Những góc nhìn Văn hoá

Nhân danh, địa danh trong hát đối đáp xứ Nghệ

VĂN chương là sản phẩm của một quê hương, một xứ sở. Chúng ta dễ nhận ra điều đó là, trong hát đối đáp xứ Nghệ, địa danh, nhân danh hiện hữu khá nhiều. Nó trở thành một thứ “đề can” đặc biệt, không lẫn vào đâu được. Nó chứng tỏ từ xa xưa “dân nhà choa” đã có ý thức về quê hương mình, tên tuổi mình. Họ gắn bó mật thiết với quê hương như máu với thịt, như một thứ “gia bảo”, “của hồi môn” luôn hiện hữu bên mình.

Trước hết nói về địa danh. Mỗi tên làng, tên xã, tên núi, tên sông… tùy nơi, tùy lúc được đưa vào hát đối đáp khá linh hoạt và thần tình.

Xứ Nghệ có khi hiện lên bởi một vùng đất ít thấy trên đất nước ta: Đất Sò. Vào một đêm trai gái gặp gỡ chào nhau xong, cánh con trai lên tiếng: “Đường Sò ngựa chạy cát bồi/ Con công kia kêu mãi, con phượng ngồi sao yên ?”. Liền được phía con gái cộng hưởng ngay: “Hai bên cất giọng cho chuông/ Để cho phượng múa với cuông một hồi”.
Làng quê xứ Nghệ trong hát đối đáp thật lắm vẻ. Có khi là đặc điểm về thổ nghi, thổ nhưỡng, điều kiện sinh sống. Đây là làng Kẻ Dua (Tức làng Đan Du, Kì Thư, Kì Anh) qua lời dèm của một chàng trai làng khác, đối với một cô gái đang có ý muốn về làm dâu làng Đan Du: “Kẻ Dua hay nói giọng dằn /Đồng chua nước mặn, khó mần ăn đừng về”. Đây là làng Kẻ Chẻo (Hương Sơn) qua lời chê của một cô con gái: “Kẻ Chẻo đất đỏ như son/ Mới mưa vài hạt, đã bấm mòn ngón chân”. Liền được các chàng trai Kẻ Chẻo đáp lại: “Kẻ Chẻo đất đỏ như son/ Trầu gộc lắm lá, cau non lắm tiền”.
Ngay một cái tên làng mà cũng có nhiều cách giới thiệu. Khi thì được đề cập tới theo lối chơi chữ đồng âm dị nghĩa. Các cô gái làng Tràng Thân (Diễn Phúc - Diễn Châu) đã thử tài các chàng trai Yên Hội (Diễn Lộc) bằng câu hát: “Gái Tràng Thân, thân đã nên thân/ Thân những bậc văn nhân tài tử”. Cái khó ở đây là chữ “thân” có ba nghĩa: tên làng, thân phận, thân quen. Cái khó ấy đã được trai Yên Hội trả lời rất thần tình: “Trai Yên Hội, hội vừa gặp hội /Hội cùng người thục nữ, thuyền quyên”. Từ “hội” cũng có ba nghĩa: Tên làng, ngày hội, tụ họp. Có khi được nhắc tới một cách ý vị văn chương theo lối chiết tự của các ông đồ xứ Nghệ. Một chàng trai ở xa đến một làng nọ để “tìm đường đi lại” liền được một cô gái hỏi: “Quê anh thì ở nơi đâu/ Mà anh chăng lưới buông câu xứ này?”. Anh ta cao giọng ngâm: “Giằng đầu, nhất khẩu, chữ điền/ Thảo đầu, vương ngã là miền quê anh”. Thì ra anh ta ở làng Phú Nghĩa. Một cô gái quê làng Hoàng Lao lên thăm chị gái lấy chồng về làng Cự Phú (Hai làng đều ở Thanh Chương), thấy một chàng trai đang còng lưng đan rổ, bèn hát: “Đất Hoàng Lao, chữ lao là nhọc/ Đất Cự Phú, chữ phú là giàu/ Em đến đây cũng muốn chị trước em sau/ Nhưng mùi trầm hương em nỏ (chẳng) chộ (thấy) mà chỉ chộ màu khói mây”. Anh ta trả lời rất “sát vấn đề,” nhưng hơi nhộn: “Giàu là giàu nơi hương hào, dịch mục/ Nhọc là nhọc nơi tú cử, trâm bào/ Khúc trầm hương, anh còn để trong bao/ Em có đưa cái lò hương đi đó, để anh bỏ vào cho nó thơm”.
Cây đa tự ngàn xưa đã trở nên thân quen với làng quê Việt Nam. Ở xứ Nghệ cũng thế. Cho nên nhiều chàng trai đi hát thường đề cập tới cây đa kèm với đặc sản của làng mình. Trai Kẻ Bấn (Đức Thọ) thì hát: “Cây đa ba nhánh chín chồi/ Ai về Kẻ Bấn ăn xôi thì về”. Trai làng Thông Lạng (Hưng Nguyên) thì ngâm: “Cây đa ba nhánh chín chồi/ Ai về Thông Lạng ăn xôi thì về”. Còn một chàng trai Tri Lễ (Anh Sơn) sang xã bên ve vợ lại khoe: “Cây đa ba nhánh chín chồi / Ai về Tri Lễ ăn xôi nếp rồng.”; đã bị gái xã bạn nhại lại mà hát thành: “Cây đa ba nhánh chín chồi/ Ai về Tri Lễ gặm cồi lúa ngô”.
Làng quê xứ Nghệ trong hát đối đáp hiện lên với tất cả vẻ giàu đẹp, gian khổ và lam lũ của nó. Đây là đặc điểm của đất làng Đồng Lưu (Thạch Hà) qua lời trách móc của một chàng trai đối với bạn tình: “Nước thủy triều mau xuống mau lên/ Đất Đồng Lưu bọc địa thiếp mau quên nghĩa chàng”. Đây là nét nổi bật của làng Tràng Lưu (Can Lộc): “Muốn tắm mát thì ra giếng Đoài/ Muốn lấy vợ đẹp thì hỏi ngài (người) Tràng Lưu”. Và đây là nét tiêu biểu của trai thanh, gái lịch hai làng Đông Thái, Yên Hồ thuộc huyện Đức Thọ: “Trai Đông Thái, gái Yên Hồ/ Gặp nhau làm nổi cơ đồ cũng nên”. Riêng làng Đan Du (Kì Anh) lại có phong cảnh cực kỳ hữu tình: “Đan Du nổi tiếng Dinh cầu/ Trước có cồn phượng lộn, sau có bàu hóa long”. Còn làng Kẻ Thượng (Đức Thọ) lại nổi tiếng giàu có qua lời khoe của một chàng trai đối với một cô gái xã khác: “Trăng lên khỏi ngọn cơn tre/ Lấy chồng Kẻ Thượng, chở ba ghe tiền đồng”. Còn làng Chu Lễ (Hương Khê) ngày xưa nghèo khổ lắm. Vì thế một chàng trai mới dèm một cô gái: “Em về Chu Lễ mần chi/ Trồng khoai thì lợn ụi, cấy ló (lúa) thì heo ăn”. Cô gái đã đáp lại: “Em về Chu Lễ buôn hồng /Bán mua, mua bán thong dong con ngài (người)”. Xưa kia đất Tình Di, Tình Diệm (Hương Sơn) nghèo lắm. Nghèo đến nỗi một cô gái đã phải nhắn với cánh mình một câu hát có tính chất truyền đời: “Đói lòng ăn quả chuối ri/ Lấy chồng Tình Diệm, Tình Di thì đừng”. Còn trai làng Nho Lâm (Diễn Châu) thì không dấu diếm sự vất vả của làng quê mình khi tỏ tình với con gái các làng chung quanh: “Nho Lâm than quánh nặng nề/ Em mà đang được thì về Nho Lâm”.
Địa danh có khi là tên của những cái chợ. Đây là chợ Nghèn qua đoạn phát ngôn sau: Út Miện, một chàng trai huyện Nghi Xuân vào Can Lộc đi buôn. Găp một cô gái bắt mắt, sạch mặt, anh ta lân la hỏi chuyện chồng con. Được dịp, cô ta đã trả lời một cách kiêu kỳ: “Chồng em anh đã biết chưa/ Tay đeo vòng bạc, chân đưa võng điều”. Biết là cô ả đã cường điệu, Út Miện trả miếng ngay: “Chồng em anh đã biết rồi/ Hai mắt nhão choẹt, bán vôi chợ Nghèn”. Đây là chợ Giang Đình qua lời dặn nhau của phường buôn: “Thuyền tình thì ghé bến tình/Thuyền buôn thì cứ Giang Đình mà lên”. Đây là chợ Chế (Nghi xuân) và chợ Phuống (Thanh Chương) trong lời hát đầy lo lắng thương yêu của một chàng trai đối với một cô gái: “Thuyền anh xuôi Chế sáu chèo/Thuyền em ngược Phuống cheo leo một mình”. Chợ Voi hiện lên qua lời khen chê của một chàng trai: khen đất Kỳ Anh đẹp, nhưng chê con gái Kỳ Anh không biết cách ăn mặc, đến nỗi mặc áo mà để hở cả lườn: “Nhất cao là núi Hoành Sơn/Lắm hươu Bàn Độ, áo lườn chợ Voi”; đã bị các cô gái Kỳ Anh bác lại: “Chữ rằng nhân kiệt địa linh/ Có Hoành Sơn Bàn Độ mới dễ nảy sinh anh tài/ Chợ Voi chân dép chân giày/ Thong dong nhàn hạ đâu tày chợ Voi”. Đây là lời tỏ tình của một cô gái phường buôn Thanh Chương đối với một chàng trai phường buôn Nghi Lộc: “Nay Cồn, mai Rộ, mốt Dùng/ Ngày kia chợ Cõi, biết chừng mô lên?”. Còn đây là nỗi niềm của môt đôi phường buôn. Bên con trai thổ lộ: “Thương em vô giá quá chừng/ Chợ Cồn sắp đến nửa mừng nửa lo”. Liền được bên con gái bộc bạch: “Nhớ chàng đằng đẵng như niên/ Chợ Cồn một tháng chín phiên em đều chờ”. Còn đây là chợ Giát, chợ Tuần ở Quỳnh Lưu thông qua nỗi lòng chung thủy của một cô gái đối với bạn tình: “Dù anh xuôi Giát, ngược Tuần/ Hữu duyên thiên lý, khổ trăm lần em cũng thương”.
Địa danh có khi là chiếc cầu có nhiều người qua lại, ai cũng biết: cầu Giằng. Đây là chiếc cầu nằm trên đường Quốc lộ số I, thuộc xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân. Một đêm vào giờ hát tiễn, bên nữ hỏi: “Đêm khuya trăng quyện cùng mây/ Chàng về có nhớ nơi đây nữa là”. Bên nam trả lời thật lý tưởng: “Ra về chưa đến cầu Giằng/ Nhớ cha, nhớ mẹ, không bằng nhớ em!”.
Có khi là một vùng quê với đặc sản nổi tiếng của vùng quê đó. Một anh con trai mời bạn gái về thăm quê mình ở Ba Xã (Thạch Hà): “Mặt trời nửa đỏ nửa vàng/ Em về Ba Xã ăn dưa gang mỏi mồm”. Đây là lời mời của một chàng trai Nhượng Bạn (Cẩm Xuyên): “Ai về Nhượng Bạn thì về/ Gạo nhiều cá lắm dễ bề làm ăn”. “Cá cửa Nhượng, khoai Mục Bài/ Khuyên ai về Cửa Nhượng, kẻo một mai tiếc thầm”. Một chàng trai Phan Xá lên Xuân Viên (Nghi Xuân) khoe: “Em về Phan Xá mà coi/ Nhà anh đóng đố gương soi tứ bề”. Đã bị các cô gái Xuân Viên hát đáp lại: “Em về Phan Xá coi rồi/ Nhà anh cũng được như chòi giữ dưa!”
Xứ Nghệ có lắm truông, lắm đèo. Chính vì thế mà người xứ Nghệ nhớ lâu, tình đậm. Một đôi trai gái đi gặt thuê ở Đông Thành quen nhau rồi yêu nhau. Lúc chia tay người con trai không dấu diếm gia cảnh của mình: “Nhà anh mưa nắng thấy trời/Quanh năm hai bữa cơm khoai thất thường”. Tưởng thổ lộ như thế cho ai đỡ vương vấn. Không ngờ cô gái càng quyết tâm hơn: “Quý hồ anh có lòng thương/ Dốc Vên em đã vượt, thì truông Bồn em cũng qua”.
Địa danh còn là tên các dòng sông, bến nước buôn bán sầm uất. Vì thế khi xa nhau, phường buôn thường hò hẹn ngày gặp lại: “Thứ nhất là vạn Tam Soa/ Thứ nhì vạn Phố, thứ ba vạn Nầm”. Vạn là nơi bến sông buôn bán hàng ngày. Ba vạn này đều ở Hương Sơn. Rồi đến khi bên con trai hát: “Thương nhau tam tứ núi cũng trèo/ ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”. Thì bên con gái hát: “Trót cùng chàng dan díu bấy lâu/ Dù chàng có ngược Ngàn Phố, Ngàn Sâu em cũng chờ”. Hay khi bên con trai trữ tình: “Bấy lâu nỏ chộ bóng em/Sông Lường anh kiếm, sông Sen anh tìm”. Hay: “Gió sao gió mát sau lưng/ Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này?”. Thì bên con gái bộc bạch nỗi lòng: “Nước sông Lường ai lắng mà trong? Duyên chàng ai tạc cho lòng nhớ thương”. Sông Lường là tên của đoạn sông Lam chảy qua huyện Đô Lương, quãng chợ Lường.
Có khi là đoạn đường số Một có nhiều kỷ niệm trong lòng các cô gái như đoạn từ Cày đến Ba Giang ở huyện Thạch Hà: “Từ Cày cho đến Ba Giang/Khách bộ hành lai vãng em tưởng chàng đi thi”.
Có khi là ngọn núi, dãy núi quen thuộc với mọi người. Một cô gái đẹp vùng Thạch Hà, Can Lộc được nhiều chàng trai để ý. Cô ta thường tự ví mình: “Em như con chim phượng hoàng/ Đỗ cao Thiên Nhẫn mây vàng bao quanh”. Các chàng trai hỏi ý định cuối cùng của cô sẽ về đâu? Nhất cự ly, nhì cường độ. Cô ta đã trả lời rất ý tứ: “Rú Bằng, rú Bể, rú Bin/ Ba rú họp lại, rú mô gin (gần) thì em về”. Đầu huyện Hiến người Nghi Xuân có năm vào Kỳ Anh theo đòi đèn sách; phải lòng cô Võ Thị Nhẫn nên ngỏ lời: “Trông về Hồng Lĩnh thì xa/ Anh muốn trèo lên Tượng Lĩnh (rú Voi) bẻ cành hoa cát đằng”. Cô Nhẫn đáp lại: “Chàng mơ nơi kín cổng cao tường/ Sao không nghĩ đến quê hương ít nhiều?”. Đầu huyện Hiến nối thêm: “Quê hương anh cảnh đẹp cũng nhiều/ Nhưng vào đây nghe nói cảnh Lam Kiều cũng vui”. Và đây là huyện Nam Đàn qua cách trả lời của một anh con trai, khi có một cô gái hỏi: “Tình cờ chẳng được mấy khi/ Tên họ là gì, quê quán anh đâu?”. Anh ta đã trả lời theo lối thật thà của “bậc thứ ba”: “Quê anh thì ở Nam Đàn/ Họ anh họ Nguyễn, tên chàng Lý Mây”. Lý Mây nói lái lại thành ra lấy mi!
Còn giai thoại sau đây thì nhân danh, địa danh được đưa vào rất khéo léo: Những năm 40 của thế kỷ XX, ông Hoàng Truyện, thường gọi là ông Dự, ở xóm Cầu, xã Diễn Lợi (Diễn Châu) tuy đã có vợ con, nhưng còn mê hát ghẹo lắm. Trong một lần xuống Diễn Thịnh, ông hát để ghẹo o Bốn: “Mình em ba chốn bốn nơi/ Xa nhau còn dự (giữ) được lời nữa không?/ Hay là chộ bưởi quên bòng/ Thấy chàng nho sĩ, quên ông đi cày?” O Bốn đã trả lời vừa tình tứ vừa thắm thiết: “Ăn cốm thì chớ ăn xôi/ Đã ngược Ba Dội, thì thôi Động Thờ.”. Ba Dội nằm trong dãy Đại Vạc, Động Thờ là ngọn núi cao ở phía Tây Nam Diễn Châu. Sau nhiều lần hát qua, hát lại, o Bốn đã mê ông Dự. Và họ đã lấy nhau.
Là huyện Đức Thọ trong lời hát rủ của trai gái và nhân dân huyện ấy: “Ai về Đức Thọ thì về/ Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn”.
Là huyện Hương Khê trong nỗi nhớ da diết của những người bạn tình khi xa nhau: “Ngồi buồn nhớ bạn Hương Khê/ Mài mực cho thắm mà đề câu thơ”.
Trai xứ Nghệ học giỏi nhưng hơi gàn bướng. Một anh chàng nào đó ở huyện Đông Thành sang huyện bạn hát ghẹo, đã bị các cô gái chất vấn: “Đất Đông Thành đồn rằng chàng hay chữ/ Vậy thiếp xin hỏi chàng thầy Mạnh - Tử con ai?.”. Anh ta bí, vì sách xưa không nói đến cha thầy Mạnh - Tử, nên đành gượng gạo trả lời một câu cho hả giận, rồi tìm đường đánh tháo: “Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra/ Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày”.
Một cô gái Thanh Chương ngỏ lời với một chàng trai Diễn Châu: “Diễn Châu lắm bến nhiều đò/ Thanh Chương lắm rú, có hẹn hò được không?”. Chàng trai Diễn Châu đáp: “Hẹn hò cũng muốn hẹn hò/ Đi lên rú, sợ gãy giò anh đi”. Cô gái Thanh Chương vẫn nhiệt tình: “Gãy giò thì mặc gãy giò/ Em trông em đợi, anh cứ bò mà lên!”. Thuở ấy, đất Thanh Chương còn bị bệnh sốt rét hoành hành. Vì thế, mà chàng trai Diễn Châu phải vái dài: “Thương em cũng muốn bò lên /Bò lên anh sợ, phải rên hùi hùi!”.
Địa danh nhiều khi đi liền với nhân danh. Điều đó cũng dễ hiểu, vì con người là hoa đất! Không có con người thì trái đất có đẹp đến đâu cũng trở thành cõi chết!
Con người xứ Nghệ thông minh, hồn nhiên, nên cách đưa tên người vào trong hát đối đáp cũng đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Nhìn mực nước bờ sông, có nơi gọi là rào, một chàng trai cất lời hát, hỏi: “Nước lên nhân nhẩn bờ rào/ Người ta sang cả em cầm sào đợi ai?”. Cô gái đã đáp lại một cách tình tứ, bằng cách đổi một chữ ở câu lục, còn câu bát thì lồng tên chàng trai vào: “Nước lên nhân nhẩn bờ sông/ Đợi người tri kỷ bế bồng thiếp sang”. Thì ra đó là câu hỏi của Phó bảng Kỷ và lời đáp của cô Võ Thị Nhẫn.
Cũng cung cách ấy, có lần cô Nhẫn đã hỏi ba nho sĩ có tên là Hải, Biên, Chu một câu hỏi khá dí dỏm: “Gặp đây hỏi thật anh hào/ Biên chu hải ngoại, ngộ ba đào tính răng?”. (Biên chu hải ngoại ngộ ba đào, có nghĩa là: con thuyền nhỏ ở ngoài biển gặp sóng lớn).
Ba nho sĩ tuy đã trả lời nhưng chưa thật xuất sắc: “Em hỏi thì ba anh xin thưa /Biên chu hải ngoại phải vô bờ cho mau”.
Tên người có khi được đưa vào lời hát theo lối một chữ hai nghĩa; vừa nghĩa trong văn cảnh, vừa nghĩa tên người trong cuộc. Xin dẫn ra hai mẩu chuyện sau đây:
Bà Cố Sĩ quê ở xã Xuân Mỹ, huyện Nghi Xuân, hồi còn trẻ có nhiều chàng trai theo đuổi. Trong những người đó có ông Hạng rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa. Biết bà đã nhận trầu cau nhà người, ông Hạng vẫn dẻo dai theo đuổi. Một hôm, nhân gặp bà đi bứt cỏ về, chẳng may bứt phải cỏ già, ông Hạng dèm: “Em không nghe mẹ nghe cha /Em vào bờ Cống Khánh, em bứt nạm cỏ tra ra về”. Trong tiếng Nghệ, cỏ tra là cỏ già. Biết được dụng ý của đối phương, bà Sĩ hát đáp lại: “Em hèn, em bứt nạm cỏ tra/Anh sức tráng hạng bứt ra cỏ mờm”. Tráng hạng là khỏe mạnh. Hạng vừa là tên của ông Hạng. Cỏ mờm là loại cỏ cứng, trâu bò rất kén ăn thì có hơn gì cỏ già! Chưa cưới, thì người chồng tương lai chẳng may bị bệnh thương hàn. Tóc trên đầu rụng gần hết. Được dịp ông Hạng lại dèm: “Em về cứ việc đi bò/ Tóc tai chi chưa có, chưa ra trò gấy nhông (vợ chồng)”. Bà Sĩ liền cho ông Hạng một “đòn” cay cú: “Tóc ngắn rồi tóc lại dài/ Những phường mặt rỗ đá mài không trơn!”.
Người xứ Nghệ, đặc biệt từ Can Lộc trở vào không mấy ai không nghe nói đến dì Tương. Dì hát ví hay có tiếng. Thuở còn thanh xuân, dì say tiếng hát của Sĩ Đường. Chẳng may một năm mất mùa, Sĩ Đường phải đi làm ăn xa. Lúc trở về gặp lại nhau, nhìn dì Tương, Sĩ Đường như có cảm giác “một mà hai”. Dì Tương hỏi Sĩ Đường vì sao bấy nay xa cách. Sĩ Đường đã hát đầy ẩn ý: “Một là tương lạt muối/ Hai là tương xấu đậu nành/ Ba là Tương vắn múi khăn xanh/ Đường đại lộ thông hành/ Nỏ chỗ Tương lai vãng/ Không thấy Tương lai vãng.”
Trong lời hát của Sĩ Đường, ác nhất là câu “Ba là Tương vắn múi khăn xanh”. Hát thế có khác gì bảo dì Tương đã to bụng! Hiểu được dụng ý của bên kia, có thanh minh nữa cũng bằng thừa, dì Tương giáng trả lại: “Tương không hề lạt muối/Tương không xấu đậu nành/ Tương không vắn múi khăn xanh/ Đường đại lộ thông hành /Tương đi ngày ba bận. Đạp trửa (giữa) mặt đường ngày ba bận”.
Có khi tên người tuy là tên riêng thật đó, nhưng vẫn có tính phiếm chỉ, mở rộng. Một cô gái đẹp đã yêu anh rồi, lại còn muốn “nhìn đến” cả em. Bởi thế trai làng hát để chê cười: “Thiên hạ thiếu chi người sang/ Đã Lê Sĩ Bàng, lại Lê Sĩ Tiêm”. (Đây là hai anh em ruột người huyện Can Lộc, cùng đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn 1736 đời Lê Vĩnh Hựu).
 Ngày xưa vùng Chợ Chế (Nghi Xuân) có một cô gái đẹp nổi tiếng. Bởi thế, con trai vùng Can Lộc, Đức Thọ thường hát rủ nhau: “Năm tiền bỏ đãy tai voi/ Đi ra Chợ Chế mà coi o Miều”.
 Có khi tên người được đề cập ngay trong lời hát cùng với đặc điểm của con người ấy. Đất Thanh Chương ngày xưa có lắm “thầy gà”. Một thầy gà bày cho con hát, hát vọng sang bên kia: “Tiêu ư tư, tịch ư tư/ tiếng ai như tiếng Như Từ đó chăng?”. Ông Như Từ nhận ra tiếng của đối phương, bèn hát đáp lại: “Tiếng ai như tiếng Chắt Tăng/ Hát chi mà hát cả răng lẫn mồm”.
Theo ông Trần Đình Ngọ, ở Thanh Chương nhiều già làng kể lại rằng: Ngày trước có hai cặp trai gái yêu nhau: Hồ yêu Sen, Đào yêu Liễu. Về sau Đào, Liễu lấy được nhau, nhưng Sen, Hồ thì trở thành thiên tình sử đầy nước mắt. Hồ mất, Sen tự vẫn theo Hồ. Ngày nay còn lại với thời gian là lời hát đầy ai oán: “Sen xa Hồ, Sen khô Hồ cạn/ Liễu xa Đào, Liễu ngả Đào nghiêng/ Anh xa em như bến xa thuyền/ Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi”. Trước đây mỗi lần nghe hát, ta cứ tưởng Sen, Hồ, Đào, Liễu chỉ là những cái tên phiếm chỉ, bông lông xã, ba la huyện, có tính tượng trưng. Có ai ngờ đó là tên của hai cặp trai gái yêu nhau thực sự.
Có nơi trong khi hát tiễn, bên con trai đã khéo lồng tên hai bên nam nữ vào trong lời hát, làm cho không khí trở nên đậm đà, ấm cúng; “Nhất môn Đào, Lý, Sơn, Hồ tại/ Bán dạ Thanh, Tùng, Cung, Nhụy quy/ Bây giờ người ở, người đi/ Một ngày nặng gánh tương ti (tư) một ngày”. Hai câu chữ Hán có nghĩa là: một nhà Đào, Lý, Sơn, Hồ ở lại/ Nửa đêm Thanh, Tùng, Cung, Nhụy ra về. Đào, Lý, Sơn, Hồ là tên của bốn người con của bà Hoàng Thị Hoa (1854 - 1950) ở làng Cầu, xã Diễn Lợi, huyện Diễn Châu. Nhà bà có nhiều con gái đẹp. Thanh, Tùng, Cung, Nhụy là tên bốn chàng trai làng Nho Lâm cùng huyện.
Trong hát đối đáp, có những câu hỏi dùng cả Hán lẫn Nôm. Tuy vậy, vẫn gần gũi dễ hiểu. Có lần cô Võ Thị Nhẫn hỏi cả Trạch (Nguyễn Đức Trạch), con trai đầu của tri phủ Triệu Phong Nguyễn Đức Huy: “Hỏi chàng hà tính, hà danh/ Hà châu, hà quận, niên canh kỷ hà?”. Nghĩa là: Chàng họ tên là gì, châu nào, quận nào, bao nhiêu tuổi? Cả Trạch đáp: “Bây giờ anh nói thật với lại thuyền quyên/ Anh là con trai phủ Triệu ở miền chợ Voi”.
Tóm lại, tên đất giống như những khoảng trời, tên người là những ngôi sao. Những khoảng trời làm đẹp những ngôi sao. Những ngôi sao chiếu sáng, làm lung linh, rạng rỡ những khoảng trời. Ta rất đỗi tự hào trên đất nước ta, quê hương ta có những khoảng trời và những ngôi sao như thế. Biết được vẻ đẹp của người xưa, chúng ta cố gắng vươn lên sống cho tốt đẹp, và có ý nghĩa như bao thế hệ tiền bối đã từng sống.


tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114596279

Hôm nay

2115

Hôm qua

2314

Tuần này

21740

Tháng này

222896

Tháng qua

131357

Tất cả

114596279