Tuy nhiên vì chí ít là từ giữa thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của điều khiển học, poiesis thi pháp cũng đã được sử dụng để biểu thị sự sáng tạo ra bất cứ “hệ thống” nào; trong việc sử dụng thuật ngữ theo nghĩa “rộng hơn” này chúng họ thường hiểu đó là tự làm hoặc tự tạo, tự sáng tạo, tự sản sinh của một hệ thống. Nhờ đó mà sản sinh ra “lý thuyết các hệ thống tự sáng tạo”, được coi là một cách sử dụng ẩn dụ hoặc hoán dụ, hoặc được coi là bối cảnh của sự sáng tạo có thể có mô hình – langue ngôn ngữ rung động thích hợp của Deleuze, cũng như, hoặc thậm chí còn tốt hơn cái bối cảnh thi ca hiện đại. Khía cạnh tự tạo sinh này cũng rõ ràng trong ‘nguyên mẫu” – do Deleuze và Guattari đề xuất trong Chương 5 của Mille Plateaux và chiếc máy-langue ngôn ngữ “Hắn Cà lăm”. Vì “chiếc máy nguyên mẫu trừu tượng” này không phụ thuộc vào bất kỳ cơ sở tồn tại trước nào trong “langue ngôn ngữ” nên không giống với mô hình/lý thuyết cú pháp rộng lớn của Chomsky. Đúng ra thì “nó…tạo ra không phải sự riêng biệt trong bản thân giữa nội dung và sự thể hiện”; nội dung của nó là sức mạnh của sự thể hiện, nó tự tạo sinh ra bản thân mình:
Phải nói rằng chiếc máy trừu tượng ấy nhất thiết tốt “hơn nhiều” so với ngôn ngữ. Khi các nhà ngôn ngữ học, theo Chomsky, khới lên ý tưởng về một chiếc máy trừu tượng dựa trên cơ sở ngôn ngữ thuần tuý, thì bọn này đã phản đối rằng chiếc máy của chúng họ… không đủ trừu tượng vì nó bị giới hạn vào những cái phổ biến được viện dẫn giả định trước ngôn ngữ…Một chiếc máy trừu tượng thực sự không có cách nào làm ra được một sự khác biệt bên trong chính bản thân nó giữa một bình diện thể hiện và một bình diện nội dung vì nó mở ra một mặt bằng nhất quán duy nhất…Chiếc máy trừu tượng trong bản thân nó được giải phân tầng hoá, giải lãnh thổ hoá; nó không có hình dáng của riêng mình và không tạo ra sự khác biệt giữa nội dung và cách thể hiện bên trong bản thân nó…Trong tự thân, nó không phải là vật chất hoặc hữu hình, nó không là bất cứ cái gì khác ngoài ký hiệu học; nó có tính biểu đồ…Nó vận hành bằng vật chất, chứ không phải bằng bản chất; bằng chức năng, chứ không phải bằng hình thức…Nó thuần tuý là Chức năng-Vật chất… (Deleuze, Gilles and Félix Guattari 1987, 141)
Không thể bắt đầu giống như Chomsky từ cơ sở của một ngôn ngữ cho trước, có nghĩa là bằng cách phân biệt sự thể hiện khỏi nội dung, vì không có ngôn ngữ cho trước mà đúng ra chỉ là các cấu hình thân rễ, không xác định, thay đổi về nghĩa.11 Trong sự mở rộng thêm, hoặc sự phân biệt về mô hình Chomsky-giải lãnh thổ hóa này có mô hình ngôn ngữ rung động trục đúp của Hắn Cà lăm (1993). 12 Điều này, bằng một cách nào đó, bắt đầu từ cái có thể là các mô hình ký hiệu học trục đúp cổ điển, trục liên tưởng và ngữ đoạn của Saussure, và các trục hoặc các cực hoán dụ và phúng dụ của Jakobson, nhưng lại nhanh chóng vận động vượt khỏi nghĩa truyền thống của chúng: ngôn ngữ phụ thuộc vào một quá trình đúp, quá trình của các lựa chọn phải được thực hiện và quá trình của những phối hợp phải được xác lập: sự tách rời hoặc sự lựa chọn những cái tương tự, sự kết nối hoặc sự phối hợp của những cái có thể kết hợp được. Chừng nào ngôn ngữ còn được coi là một hệ thống cân bằng thì những tách rời nhất thiết phải bị loại trừ - ở đây không nói về “cảm xúc”, “khẩu phần”, “dân tộc” đồng thời với nhau, mà phải lựa chọn chúng – và các kết nối, các yếu tố tiến độ, trong trường hợp này không có sự kết hợp từng từ với các yếu tố riêng của nó, theo kiểu ngắc ngứ co giật, bước tiến bước lùi. Nhưng không hề cân bằng, những đoạn tách rời bắt đầu được gộp lại hoặc được kết hợp, và các kết nối, phản thân, theo một dáng cung quăng liên quan đến quá trình ngôn ngữ và không còn là dòng diễn ngôn nữa. Mỗi từ được chia tách, nhưng thành tự thân chúng pas-rats, passions-rations; và mỗi từ được kết hợp, nhưng với chính chúng pas-passe-passion. Điều đó chẳng khác nào toàn bộ ngôn ngữ đã bắt đầu quăng từ phải sang trái, và xô lên, giật xuống: hai loại cà lăm. (Deleuze, Gilles 1997, 110).
Trục ngữ đoạn bình diện, và chịu ảnh hưởng của Saussure, trục/cực hoán dụ hoặc cú pháp của Jackobson, là trục tuyến tính cú pháp của câu được cấu trúc hoàn chỉnh: “Cậu bé đã đi cửa hàng,” “Ta yêu nàng” “Je t’aime”; “những kết nối hoặc phối hợp của những thứ có thể phối hợp” chính thường hoặc về phương diện logic-cú pháp. Mặt khác, trục liên tưởng dọc của Saussure cùng trục các tương đồng hoặc trục ẩn dụ của Jakobson là tuyến kết nối mỗi từ của câu hoàn chỉnh với toàn bộ các từ đồng nghĩa khả thể, những từ khác có thể được thay thế cho từ trong câu nguyên gốc: “Chú ngựa đã chạy về chuồng” hoặc câu thơ “Con bò đã bay lên mặt trăng” hoặc “Ả đã ăn chiếc bánh”. Jakobson đã làm nổi bật tầm quan trọng của một mô hình tượng trưng luận, hiện đại luận, siêu thực luận như vậy đối với thi ca, trong đó cũng có thể tạo ra được các câu thuộc về “bên lề của nghĩa”, mặc dù vẫn theo “cú pháp chính thường”, chẳng hạn như “Các tính từ sinh động ngân vang vô hình”; hoặc đúng ra, ở đây có lẽ cú pháp cũng bị vi phạm, tùy thuộc vào việc định nghĩa thuật ngữ này chặt chẽ đến mức nào. Nền tảng ký hiệu học phong phú ấy của “thi pháp hiện đại” rõ ràng đã tạo cơ sở cho mô hình của Deleuze, và trong công trình Deleuze và Ngôn ngữ, Lecercle ở một vài điểm, đã nhấn mạnh tầm quan trọng cơ bản của ký hiệu học truyền thống và lý thuyết cú pháp đối với Deleuze, một kẻ thực sự tôn vinh chúng trước khi vứt bỏ chúng. 13
Vì trục hoán dụ Saussure-Jakobson mang tính “tổ hợp theo tiến độ” – một cách thức rất hạn chế, trong đó các từ có thể được kết hợp thành một câu – hệt như trục ẩn dụ của chúng có tính “tách biệt”, vì chúng có một phổ lựa chọn rộng rãi các từ đồng nghĩa cho mọi từ nhưng lại buộc phải lựa chọn chỉ một từ. Nhưng đó là khi chiếc máy đang làm việc, đang rung động, gần với điểm cân bằng. Giờ đây Deleuze đưa chính cái ký hiệu học theo nghĩa tạo cơ sở cho thi pháp hiện đại, vào một điểm cực của sự rung động “không hề cân bằng” trong đó “những đoạn tách rời bắt đầu được gộp lại hoặc được kết hợp, và các kết nối, phản thân…Mọi từ đều bị chia tách, nhưng bị chia thành chính bản thân nó…; và mọi từ đều được kết hợp lại, nhưng được kết hợp với chính bản thân nó…” (Deleuze, Gilles 1997, 110). Giờ đây không kẻ nào còn tìm kiếm các thay thế ẩn dụ cho “cậu bé” và “cửa hàng” trong “Cậu bé đã đi cửa hàng”, để được “Chú ngựa đã chạy về chuồng”, cái nào, khi nào có một quan điểm rộng lớn về langue ngôn ngữ và coi nó là một toàn thể duy nhất hoặc một bloc, khối, có nghĩa là việc phân chia giữa “cậu bé” và “chú ngựa” để sau đó chọn lấy một – nhưng đúng ra thì kẻ nào cũng chỉ tập trung vào một từ “cậu bé”, và chia nó thành các phần, đập vỡ nó ra. Tương tự như vậy, một trục cú pháp – hoán dụ không còn kết hợp các từ khác để tạo thành một câu chính xác, mà bắt đầu kết hợp mỗi từ với chính bản thân nó, tự phản thân hoặc tự lặp lại. 14
Ở đây cần quay trở lại với vấn đề poiesis thi pháp theo nghĩa hạn chế hơn của poetics thi ca, một nghĩa vừa được chiếc máy hầu như không được kiểm soát của Deleuze chấp nhận và huỷ bỏ. Về phương diện “chấp nhận”, Lecercle không chỉ lưu ý đến tầm quan trọng của ký hiệu học và lý thuyết cú pháp đối với Deleuze, mà còn lưu ý đến tình trạng thôi miên của nhà triết học bởi cái phong cách hoặc phi phong cách tự sự, có tính thi ca thượng hiện đại luận, và xảo nghệ về phương diện thẩm mỹ. Ông cũng giúp chúng tạo ra ý nghĩa cho cái ví dụ đầy chất thi ca trong đoạn trên, các từ “xúc động”, “khẩu phần”, “dân tộc”…xú-độ, xúc động-khẩu phần, dâ-n-tộ-c…” tự phân chia và tự phản thân: “Các ví dụ lấy ra từ một nhà thơ yêu thích của Deleuze, Gherasim Luca, một thi bút Romanien viết bằng Pháp ngữ: trong bài thơ, kẻ nói bị cà lăm theo nghĩa đen ở một vài đoạn trước khi thốt ra được cái point de capiton thoáng chốc thăng hoa của hắn, “je t’aime passionément”, Ta yêu mê mẩn (Deleuze, Gilles 1997, 233).15 Mặc dù Deleuze ưa thích thi ca thượng hiện đại luận vì tính phi ngữ pháp của nó – thì E.E. Cumming, một thi bút khác cũng làm ông say mê – và tính phân mảnh nguyên tử làm rung động chiếc máy langue ngôn ngữ vượt xa khỏi điểm cân bằng, mà Lecercle vẫn nhủ rằng có nhiều cách dụng ngôn bất cẩn, phi thi tính hoặc thi tính phi chủ đích, dường như đều tạo hiệu ứng tương tự, một vấn đề mà Deleuze không thực hiện mặc dù có lẽ đó là vấn đề mà ông cho là hiển nhiên. 16
Tuy nhiên, tính ẩn dụ dường như là một vấn đề nghiêm trọng hơn. Deleuze phản đối ẩn dụ, chí ít là theo nghĩa ký hiệu học truyền thống của nó, nhưng nhiểu kẻ không chỉ vẫn nghĩ rằng toàn bộ diễn ngôn của ông, toàn bộ phong cách và phi-phong cách động bút của ông đều mang toàn ẩn dụ, mà còn nghĩ rằng mô hình chiếc máy langue ngôn ngữ rung động chính là một mô hình, một hình thái, và một ẩn dụ. Thực sự thì nó, về phương diện ẩn dụ, là một chiếc máy mà chính chức năng của nó, cho dù nếu về phương diện truyền thống thì các trục hoán dụ và ẩn dụ mang tính thi ca gần điểm cân bằng, bằng cách nào đó bị đổ vỡ ở một tần số rung động cao – “làm cho langue ngôn ngữ vọt khỏi bản thân nó”, trong khi đó metaphor ẩn dụ, theo nghĩa đen là “chuyển giao, chuyển qua”. Việc Deleuze và Guattari bác bỏ ẩn dụ được đặt nền móng trong việc bác bỏ “nghĩa”, mà theo cách hiểu truyền thống thì nghĩa là “ý nghĩa to lớn”. Vấn đề đó được xem xét trong một phỏng vấn sau khi xuất bản công trình Anti-Oedipus. (Deleuze G. et Felix Guattari 1972. Capitalisme et Schizophrénie 1. L'Anti-Œdipe.) Trong đó Deleuze nói rằng: Bọn này, những kẻ không chỉ không ưa những cái biểu nghĩa, mà còn là những kẻ, hoặc là những kẻ đầu tiên khước từ toàn bộ cái biểu nghĩa đó. Hãy nhìn xem Foucault, hoặc cuốn sách mới đây của Lyotard [Discours, figure, 1971]… Chính vì vậy mà tại sao lại không quay về với Hjelmslev: đã có lúc nghỉ xuất trình một loại lý thuyết Spinozist về ngôn ngữ, trong đó các dòng nội dung và biểu hiện không tùy thuộc vào những cái biểu nghĩa: ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống các dòng nội dung và biểu hiện liên tục bị phân cắt bởi những sắp xếp máy móc các hình thái đứt đoạn rời rạc…Bọn này là các nhà chức năng luận nghiêm nhặt, nên lúc nào cũng chăm chắm vào một cái gì đó vận hành, hoạt động – khi phát hiện ra chiếc máy. Nhưng cái biểu nghĩa lại vẫn bị mắc kẹt trong câu hỏi “Điều đó nghĩa là gì?” – trong thực tế đó chính là câu hỏi bằng một hình thức bị khoá chặt. Nhưng đối với bọn này, cái vô thức không có bất cứ ý nghĩa nào, cũng không có nghĩa là ngôn ngữ (Deleuze, Gilles 1995, 21-22). Và trong một cuộc phỏng vấn sau khi Mille Plateaux (1980) được xuất bản, Deleuze, khi trả lời một câu hỏi về vai trò chủ chốt, và đáng kinh ngạc của ngôn ngữ học trong cuốn sách này, đã nói rằng những vấn đề cơ bản của ông và của Guattari liên quan đến ngôn ngữ và ngôn ngữ học “trước hết là một phần vai trò của các quy tắc, mệnh lệnh [mots-d’ordre] trong ngôn ngữ; thứ hai là tầm quan trọng của diễn ngôn gián tiếp, và việc thừa nhận phép ẩn dụ như là một cái gì đó chỉ làm lẫn lộn các vấn đề và không có tầm quan trọng thực sự; thứ ba, việc phê phán các bất biến ngôn ngữ học, và thậm chí cả các biến số ngôn ngữ học nhấn mạnh hàng loạt biến đổi liên tục”. (Deleuze, Gilles 1995, 29).
Giờ đây người phỏng vấn trả lời bằng cách nói với Deleuze: “Ông cũng mạnh mẽ bác bỏ các ẩn dụ, các ngoại suy. Nhưng ông lại dùng khái niệm “hố đen” có nguồn gốc vật lý đương đại, để miêu tả các không gian mà ông không thể thoát khỏi một khi ông đã bị hút vào”, và bằng cách hỏi ông “Phải chăng các nhà khoa học đương đại không thấy cuốn sách này với đầy ẩn dụ?” Ở đây lời đáp của Deleuze dường như mập mờ đối với vấn đề là có bọn thậm chí còn có thể nghĩ rằng ông đang cúi đầu né tránh vấn đề: Mille Plateaux đã thực sự sử dụng một số khái niệm với sự cộng hưởng khoa học, hoặc thậm chí tương liên như: các hố đen, tập mờ, các lân cận, các không gian Riemannien…Vậy thì tại sao lại không đáp lại bằng cách nói có hai loại khái niệm khoa học, thậm chí chúng còn lẫn lộn nhau…Có các khái niệm chính xác về thực chất, mang tính định lượng, được định nghĩa bằng các phương trình, và nghĩa của chúng nằm trong tính chính xác của chúng: một triết bút hoặc một văn bút có thể sử dụng những khái niệm này chỉ về phương diện ẩn dụ, và điều đó là hoàn toàn nhầm lẫn, vì chúng thuộc về khoa học chính xác. Cũng có nhiều khái niệm về thực chất không chính xác, nhưng lại tuyệt đối nghiêm nhặt mà bọn làm khoa học không thể không sử dụng, chúng thuộc về bọn làm khoa học, bọn triết bút, bọn nghệ sĩ một cách bình đẳng. Loại khái niệm này không rõ ràng vì một cái gì đó đang mất đi, mà vì thực chất và nội dung của nó….Ngược lại, đối với một triết bút, để sáng tạo ra các khái niệm có thể sử dụng được thì không thể không có nó. Điều này vẫn thường xảy ra. (Deleuze, Gilles 1995,29-30).
Nhưng trong khi Deleuze muốn nói, như trong Qu'est-ce que la philosophie? Triết học là gì ? (1991), về hành vi “sáng tạo khái niệm” của triết bút, chứ không phải là của thi bút trong việc “sử dụng các ẩn dụ” thì vấn đề lại là ở chỗ khó có thể phân biệt các khái niệm do ông sáng tạo, “thân rễ” và “cơ thể không cơ quan” để tư duy, từ các ẩn dụ, “khi nói về một vật bằng khuôn khổ của một vật khác”, thậm chí nếu một vài thuật ngữ kỹ thuật của ông như agencement sự xếp đặt hoặc “sự tập hợp”, “mức độ nội tại tính”, dường như có thể đủ trừu tượng hóa để vượt thoát khỏi định mệnh này. Tuy nhiên cũng dễ tiếp cận với cách biện hộ của Deleuze nếu nghĩ, khi kẻ nào đó có thể nghĩ được, về một “mô hình” như là một “biểu đồ” hoặc “hình thái” chứ không phải là một “ẩn dụ”, và ghi chú thêm rằng Deleuze đề cao, cùng với Foucault và Hjelmslev, Lyotard và khái niệm ký hiệu học-bùng nổ về “hình thái” trong phỏng vấn Anti-Oedipus đã trích dẫn ở trên. Trong một tiểu luận ngắn từ những năm 1970 về Discours, Figure1971 của Lyotard, Deleuze nói: “Cuốn sách của Lyotard…thực hiện một cuộc đảo ngược hoàn toàn về mối quan hệ giữa hình thái và cái biểu nghĩa. Đó không phải là các hình thái phụ thuộc vào cái biểu nghĩa và các hiệu ứng của nó; ngược lại, đó là chuỗi biểu nghĩa tùy thuộc vào các hiệu ứng hình thái, sự sáng tạo…với các hình thái phi biểu trưng, tạo ra các tuyến để theo và phá vỡ chúng theo các giá trị số ít, bằng cách vắt ép và xoắn bện các vật biểu nghĩa cũng như các vật được biểu nghĩa… L'île déserte et autres textes, Đảo hoang và những Văn bản khác. Và điều đó phù hợp, thực sự thì có thể ảnh hưởng, với nghĩa “diễn ngôn gián tiếp” đặc biệt của Deleuze, chẳng hạn “Hắn nói hắn đi” thay cho “Hắn nói, “Tao đi đây”. Trong một ghi chú về cuộc phỏng vấn Mille Plateaux đã trích ở trên, Martin Joughlin đã xác định giới hạn này là nghĩa gián tiếp hoặc cách nói tường thuật…trong đó một cách nói diễn giải nội dung của một cách nói “nguyên khởi” khác. Nhưng theo Deleuze và Guattari thì ngôn ngữ trước hết là có tính vòng vo, gián tiếp. Deleuze trong Logique du Sens (1969) Logic của ngữ nghĩa đã đảo ngược cách giải thích truyền thống về phép ẩn dụ nhận được nghĩa gián tiếp hoặc nghĩa hình thái của một từ từ một nghĩa chân thực “nguyên khởi”: toàn bộ nghĩa và sự đồng nhất hóa có nguồn gốc đúng ra là từ sự tác động qua lại không bền vững của các hình thái, từ các cấu hình của nghĩa… Trong Mille Plateaux toàn bộ diễn ngôn đều là gián tiếp theo nghĩa toàn bộ các phát ngôn …đều có mọi đồng nhất tính mà chúng có thể nhanh chóng có được từ sự tương tác không bền vững của các từ và các sự vật khác trong các cấu hình đang chuyển đổi, là “những sắp xếp tập thể của phát ngôn” (Deleuze, Gilles 1995,189).
Nếu thay thế các “hình thái”, bằng một cái gì đó chẳng hạn như nghĩa của Lyotard, cho các ẩn dụ, thì nhiều kẻ nghĩ rằng ngôn ngữ biểu trưng không tùy thuộc vào “ngôn ngữ nguyên khởi” mà đúng ra là tạo cơ sở cho nó – hoặc đúng hơn nữa là “không có một ngôn ngữ nguyên khởi”, mà chỉ là “sự tương tác không bền vững của các hình thái, của các cấu hình của nghĩa, hoặc “những sắp xếp tập thể của phát ngôn, énoncés”; mô hình này thống trị lý thuyết ngôn ngữ đã được trình bày trong Mille Plateaux, lại khới lên ảnh hưởng của dụng pháp học Austin và lý thuyết hành vi-nói. Bằng một hành vi tiếp tục hướng đến biện minh cho sự bác bỏ “phép ẩn dụ” của Deleuze, theo nghĩa ký hiệu học và phê bình văn học truyền thống, cần quay sang cách nhìn thứ hai vào lý do của ông, trong phỏng vấn trên, bằng cách sử dụng các “ẩn dụ khoa học”, không thực sự là ẩn dụ, và cũng không thực sự khoa học, mà đúng hơn là triết học: “Loại khái niệm này không rõ ràng vì một cái gì đó đang mất đi, mà vì thực chất và nội dung của nó”. Nếu những “khái niệm” như vậy là một bộ phận của cái mà ngôn ngữ, về cơ bản, cụ thể là “những cấu hình đang biến đổi của nghĩa” thì tất nhiên chúng sẽ là bất định, mơ hồ, “không rõ ràng”.
Beckett: Vét kiệt các Khả tính Logic
Một đoạn rõ ràng mang tính ẩn dụ và đầy chất thơ trong Disjecta: Miscellaneous Writings and a Dramatic Fragment[Những mảnh vụn: Tạp văn và một Đoạn kịch] của Beckett đã cho thấy “cái phi nguyên tắc của nghệ thuật chấm câu…của thi ca và âm nhạc”: Bầu trời đêm đậm đặc hư ảo nhã nhạc, hòa âm bất tận, rọi chiếu không cùng, nhưng vẫn trống rỗng, nguồn sáng vẫn thưa thớt hơn các hợp sáng súc tích nhất của thiên tài. Giờ đây chỉ thấy một bán cầu sống nông cạn, những dải chấm tinh vân cuồng dại, đó chính là những vận động sục sôi của tâm trí lập thành đồ thị bằng ánh sáng lẫn bóng đêm. Trí não sục sôi căng thẳng, khi phép tính toán bớt đi, tạo thành đường hầm, con đê thiên hà…xuyên qua các bao tải than đen nhánh giữa các vì sao trên bầu trời đang hình thành…trong một tấm lưới các điểm sẽ không bao giờ trở thành tọa độ. Tiêu chí bất khả xâm phạm của thi ca và âm nhạc, cái phi nguyên tắc của nghệ thuật chấm câu được hình dung bằng sự xuyên thủng cuồng loạn chiếc chao đêm. (Beckett, Samuel 1984, 44).
Cái “phi nguyên lý” hỗn độn hoặc thuần túy hiếm gặp của “nghệ thuật chấm câu” được đặt ở vị trí đầu tiên, trước khi nó bắt đầu được mở rộng về hình thái hoặc phép ẩn dụ, của những ngôi sao, trong một mô thức “sẽ không bao giờ là tọa độ”, chúng dàn hàng cái bề mặt thầm kín của bầu trời đêm; hình tượng “chiếc chao đêm” khới lên rằng các điểm chấm câu bằng các dải sao này chỉ có thể là những hố đen trên bầu trời, thứ ánh sáng chiếu rọi xuyên qua chúng từ một phía khác. 17 Trong một đoạn khác gần cuối bài “tiểu luận” “Dream of Fair to Middling Women”, Giấc mộng Hội chợ Các bà Trung lưu, trở lại với đoạn trên đã minh họa rõ ràng cho nó, Beckett đặt tương quan phong cách thực, có nghĩa là “phi phong cách” với trục dọc hoặc trục đứng và phong cách truyền thống, sáo mòn, có lẽ là cái “nguyên lý của nghệ thuật chấm câu” hoặc của “tọa độ” vì nó “trôi xuôi không vướng bận” với trục bình diện. Người đọc chỉ kiếm được các “hạt trân châu”, những cú thi choáng từ trục dọc vì nó ẩn giấu các hạt trân châu ngay trong nụn giẻ quăng dưới gầm giường phi phong cách, vì vậy trục bình diện chỉ trực tiếp thể hiện chuỗi hạt trân châu với bạn sao cho cái cảm nghiệm phát hiện phải biến đi: Chẳng kẻ nào trải nghiệm được một chuỗi trân châu trong các trứ tác của d’Annunzio [Gabriele D'Annunzio 1863-1938, thi bút, văn bút, ký bút, kịch bút, và phiêu lưu giả. Vai trò của kẻ này trong chính trị còn nhiều tranh cãi vì ảnh hưởng của nghỉ đến phong trào Fascist tại Italia và vị thế của nghỉ với tư cách là tiền bối của Benito Mussolini] vì nghỉ từ chối không đưa trình những hòn noãn thạch, những mẩu huyền thạch vốn để lộ ra điều ấy. Cách viết bình diện, đơn dạng, trôi xuôi của kẻ có một phong cách, không bao giờ đem cho ai chuỗi hạt trân châu. Nhưng lối viết, chẳng hạn của Racine hoặc Malherbe, thẳng đứng, lóng lánh bầu trời đêm rỗ hoa liệu không phải là đầy cành nhánh lấp lánh; các mảnh huyền thạch và những hòn noãn thạch vẫn có đó, không hồi kết những điệp từ sáo rỗng và mấy nùn giẻ văn chương. Có phải bọn ấy phi phong cách, hay chúng viết không phong cách, chúng đưa trình một cụm từ, thứ óng ánh, chuỗi trân châu. (Beckett, Samuel 1984, 47). Chiếc “chao đêm” đầy sao của đoạn đầu tiên, trong khi khới lên cái bề mặt, dải huyền kỳ của bầu trời đêm, cũng khuấy tâm nhiều kẻ nhớ đến chiếc máy langue ngôn ngữ rung động của Deleuze khi nó xoãi tới tận biên của diễn ngôn thi ca, gồm có giọng điệu, thanh âm, tiếng ồn, và đối mặt với khoảng nín thinh vượt ngoài tận biên của nó. 18 Nhưng cái hình thái ấy của Deleuze – cuộc đương đầu với nín thinh vượt khỏi tận biên ngôn ngữ, dường như công khai mang tính ẩn dụ, có khi còn hơn cả biểu trưng theo nghĩa hình mẫu hoặc biểu đồ, và thậm chí thuộc phương thức “thi ca” truyền thống, một cách thức thực sự khới lên cách triết học hóa thi ca của Heidegger quá cố. Thực ra nếu Deleuze muốn khách quan tính hết mức thì vẫn còn chút mập mờ ở khoảng nín thinh chứa đầy ý nghĩa, vì nó giả định trước chủ thể tính của kẻ nghe, có lẽ là người, và trong vật lý học có lẽ khó mà phân biệt được nín thinh khỏi tạp âm.19
Với Kẻ Kiệt lả, tiếp liền sau Hắn Cà lăm trong tiểu luận Critique et Clinique, Deleuze thảo luận về lối “vét kiệt ngôn ngữ” của Beckett với tư cách là một loại quá trình động, vận hành thông qua một loạt giai đoạn. Tiểu luận của Deleuze, về nguồn gốc, được bao gồm trong một sưu tập các văn bản của Beckett và vì vậy mà được dùng như là một loại bình luận về chúng; ba giai đoạn trong mô hình/chiếc máy “vét kiệt” của Deleuze hoàn toàn tương hợp với các tiểu thuyết của Beckett, đặc biệt là Watt, các tiểu thuyết và các vở kịch của ông, nhất là kịch radio, và cách viết thử nghiệm cực đoan hơn trong Nó thế nào cùng các kịch truyền hình. Giai đoạn đầu tiên của các tiểu thuyết là giai đoạn cho biết phép tu từ của “dáng cung quăng” trong Hắn Cà lăm – cách “quày quả cung quăng” hớt ngôn của vô tận các nhân vật của Beckett và của sự rung động langue ngôn ngữ lệch xa điểm cân bằng. Dáng đi của Watt được mô tả bằng cách cơ giới-không gian, quy giản nhất, đến mức là thực chất cơ giới-logic của “phong cách” Anh, tuyệt đối quy giản, tối thiểu, phi phong cách. 20 Logic y hệt của “kể cả các đoạn tách rời” đã lèo lái các phương thức vận động hoặc không vận động mang tính vật lý này đồng thời cũng lèo lái các cách thức ứng xử với các đối tượng vật chất của các nhân vật, chẳng hạn như việc phân loại các hòn noãn thạch của Molly, và việc đánh số các điểm vét kiệt các “khả tính logic”. 21 Vì vậy Deleuze bắt đầu với phương thức của Beckett, đặc biệt là trong Watt và bộ ba tiểu thuyết, Molloy, Malone chết, và Kẻ Không thể gọi tên, về việc chỉ nhấn vào danh sách các đồ vật, các hành vi và các khả tính logic, về việc vận hành qua phép hoán vị logic vét kiệt, chứ không đem lại cho chúng “tự sự tính hiện thực luận” theo nghĩa truyền thống.
Tuy nhiên như Jakobson đã chỉ rõ trong tiểu luận Chứng mất ngôn ngữ, trong đó ông phát triển các trục liên tưởng và ngữ đoạn của Saussure thành các trục hoặc các cực ẩn dụ và hoán dụ của riêng mình, còn logic tự sự thì về cơ bản có tính ngữ đoạn hoặc cú pháp, giống như logic của các sự kiện trong trật tự thời gian tuyến tính, ngược lại thi ca nhấn mạnh đến trục dọc của sự thay thế mang tính ẩn dụ. Cả hai loại trục này tất nhiên đều hiện diện trong tất cả các công trình văn chương. Phong cách Beckett dường như thuần túy ngữ đoạn, đã xuất trình sự khác biệt tối thiểu trục dọc-ẩn dụ, nhưng thậm chí cú pháp của ông vẫn tự lặp lại, mang tính cơ giới và bị quy giản một cách cực đoan. Chính vì vậy mà Deleuze đã nhìn thấy trong cái phi phong cách ấy hai trục của chiếc máy-langue ngôn ngữ rung động tách hẳn khỏi điểm cân bằng, trong đó sự khác biệt giữa chúng bắt đầu đổ vỡ. 22 Nhưng tại chính điểm đổ vỡ thực sự của sự khác biệt giữa trục ẩn dụ - trục hoán dụ thì lại tiềm ẩn trong các ví dụ của Deleuze từ “các từ tự thân phân chia” và “các từ tự thân kết hợp” của Luca, chẳng hạn như “pas-rats, passions-rations . . . pas-passe-passion”, (Deleuze, Gilles 1997, 110), cứ như là tự thân các phân tử từ hầu như đã trở thành các phân tử, các nguyên tử sự vật đang tự rã hủy vậy.
Vì vậy cách tiếp cận với mô hình/chiếc máy langue ngôn ngữ rung động thông qua Beckett, hoặc ngược lại, đã làm rõ ràng thêm nguyên do của vấn đề này – một vấn đề có lẽ vẫn ngầm ẩn trong Hắn Cà lăm, trong đó Beckett cũng hiện diện: chủ ý của Beckett, chức năng của cái phi phong cách của ông là “vét kiệt toàn bộ các khả tính logic”, có nghĩa là “vét kiệt cái khả thể”. Nhưng cái khả thể thì hoặc bao gồm, cùng với ngôn ngữ và, tối hậu dựa trên ngôn ngữ, cả logic và tư duy của con người, là thế giới đích thực vật lý cuối cùng được dựng lên bằng các phân tử và các nguyên tử. Bằng phép đếm giản đơn các “sự vật” và phép hoán vị hoặc các khả tính logic của nó thông qua một phi phong cách văn chương đã vận động xa hẳn khỏi điểm “cân bằng” mà sự khác biệt cú pháp-ẩn dụ đã thực sự đổ vỡ, thế giới văn bản của Beckett đã trở thành một từ-chỉ-các-sự-vật, hoặc tên-gọi-các-sự-vật, hoặc danh-từ-các-sự-vật, mà tên gọi hay danh từ thì cũng đều có nghĩa như nhau. Vì vậy “các từ chỉ danh từ của Beckett là những nguyên tử tách rời, vì những phối hợp của chúng tạo ra các bảng liệt kê các danh mục, chứ không phải là các định đề, và sự kết hợp giữa chúng chỉ có tính chất số học, theo cung cách Beckettien đầy chất ám ảnh chứ không mang tính cú pháp” (Lecercle, Jean-Jacques 2002, 4).
Mô tả của Deleuze về giai đoạn đầu tiên trong/của phi phong cách năng động của Beckett về cách “vét kiệt các khả tính logic” là như sau: Cái tổ hợp chính là nghệ thuật hoặc khoa học của cách vét kiệt cái khả thể thông qua các tách rời bao gồm trong đó. (Deleuze, Gilles 1997, 154). 23 …Tuy nhiên, nếu tham vọng của tổ hợp là vét kiệt cái khả thể bằng các từ, thì nó phải tạo ra một siêu ngôn ngữ, một ngôn ngữ rất đặc biệt, trong đó các mối quan hệ giữa các đối tượng phải đồng nhất với các quan hệ giữa các từ; và cuối cùng, các từ không còn đưa ra được một hiện thực hóa nào đối với cái khả thể nữa, nhưng tự bản thân chúng phải đưa lại cho cái khả thể một hiện thực chính xác với nó, một hiện thực, chính xác, có nghĩa là khả kiệt: “Tối thiểu cũng phải ít hơn. Không thể nhiều hơn. Thuận buồn xuôi gió đến với phi tồn tại. Hệt như đến với độ không - cái vô tận”.24 Chúng gọi cái có tính nguyên tử này là liên từ phân biệt, nó đã cắt xẻ và chẻ tách ngôn ngữ trong Ngôn ngữ số I của Beckett, một loại ngôn ngữ mà sự liệt kê thay thế cho các định đề và các mối quan hệ tổ hợp thay thế cho các mối quan hệ cú pháp: một ngôn ngữ của các tên gọi. (Deleuze, Gilles 1997, 156).
Các từ tương đồng với các sự vật, tuy không đồng nhất với chúng, nhưng “các mối quan hệ giữa các sự vật lại đồng nhất với các mối quan hệ giữa các từ” khi chúng vận động, cùng với Beckett, lên đến cấp độ của một siêu ngôn ngữ, một cấp độ gần như đồng nhất ngôn ngữ với hiện thực hơn là trường hợp trong thế giới đời thường của chúng. Chúng thực hiện vận động này vì cố gắng, Beckett cũng cố gắng, để vét kiệt cái khả thể bằng các từ, mà không “hiện thực hóa” cái khả thể, có lẽ đúng ra là không thể, vì chúng chỉ nói về khả tính, chứ không phải là về hiện thực: vì vậy ở cấp độ siêu ngôn ngữ này chúng “đem đến cho cái khả thể một hiện thực xác hợp đối với nó, một hiện thực, chính xác, có nghĩa là khả kiệt”. Ở đây cái logic dường như có thể là nghịch lý hoặc có vấn đề; cũng có thể vấn đề là ở chỗ giờ đây chúng đã lọt vào một không gian, một thế giới, hoặc một diễn ngôn, đó là tính ẩn dụ nhiều hơn tính logic. Lecercle nhủ khéo rằng Deleuze đã rẽ sang một “lý thuyết về Kẻ khác như là thế giới khả thể” ở giai đoạn hai, nhưng chúng cũng có thể tự hỏi liệu trong chính giai đoạn một này phải chăng Deleuze đang nói về “các thế giới khả thể” (Lecercle, Jean-Jacques 2002, 5). 25 Việc hình dung một thế giới khả thể mà hiện thực của nó bao gồm chính xác trong một thực tế là nó chỉ là khả thể, mà không phải là hiện thực, không phải là thực tế, tối thiểu trong các chiều góc của thế giới này, thì liệu nó có đòi hỏi, trừ phi chúng đã thực sự lọt được vào một chiều góc khác của logic, rằng phải coi hiện thực là tính khả kiệt của riêng nó: vì, trong logic như đã biết, chính các sự vật thực, chứ không phải là các sự vật khả thể, mới khả kiệt. Hoặc liệu “việc vét kiệt các khả thể bằng các từ”, cũng có nghĩa là từ có nhiều hơn các sự vật? Nếu “cái khả thể” có nghĩa là “toàn bộ các sự vật khả thể” thì dường như lại hàm ẩn cả điều này. Nếu đúng như vậy thì làm thế nào để “các mối quan hệ giữa các sự vật có thể đồng nhất được với các mối quan hệ giữa các từ”, ngay cả khi chúng vận động - hoặc sáng tạo về phương diện thi ca, sáng tạo thông qua poiesis thi pháp - lên đến cái siêu ngôn ngữ này, trong, hoặc bởi phương tiện mà chúng “đem lại cho cái khả thể một hiện thực khả kiệt”? Thực ra thì Deleuze cũng có thể bắt đầu từ định đề cho rằng cái đảo ngược là chân, đó là có nhiều sự vật hơn các từ, chính vì thế các từ phải “tự phân chia” và “tự thân kết hợp”, về cơ bản là lặp lại bản thân, để “vét kiệt hiện thực”, hoặc đúng hơn là “vét kiệt cái khả thể”.
Trong một tiểu luận trước đó của Deleuze Raymond Roussel, or the Abhorrent Vacuum 26, Raymond Roussel hay Khoảng chân không Đáng tởm, liên quan đến cuốn sách của Foucault viết về Roussel, một văn bút hiện đại luận Pháp, một kẻ như Deleuze ghi chú: “đã có một ảnh hướng lớn đến bọn siêu thực, và ngày nay vẫn tác động đến Robbe-Grillet, nhưng lại chỉ có ít kẻ để ý”, thì có thể thấy rằng đối với Foucault, trong ngôn ngữ có tồn tại một loại khoảng cách thiết yếu, một loại chuyển dịch, đổi chỗ, hoặc thậm chí tuyệt giao. Đó là vì số từ ít hơn số sự vật, vì vậy mà mỗi từ phải chuyên chở đến vài nghĩa. Văn học về cái vô lý tin rằng nghĩa là chưa đủ, nhưng sự thật thì còn có sự thiếu hụt về các ký hiệu. Vì vậy trong một từ, mở ra một khoảng không rỗng tuyếch: sự lặp lại một từ để lại sự khác biệt về nghĩa của nó một khoảng trống. Liệu đó có phải là bằng chứng về một bất khả tính của sự lặp lại? Không, đó chỉ là nơi mà hành động mạo hiểm của Roussel xuất lộ: nghỉ đã cố mở rộng khoảng trống ấy đến tối đa và vì vậy mà xác định và đo lường được nó, bằng cách đổ đầy khoảng trống ấy bằng toàn bộ một cỗ máy, toàn bộ một ảo tượng buộc chặt những khác biệt lại, và tích hợp chúng với sự lặp lại…Những lặp lại phóng khoáng đầy chất thơ, chính vì chúng không đàn áp sự khác biệt, mà lại xác tín khác biệt bằng nội tại hóa cái Số ít…Tự thân [s]ự vật là mở nhờ có sự vi tiểu hóa,...một trùng lặp, một mặt nạ. Và cái khoảng trống rỗng đó giờ đây đã bị ngôn ngữ vượt qua, sinh ra một thế giới tổng thể trong khe hở của những chiếc mặt nạ và những trùng lặp ấy. (Deleuze, Gilles 2004, 72-73).
Nhu cầu và kỹ thuật của Roussel về sự lặp lại của các từ, của ngôn ngữ để “lấp đầy” hoặc “vọt qua khoảng trống rỗng” – cái khoảng trống rống để ngỏ trong langue ngôn ngữ là do tình trạng thiếu hụt từ, tình trạng bất lực để gọi tên toàn bộ sự vật – dường như có thể ẩn sau các loại hình mẫu hoặc những chiếc máy mà Deleuze tưởng tượng, sáng tạo hoặc cấu trúc trong những tiểu luận muộn màng này. Việc mô tả giai đoạn hai của quá trình tự sự Beckett về sự “vét kiệt” bắt đầu bằng ý tưởng cho rằng tự bản thân các từ cần phải bị “vét kiệt”, nhưng dường như điều đó lại không tùy thuộc vào vấn đề về số lượng từ tương đối, các tên gọi, các danh từ, và các sự vật: nhưng nếu vì vậy mà kẻ nào hy vọng vét kiệt cái khả thể bằng các từ thì kẻ đó cũng phải hy vọng vét kiệt bản thân các từ; cội nguồn của nhu cầu về một siêu ngôn ngữ, một Ngôn ngữ số II, thứ ngôn ngữ không còn là ngôn ngữ của các tên gọi, mà là ngôn ngữ của các giọng điệu, một thứ ngôn ngữ không còn vận hành bằng các nguyên tử có thể kết hợp, mà bằng các dòng lưu ngôn có thể hòa trộn. Các giọng điệu là những đợt sóng hoặc các dòng chảy hướng đến và đổ về các huyết cầu ngôn ngữ học. Khi một kẻ vét kiệt cái khả thể bằng các từ thì kẻ đó phải cắt đứt và đập vỡ các nguyên tử, và khi một kẻ vét kiệt bản thân các từ thì kẻ đó đã làm cạn khô các dòng lưu ngôn. Vấn đề là giờ đây phải làm cho xong bằng các từ, là thứ thống trị công trình của Beckett từ Kẻ Không thể gọi tên trở đi: một khoảng nín thinh thực sự, mà không phải là sự nhàm chán đơn điệu bằng việc nói. (Deleuze, Gilles 1997, 156).
Đó là bình luận của Deleuze về giai đoạn hai công trình của Beckett, các vở kịch radio đôi khi tận dụng các giọng nói tình cờ nghe được đang nói bằng các thanh âm trúc trắc, giống như bằng tiếng kẻ ngoại, chẳng hề thân thuộc với bọn nghe/nhìn. Rõ ràng toàn chúng đang vận động, trong cách mô tả trên của Deleuze, vượt khỏi diễn ngôn thi ca với tư cách là “có nghĩa” đối với diễn ngôn thi ca thuần túy là “cách nói” – hoặc đúng ra là “giọng điệu” là cái bao quát hơn cách nói, gắn chặt với lĩnh vực lý sinh hơn là với lĩnh vực ngôn ngữ học hoặc nhận thức luận. Lecercle không quá nhấn mạnh đến cái “vô nghĩa” hoặc “tiếng ồn”, “Tháp Babel”, của các giọng điệu đó với tư cách là “Tha tính” của chúng: Ngôn ngữ số I là ngôn ngữ của các tên gọi…Ngôn ngữ số II là ngôn ngữ của các giọng điệu. Tính thân thuộc của Ngôn ngữ số I được giải thích bằng một thực tế là vẫn còn có một chủ thể, một kẻ nói, chịu trách nhiệm về việc gọi tên…còn mối quan hệ của sự quy chiếu giữa các từ và các sự vật thì vẫn ở đó. Nhưng lại không phải như vậy với Ngôn ngữ số II. Thế là giờ đây các từ đã biến mất. Tình trạng biến mất của các từ để lại hai hệ quả. Trước hết loại ngôn ngữ như vậy không còn là ngôn ngữ của bản ngã, vì bản ngã không còn tạo nghĩa cho nó được nữa, mà lại nắm bắt nó như một sự biểu hiện của nghĩa. Thứ hai, loại ngôn ngữ như vậy, nếu chỉ có một thứ tiếng thì chỉ có thể là một thứ tiếng của kẻ ngoại, được thốt ra bởi kẻ hoàn toàn Khác. Deleuze tận dụng tình huống này để phác họa một lý thuyết phi-thường về kẻ Khác với tư cách là thế giới khả thể, mà điểm tiếp xúc duy nhất của nó với thế giới hiện thực của tôi là Giọng điệu vốn không còn tạo ra nghĩa nữa. (Deleuze, Gilles 1997, 4-5). 27
Sau đó Deleuze chuyển đến giai đoạn ba của Beckett, giai đoạn bắt đầu từ tiểu thuyết thử nghiệm cực đoan hơn, đặc biệt là Nó Thế nào, và chuỗi các vở kịch truyền hình: Bằng cách nào mà chúng có thể làm ra được cả một chuỗi kịch như vậy? Bằng cách bội hóa gấp hai lần nếu một kẻ nói với một kẻ khác, hoặc gấp ba lần nếu một kẻ nói với kẻ khác, và kẻ khác nữa? Các bế tắc ấy sẽ được giải quyết nếu một kẻ cho rằng tận biên của chuỗi kịch đó không nằm ở tính vô hạn của các giới hạn, mà có thể phát hiện ra ở bất cứ nơi nào trong dòng vận động của nó: giữa hai giới hạn, giữa hai giọng điệu hoặc những biến thể của một giọng điệu duy nhất… Vì vậy còn có một ngôn ngữ thứ III, không còn gắn ngôn ngữ với các đối tượng có thể đếm được hoặc có thể kết hợp được, và cũng không còn gắn liền với việc truyền đi các giọng điệu, mà lại gắn với các tận biên nội tại bị thay thế không ngừng – các đoạn vấp âm, hoặc các lỗi khác … “Những đoạn bỏ trống là giành cho lúc các từ biến mất. Khi không còn bất cứ bí quyết nào thay thế. Vậy là tất cả lại chỉ được thấy sau đó. Rõ ràng. Toàn bộ trở nên rõ ràng là các từ bắt đầu mờ tối. Vì vậy toàn bộ đều không được nói ra”. Một cái gì đó được nhìn thấy, được nghe thấy thì được gọi là Hình tượng, một Hình ảnh thị giác hoặc thính giác…Không còn có vấn đề về việc phải tưởng tượng ra một “tổng thể” của chuỗi ấy bằng Ngôn ngữ số I nữa…hoặc vấn đề về việc bịa ra các câu truyện hoặc tạo ra các ký ức bằng Ngôn ngữ số II… (Deleuze, Gilles 1997, 157-158).
Lecercle nhận xét: Ngôn ngữ số III là ngôn ngữ của các hình ảnh. Phẩm chất của nó với tư cách là “ngôn ngữ” chỉ có thể là sản phẩm của một ẩn dụ được tạo ra từ rất lâu đời… Không chủ thể, không khách thể, không kẻ nói, không vật quy chiếu. Nhưng vẫn có kẻ nhận, đó là kẻ nghe thấy, kẻ nhìn thấy, và vẫn có một cái gì đó đang tiếp diễn, quá trình xuất hiện của những hình tượng đó. Đó là quá trình của tự thân ngôn ngữ, khi nghệ thuật đưa nó đến tận biên của nó, chuyển nó càng ngày càng đến gần hơn với khoảng nín thinh, đến với cái mà nó khao khát…Ngôn ngữ số III là ngôn ngữ của các tận biên ngôn ngữ, khi nó quay về với khoảng nín thinh, hoặc quay về với một trung gian khác, âm nhạc hoặc tranh, ảnh, tượng, hình họa. (Deleuze, Gilles 1997, 5). Nhưng chính bản thân Lecercle nhấn mạnh ngay ở đoạn mở đầu cuốn sách của ông, cũng giống như Olkowski, ở đoạn cuối cuốn sách của cô: “ngôn ngữ là một vấn đề” đối với Deleuze. Ở đoạn trước kẻ viết tiểu luận này đã khới lên cái cảm giác của mình dường như là một vấn đề đối với “sự bác bỏ ẩn dụ” của Deleuze ở chừng mức mà ngay cả cái mô hình-langue ngôn ngữ cà lăm, với khoảng nín thinh ở bên kia các tận biên của nó, dường như có tính ẩn dụ. Nhưng kẻ thủ bút cũng xin được nói rằng nếu Deleuze thay thế ngôn ngữ ẩn dụ bằng ngôn ngữ biểu trưng, bằng một cái gì đó dường như mang nghĩa Lyotardien, thì những hình thái bất định, mờ tối ấy có thể ngứn vượt hoặc cũng có thể chui xuống gầm không gian langue ngôn ngữ tổng thể hóa của ký hiệu học. Tuy nhiên giờ đây kẻ thủ bút cũng phát hiện ra cái diễn ngôn triết học tổng thể của Deleuze, đã được khai thác để soi sáng cho diễn ngôn tự sự của Beckett, về việc “vét kiệt” trong bất cứ phương diện nào cũng có vấn đề. Cái dường như còn mơ hồ về phương diện logic trong việc mô tả Ngôn ngữ số I với tư cách một siêu ngôn ngữ đem đến cho “cái khả thể hiện thực của riêng nó, một hiện thực, chính xác là khả kiệt” - một xác quyết được cho là không có ý nghĩa trong thế giới logic khả thể này – chỉ được tăng cường bằng sự mô tả của Ngôn ngữ số II và số III vốn theo đuổi cùng một đề tài tới những cấp độ xa hơn. Quan điểm khái quát hơn ở đây chính là ý tưởng, khả tính, về việc “vét kiệt” toàn bộ ngôn ngữ, nghĩa, hoặc ý nghĩa là điều vô nghĩa – trừ phi lại có giả định rằng chúng đã vượt khỏi logic để đến với một loại thế giới siêu-logic nào đó, mở rộng về phương diện biểu trưng. 28
Có lẽ vấn đề là ở chỗ Deleuze đang cố gắng tạo ra ý nghĩa cho khái niệm “[tự] vét kiệt ngôn ngữ”, và/hoặc của “hiện thực”, không chỉ trong các giới hạn diễn giải của ông về các văn bản tự sự phức tạp và kịch tính của một văn bút sáng tạo hiện đại luận muộn mang tính thử nghiệm cao – một kẻ, bằng những cách thức nhất định có thể, thông qua các kỹ thuật tự sự-thi ca của riêng mình, đã giới thiệu các vấn đề này ở vị trí đầu tiên – nhưng cũng vẫn ở trong các giới hạn của mô hình langue ngôn ngữ rung động. Vì các nền tảng của mô hình này vẫn nằm trong lĩnh vực của một “lý thuyết ngôn ngữ” được định nghĩa một cách rộng rãi, chính xác hơn là trong lĩnh vực của “ngôn ngữ học”. Thậm chí mặc dù Deleuze đưa các trục ngữ nghĩa “cổ điển” liên tưởng và kết hợp, ẩn dụ và hoán dụ tới các cực tận biên cà lăm của chúng – các tận biên vượt khỏi cái mà tự thân chiếc máy, theo một nghĩa nào đó, ẩn dụ hoặc biểu trưng, đã đổ vỡ và đối đầu với nín thinh – hai trục đó vẫn đặt nền móng trong ký hiệu học cổ điển. Vì vậy kẻ thủ bút muốn vắn tắt khới lên một mô hình thay thế được rút ra từ lý thuyết thông tin, thực tế có thể giải thích một vài vấn đề tương tự mà Deleuze gặp phải, nhưng theo một cách thức đơn giản hơn, chẳng hạn cách nói và giọng điệu trong khuôn viên của một “tạp âm” bao quát hơn, việc “vét kiệt” ngôn ngữ/ý nghĩa trong giới hạn của một cân bằng tận biên vượt khỏi các giới hạn ngôn ngữ và thậm chí có lẽ cả ngữ nghĩa, có một loạt chức năng hoặc khả dụng rộng rãi hơn sự “rung động cách xa điểm cân bằng” của chiếc máy ngôn ngữ Deleuze. Như sẽ được khới lên trong Kết luận, mô hình lý thuyết thông tin này cũng có thể có một sự kết nối với tổng thể khái niệm, vấn đề, câu hỏi hoặc vấn đề của việc đặt thành vấn đề và/hoặc đặt vấn đề.
Người dịch Hà Hữu Nga
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp