực tự thân khả kiệt”. Ở đoạn cuối tôi chỉ ra một mô hình tựa lưng vào tạp âm, không phải là âm thanh/nín thing, của lý thuyết thông tin có thể được so sánh một cách hiệu quả với mô hình langue ngôn ngữ-rung động của Deleuze, và khới lên rằng tạp âm thực sự có thể là một mô hình đơn giản hơn, “hiệu quả” hơn.
Quan niệm còn vướng víu của Deleuze về ngôn ngữ và các tận biên của nó đã được Lecercle để ý đến trong Deleuze và Ngôn ngữ (Lecercle, Jean-Jacques 2002). Lecercle bắt đầu bằng giả định rằng ngôn ngữ là một “vấn đề” đối với Deleuze, một kẻ giống như Beckett luôn mong muốn biểu dương các tận biên ngôn ngữ văn chương và thi ca, nhưng lại chỉ có thể làm được điều đó bằng bút.1 Có nghĩa là Deleuze bị buộc phải nhắm đến “vấn đề triết học ngôn ngữ, trong hai khía cạnh nghịch lý của nó về sự kháng cự cần thiết của triết gia và thái độ thù nghịch, nhưng lại bị ám ảnh đối với ngôn ngữ... Còn kẻ viết cuốn sách này thì đương nhiên cãi rằng chính cái bóng ma ngôn ngữ bị kìm nén kia đã không ngừng quay trở về ám Deleuze…” (Lecercle 2002, 7, 129).
Lecercle kết thúc cuốn sách bằng một đoạn bàn về lý thuyết sau này của Deleuze trong Phê phán và Thăm khám (Critique et Clinique (1993), 2 về “phong cách” với tư cách là khả năng của một văn bút trong việc “làm cho ngôn ngữ cà lăm” (Lecercle, Jean-Jacques 2002, 113). Trong đoạn cuối của công trình Gilles Deleuze và Đống vụn Biểu trưng, Olkowski (Olkowski, Dorothea 1999) cũng tập trung vào “vấn đề ngôn ngữ” của Deleuze gắn liền với lý thuyết phong cách với tư cách là langue ngôn ngữ-rung động của ông như đã phô bày trong cùng mô hình “cà lăm” trong Critique et Clinique (Lecercle, Jean-Jacques 2002, 3). Làm cho hệ thống ngôn ngữ trở nên cà lăm – có thể nào không lẫn lộn khả năng viết với khả năng nói? Mọi thứ đều tuỳ thuộc vào cách thức tư duy ngôn ngữ: nếu chiết tách nó giống như một hệ thống đồng nhất cân bằng, hoặc gần như cân bằng và định nghĩa nó bằng các hằng ngữ và các mối liên hệ thì rõ ràng là các bất cân bằng và các biến đổi chỉ có thể tác động đến khả năng nói… Nhưng nếu hệ thống tỏ ra là mất cân bằng vĩnh viễn, nếu hệ thống rung động – và có một loạt giới hạn mà mỗi giới hạn đều vắt qua một vùng biến đổi liên tục – thì tự thân ngôn ngữ sẽ bắt đầu rung động và trở nên cà lăm (Deleuze, Gilles 1997,108; Olkowski 1999, 229).
Tất nhiên trong nhiều năm Deleuze đã thoát khỏi ký hiệu học Saussurien và Chomskien, thực ra là thoát khỏi [hậu] cấu trúc luận bằng cách tập trung vào nghĩa, ý nghĩa, và diễn giải. Trong Logic của Nghĩa (Deleuze, Gilles 1990) lý thuyết Khắc kỷ của ông về ngôn ngữ đã có “nghĩa” như một sự kiện ảo, một hiệu quả bề mặt của langue ngôn ngữ; Động từ nguyên thể - hệ mẫu của nó, động từ “đang thành” – giờ đây được coi là thể hiện nguyên vẹn một loạt ngôn ngữ, với tư cách là “sự kiện ngôn ngữ” ảo. Khi phát triển thêm ý tưởng về ngôn ngữ như là sự kiện và hành động, khẩu ngữ, cơ bản, Deleuze và Guattari trong Mille Plateaux (1980), đã xướng xuất một lý thuyết ngôn ngữ dụng pháp đầy đủ dựa trên mots-d’ordre trật tự từ, các mệnh lệnh.4 Lý thuyết này mắc nợ rất nhiều ở lý thuyết hành vi-nói, hoặc lý thuyết ngôn hành của Austin, với Deleuze là énoncés, phát ngôn, và gần với Foucault hơn là với Derrida hoặc Lacan.
Vì vậy ngay sau khi trích dẫn đoạn trên của Deleuze, Olkowski đã lưu ý rằng “Ngôn hành phải là sự vận động mở đầu cho bất kỳ một biến đổi nào như vậy trong ngôn ngữ, vì nó vừa là ngôn ngữ, vừa là cơ thể. Cái hành ấy chính là ngôn ngữ, trong đó nó thể hiện nghĩa bằng một định đề; nó đồng thời còn có tính vật thể hữu hình chừng nào nó hiện thực hoá một cái gì đó bằng cơ thể, nó can dự vào các hành động và các cảm xúc của cơ thể; nó làm bằng cách nói” (Olkowski 1999, 229). Lời tuyên ấy của cô đã chộp được một trong số những nghịch lý trung tâm trong lý thuyết ngôn ngữ của Deleuze, cái énoncé phát ngôn ấy đồng thời còn mang tính ngôn ngữ học và vật thể hữu hình – nó gắn liền với “vấn đề” do bản thân Deleuze khới ra trong đoạn trên: “Làm cho hệ thống ngôn ngữ trở nên cà lăm – có thể nào không lẫn lộn khả năng viết với khả năng nói? Mọi thứ đều tuỳ thuộc vào cách thức tư duy ngôn ngữ…” (Deleuze 1993,108).
Thế có nghĩa là, đó không phải là “cà lăm” theo nghĩa chính thường, một loại rung động của cách nói hoặc của giọng nói, mà theo nghĩa rộng hơn, “không hề cân bằng”, langue ngôn ngữ tự thân rung động hoặc, về phương diện ẩn dụ hoặc hoán dụ?, “cà lăm”.Vì langue ngôn ngữ-rung động hoặc “làm rung chuyển” là hành động vật chất, có tính hữu hình của langue ngôn ngữ, “bước cung quăng” cơ thể của nó, cho dù nó chứa đựng lời nói “trong nó”, trong một trạng thái rung động cận cân bằng. Deleuze thực sự liên tưởng nó, theo cách ẩn dụ hoặc hoán dụ, với cái dáng “cung quăng” của Watt (Deleuze 1993, 110) trong Beckett, “vì nói không có gì khác ngoài một vận động chứ không phải là bước đi: nói vượt khỏi cách nói hướng đến langue ngôn ngữ, cũng hệt như cách nói thoát khỏi cơ thể hướng đến một cơ thể không giọng nói” (Deleuze 1993, 111).
Trong mô hình này, langue ngôn ngữ trở thành sượng sạo ở cực tận biên bất cân bằng của nó “là điểm mà nó bắt đầu lẩm bẩm, lập bập, cà lăm,…vậy thì langue ngôn ngữ trong tính toàn vẹn của nó đã đạt tới tận biên, điểm đánh dấu phạm vi bên ngoài và làm cho nó phải đối đầu với nín thinh” (Deleuze 1993:113). Điểm tận biên trong cung con lắc, nơi bọn văn bút đều cảm nhận ngôn ngữ vừa đang vọt khỏi tự thân, vừa phải đương đầu với phi ngôn ngữ, phi diễn ngôn, nín thinh, lại vừa ngoái nhìn chính bản thân mình, là điểm đạt tới tận biên “cà lăm” của bọn văn bút chân sáng tạo: “Phong cách – kẻ ngoại trong ngôn ngữ - được trang điểm bằng hai thao tác, hoặc thay vì, bọn chân văn bút đó nên nói với Proust về một phi phong cách, có nghĩa là về “các yếu tố trong một phong cách để trở thành cái vẫn chưa tồn tại”?.5 Phong cách là nền kinh tế của langue ngôn ngữ. Làm cho langue ngôn ngữ cà lăm, mặt đối mặt, lưng tựa lưng, hùng hục xô đẩy langue ngôn ngữ, với tư cách là một tổng thể, đến tận biên của nó, đến bờ vực nín thinh – điều đó chẳng khác nào một cú đâm sầm, một cuộc nổ bùng” (Deleuze 1993, 113). Ngôn ngữ giờ đây có một “kẻ ngoại trong chính nó” bởi vì nó tự cuốn trong lưu ngôn vọt thoát bản thân, trở nên kẻ khác, thành kẻ ngoại đối với chính nó, và có lẽ còn trở nên tương lai riêng và/hoặc quá khứ riêng của bản thân nó. 6
Tuy nhiên ở đây ai cũng muốn biết quan niệm này về “phong cách” thi ca và văn chương, với tư cách “phi phong cách” đã khác lạ đến mức nào với các quan niệm truyền thống chính thường về phong cách và/hoặc phi phong cách. Nhưng lại chẳng có cách nào để níu buộc nghĩa của phong cách theo nghĩa chính thường, có lẽ ngoại trừ cách nói rằng phải xử lý bằng kỹ thuật, bằng việc sử dụng các từ, sử dụng hình thức thể hiện hơn là “nội dung” hoặc “ý nghĩa”. Có lẽ còn cần phải thử nói rằng chiếc máy-langue ngôn ngữ rung động chủ yếu là sức mạnh tự biểu hiện hơn là một loại nội dung, chết lặng, khách hoá, nào đó, ngoại trừ vấn đề là ở đây Deleuze không muốn phân biệt hình thức tách khỏi nội dung. 7 Tuy nhiên, chừng nào cái phong cách viết hoàn thiện nhất ấy – gồm cả phong cách hình họa, âm nhạc và khiêu vũ – đôi khi còn được coi là kinh tế nhất, thì Deleuze cũng nói bằng đoạn trên “Phong cách là nền kinh tế của langue ngôn ngữ” (Deleuze 1993, 113), không nghi ngờ gì nữa tư duy về cái mô hình cà lăm – langue ngôn ngữ này như là một mô hình khái quát hoá và bao quát nhất, và/hoặc quy giản nhất, đơn giản hoá nhất của thi pháp, poiesis - sản nghệ, theo nghĩa đen là “làm ra” bằng langue ngôn ngữ hoặc với langue ngôn ngữ, thì mới có thể có được nó. Nó cũng còn là mô hình siêu hình nhất: langue ngôn ngữ trở thành “thi ca” chân thực nhất khi nó đối đầu với cực tận biên của chính nó và khoảng nín thinh nằm bên ngoài bản thân nó. 8
Tuy nhiên, ở đây, vấn đề về “chất văn chương” lại nổi lên. Lecercle đã chỉ ra rằng mâu thuẫn hiển hiện trong thái độ của Deleuze đối với văn chương trong những tiểu luận sau này như “Hắn Cà lăm” và “Kẻ Kiệt lả”: trong khi rõ ràng muốn khước từ bất cứ “thi pháp” tinh hoa, định hướng-văn bản tự ý thức hoặc nặng-phong cách, vì vậy mà phi-phong cách nào, ông đã chọn những bọn điển hình của mình là Luca, Beckett, và những văn bút khác cùng với dàn văn học tinh hoa, siêu trí thức, thượng hiện đại luận, cái tình yêu của bọn mỹ học trí thức khả thứ đối với xảo nghệ của Deleuze 9 cũng rõ ràng trong các cuốn sách của ông về điện ảnh và cuốn sách về gã hoạ bút Francis Bacon. [Francis Bacon, 1909 –1992 (để tránh nhầm với Francis Bacon người Anh lừng danh khác, Francis Bacon Viscount Saint Alban, 1561 –1626, một triết bút, chính khách, khoa học gia, luật gia, ký giả, văn bút, và kẻ tiên phong về phương pháp khoa học) là một họa bút biểu trưng người Anh – Ireland, nổi tiếng với các hình tượng sống sít về phương diện xúc cảm, mang tính đồ họa, khổ mộc, đậm nét của nghỉ. Các nhân vật đầy chất hội họa nhưng trừu tượng của nghỉ thể hiện điển hình biệt lập trên kính hoặc các lồng thép hình kỷ hà được dựng lên trên các hậu cảnh bẹt, khó nhận rõ ND*]. Nhưng còn có một vấn đề “tính văn chương” cụ thể hơn thu hút mối quan tâm của kẻ này là: vấn đề về các hình thái diễn ngôn như phép ẩn dụ thường gắn liền với phong cách văn chương, đặc biệt là thi ca. Mặc dù Deleuze thực sự nói, phần nào thể hiện thái độ quay lưng của ông và của Guattari khỏi ký hiệu học, bằng lý thuyết ngôn ngữ dụng pháp, rằng ông không cần sử dụng “nghĩa” hoặc “ẩn dụ” thì vấn đề chí ít là ở chỗ đối với kẻ chưa được khai tâm thì tính ẩn dụ dường như lại đắp nền cho toàn bộ diễn ngôn triết học của ông, bằng cách tự thể hiện ở bất cứ nơi đâu và nhất là, trớ trêu thay, trong chính ý tưởng cho rằng mô hình langue ngôn ngữ-rung động mênh mông nhất tự bản thân nó có thể là, hoặc trở thành hiện thân của “diễn ngôn thi ca”. Một trường hợp cụ thể liên quan đến vấn đề này là quan niệm, phép tu từ hoặc hình thái ngôn ngữ, đồng thời bằng một vận động kép, chằm chằm vào khoảng nín thinh bên kia bản thân nó và hồi hướng tự thân cũng được Deleuze coi là vấn đề về trạng thái vét kiệt langue ngôn ngữ. Vì quan niệm hình thái của “nín thinh” ở đây lại khới lên một ưu quyền “thi ca” nhất định, thực sự nhân văn, chừng nào từ một quan điểm khoa học tự nhiên, có thể cuối cùng chỉ là tiếng ồn, mà không nín thinh, một khuôn viên được quây kín bởi “kẻ nghe”, vượt khỏi và “len-vào-giữa” những yếu tố của ngôn ngữ hoặc bất kỳ một hệ thống nghĩa nào. 10 Hơn nữa, lập luận sau này của Deleuze, thông qua Beckett, cho rằng ngôn ngữ, ngữ nghĩa, có thể không chỉ tự thân vét kiệt, khi bỏ lại nín thinh, mà cái “khả tính” riêng của nó còn có thể được coi là đậm chất thi ca hơn là tính logic. Vì vậy chừng nào Deleuze còn coi cái mô hình langue ngôn ngữ-rung động, biểu đồ, chiếc máy của ông là hiện thân của thi pháp-sản nghệ hoặc “diễn ngôn thi ca” thì cần phải xem xét vấn đề “tính văn chương”, phong cách vs [đối diện] phong cách, trong mối quan hệ với mô hình này, cụ thể hơn là vấn đề về tính ẩn dụ. Ở đây quan điểm trước tiên của người viết tiểu luận này là trong khi, về nguyên tắc, Deleuze khước từ ý nghĩa quan trọng, có cơ sở ký hiệu học, và ẩn dụ thì chiếc máy langue ngôn ngữ-cà lăm hoặc mô hình tự thân là một “hình thái” và một hiện thân của tính ẩn dụ theo nghĩa đen của nó về sự “vượt khỏi”, ngôn ngữ vận động vượt khỏi bản thân để trở nên nín thinh. Quan điểm thứ hai, gắn liền với quan điểm thứ nhất ở trên là về tận biên ngôn ngữ, với tư cách là một hình thức của âm thanh và/hoặc tiếng ồn, cùng khoảng nín thinh vượt khỏi cái tận biên đó lại là một loại ẩn dụ hoặc khái niệm mang tính ẩn dụ, theo nghĩa đen là “vượt khỏi bản thân”. Quan điểm thứ ba là khái niệm “vét kiệt” ngôn ngữ với tư cách là một sự vỡ vụn toàn bộ hoặc quá trình tự-chuyển hoá cũng chính là có tính ẩn dụ theo nghĩa đen, như chính cái xác quyết “logic” của Deleuze cho rằng tình trạng vét kiệt tự sự Beckett đối với các khả tính logic trong Watt, trong thực tế lại là tặng vật của “một hiện thực khác đối với khả tính, một tặng vật tự thân khả kiệt”.
Tuy nhiên cũng cần chỉ ra rằng trong cuộc phòng vệ của Deleuze, tức là, như đã phải thừa nhận đây là một vấn đề còn mơ hồ, hoặc một vấn đề “có vấn đề”, thì tốt nhất là ông chấp nhận một quan niệm nhất định về “hình thái”, chứ không phải là một ẩn dụ, là cái tối thiểu cũng phần nào chịu ảnh hưởng của Lyotard và kẻ nào cố vượt khỏi ký hiệu học bằng cách chui xuống “gầm” langue ngôn ngữ, tức là không phải bằng giả định ngay từ bước khởi đầu, bất kỳ quan niệm cơ bản hoặc tổng thể nào về langue ngôn ngữ hơn là “chỉ có những hình thái không xác định”. Nhưng ở đây cần quay trở lại với vấn đề đầu tiên ở trên: nếu chỉ có những hình thái đầy bóng tối bên dưới, hoặc thay thế cho một ngôn ngữ tổng thể hoá, vậy thì có thể bắt đầu như thế nào từ cái mô hình của một langue ngôn ngữ tổng thể hoá, bắt đầu rung động hoặc “cà lăm” khi nó xoãi dài tới các cực tận biên?. Khái niệm nín thinh có vấn đề đã được đề cập ở trên liên quan đến âm thanh và tiếng ồn, vì vậy hoàn toàn có thể vượt ra bên ngoài không gian-ngôn ngữ, hoặc không gian ngữ nghĩa Deleuzien ấy bằng cách quay trở lại với mô hình hoặc hệ mẫu lý thuyết thông tin. Ở đây có thể bắt đầu với thực thể vật lý hoặc thế giới vật lý, của nguyên tử, âm thanh, sóng, v.v…, mà Deleuze dường như muốn ngứn tới bằng cách trải căng langue ngôn ngữ của ông cập biên hoặc vượt thoát các tận biên của nó, và cần mô tả một cách vắn tắt một số cách thức mà mô hình lý thuyết thông tin – trong đó tiếng ồn làm cơ sở cho âm thanh/ngữ nghĩa và làm méo mó hoặc làm gián đoạn các tín hiệu, các âm thanh có nghĩa, các thông điệp – có thể đạt được cùng những kết quả mà Deleuze nhắm đến bằng một cách thức đơn giản hơn hoặc trực tiếp hơn, thậm chí nếu giờ đây khái niệm nín thinh, thường được coi là đầy “thi tính” nằm ở bên ngoài langue ngôn ngữ có thể phải được bỏ đi. Việc quay sang lý thuyết thông tin/truyền thông dường như cũng được biện minh, chừng nào cái thi pháp poiesis – sản nghệ không xuất hiện trong lý thuyết các hệ thống tự sinh, rõ ràng là một lĩnh vực bao quát hơn lĩnh vực ngôn ngữ thuần tuý con người. Cuối cùng, Phần kết sẽ khai thác vắn tắt các khái niệm hoặc các thực tiễn “vấn đề” và “câu hỏi”, “đặt thành vấn đề”, một thuật ngữ Deleuzien, và “đặt vấn đề” để xem xét loại tính vấn đề nào không quan trọng – có lẽ tự thân nó là một dạng thức tạp âm – có thể phó mặc cho các câu hỏi, các vấn đề, những nhập nhằng, các nghịch lý ở trên. Thực ra thì Deleuze trong tác phẩm Différence et Répétition (1968)dường như đã đưa ra một lý thuyết sơ bộ, phôi thai, lộn xộn về việc đặt vấn đề và/hoặc đặt thành vấn đề, cho dù nó không được ông gắn liền một cách dứt khoát với vấn đề langue ngôn ngữ.
Người dịch: Hà Hữu Nga
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp