Những góc nhìn Văn hoá

Bùa mê của Platon *(Kỳ 1)

LỜI NÓI ĐẦU CHO LẦN XUẤT BẢN ĐẦU TIÊN
 
Nếu trong cuốn sách này có những lời ác nghiệt về một vài bậc vĩ đại nhất trong số các lãnh tụ trí thức của nhân loại, động cơ của tôi không phải, tôi hi vọng, là để hạ thấp họ. Nó xuất phát đúng hơn từ niềm tin chắc chắn của tôi là, nếu muốn nền văn minh của chúng ta sống sót, chúng ta phải đoạn tuyệt với tập quán tôn kính những người vĩ đại.

Những người vĩ đại có thể phạm các sai lầm to lớn; và như cuốn sách cố gắng cho thấy một số lãnh tụ vĩ đại nhất của quá khứ đã ủng hộ sự tấn công muôn thủa vào tự do và lí trí. Ảnh hưởng của họ, quá hiếm khi bị thách thức, vẫn tiếp tục làm lạc lối và chia rẽ những người mà sự bảo vệ nền văn minh phụ thuộc vào. Trách nhiệm vì sự chia rẽ bi thảm và có lẽ tai hoạ này trở thành trách nhiệm của chúng ta nếu chúng ta do dự nói thẳng trong phê phán của chúng ta đối với cái phải thừa nhận là một phần di sản trí tuệ của chúng ta. Bằng cách không sẵn lòng phê phán một vài trong số đó, chúng ta có thể giúp phá huỷ nó hoàn toàn.

Cuốn sách là một nhập môn phê phán triết học về chính trị và lịch sử, và một khảo sát một vài nguyên lí về xây dựng lại xã hội. Mục tiêu và cách tiếp cận của nó được trình bày trong Dẫn nhập. Ngay cả nơi nó nhìn lại quá khứ, các vấn đề của nó là các vấn đề của thời đại chúng ta; và tôi đã cố gắng hết sức để phát biểu chúng đơn giản ở mức tôi có thể, với hi vọng làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến tất cả chúng ta.
Mặc dù cuốn sách không đặt bất kể điều kiện trước nào ngoài tính phóng khoáng của độc giả, mục tiêu của nó không phải là truyền bá các vấn đề được đề cập mà là để giải quyết chúng. Tuy vậy, trong một nỗ lực để phục vụ cả hai mục tiêu này, tôi đã để những nội dung chuyên sâu hơn vào phần Chú thích được tập hợp ở cuối cuốn sách.
 
1943
 
DẪN NHẬP
 
Tôi không muốn che dấu sự thực rằng tôi chỉ có thể nhìn với mối ác cảm… lên tính kiêu căng dương dương tự đắc của tất cả các tập sách được nhồi đầy sự uyên thâm, như đang là mốt thời thượng hiện nay. Vì tôi hoàn toàn tin rằng…các phương pháp được chấp nhận hẳn làm tăng vô hạn những điều nực cười và ngớ ngẩn này, và rằng ngay cả sự thủ tiêu hoàn toàn tất cả những thành tựu kì cục này có lẽ có thể không tai hại như khoa học hư cấu này với sự màu mỡ đáng ghét của nó.
                                                            KANT.
 
Cuốn sách này nêu ra các vấn đề có thể không hiển nhiên từ bảng mục lục.
Nó phác hoạ một số khó khăn đối mặt với nền văn minh của chúng ta- một nền văn minh có lẽ có thể được mô tả như hướng đến tính nhân đạo và tính hợp lí, đến sự bình đẳng và quyền tự do; một nền văn minh, có thể nói, vẫn còn phôi thai và tiếp tục phát triển bất chấp sự thực là nó đã rất thường xuyên bị rất nhiều lãnh tụ trí tuệ của nhân loại phản bội. Nó cố gắng chỉ ra rằng nền văn minh này vẫn chưa hồi phục từ cú sốc sinh thành của nó- quá độ từ xã hội bộ lạc hay ‘xã hội đóng’, với sự qui phục trước các lực lượng ma thuật, sang ‘xã hội mở’ giải phóng năng lực phê phán của con người. Nó cố gắng chứng tỏ rằng cú sốc của quá độ này là một trong những nhân tố đã làm cho sự nổi lên của các phong trào phản động- đã cố, và vẫn cố, đạp đổ nền văn minh và để quay lại với tập quán bộ lạc- là có thể. Và nó gợi ý rằng cái ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa toàn trị thuộc về một truyền thống, đúng là cổ xưa hay đúng là non trẻ như bản thân nền văn minh của chúng ta.
Nó cố gắng bằng cách ấy đóng góp cho sự hiểu biết của chúng ta về chủ nghĩa toàn trị, và về tầm quan trọng của cuộc chiến muôn thủa chống lại nó.
Nó cố khảo sát thêm việc áp dụng các phương pháp phê phán và duy lí của khoa học vào các vấn đề của xã hội mở. Nó phân tích các nguyên lí của sự tái thiết xã hội dân chủ, các nguyên lí của cái tôi có thể gọi là ‘cải biến xã hội từng phần- piecemeal social engineering’ đối lập với ‘cải biến xã hội Không tưởng –Utopian social engineering (như được giải thích ở Chương 9). Và nó cố dọn đi một số trở ngại ngăn cản cách tiếp cận duy lí đến các vấn đề tái thiết xã hội. Nó làm như vậy bằng cách phê phán các triết lí xã hội, triết lí chịu trách nhiệm về định kiến phổ biến chống lại các khả năng của cải cách dân chủ. Hùng mạnh nhất trong các triết lí này là triết lí mà tôi đã gọi là chủ nghĩa lịch sử. Câu chuyện về sự nổi lên và ảnh hưởng của một số dạng quan trọng của chủ nghĩa lịch sử là một trong những đề tài chính của cuốn sách, những cái có thể thậm chí được mô tả như một sưu tập các ghi chú bên lề về sự phát triển của các triết lí lịch sử chủ nghĩa nào đó. Vài nhận xét về xuất xứ của cuốn sách sẽ trình bày ngắn gọn chủ nghĩa lịch sử có nghĩa là gì và nó liên hệ ra sao với các vấn đề khác được nhắc tới.
Mặc dù tôi chủ yếu quan tâm đến các phương pháp của vật lí học (và vì vậy đến các vấn đề kĩ thuật nhất định, rất xa các vấn đề được thảo luận ở cuốn sách này), tôi cũng đã quan tâm trong nhiều năm đến vấn đề về tình trạng không được thoả mãn lắm của một số khoa học xã hội và đặc biệt của triết học xã hội. Điều này, tất nhiên, làm nảy sinh vấn đề về các phương pháp của chúng. Sự quan tâm của tôi đến vấn đề này được kích thích mạnh bởi sự nổi lên của chủ nghĩa toàn trị và bởi sự thất bại của các khoa học xã hội và triết học xã hội khác nhau để làm cho nó có ý nghĩa.
Về điều này, một điểm nổi lên đặc biệt cấp bách đối với tôi.
Ta nghe quá thường xuyên về gợi ý rằng dạng này hay dạng kia của chủ nghĩa toàn trị là không thể tránh khỏi. Nhiều người, do trí thông minh và sự đào tạo của họ, phải chịu trách nhiệm về cái mà họ nói, tuyên bố rằng không có lối thoát nào khỏi nó. Họ hỏi liệu chúng ta có thật đủ ấu trĩ để tin rằng dân chủ có thể là vĩnh cửu hay không; liệu chúng ta không thấy rằng nó chỉ là một trong nhiều dạng của chính phủ đến và đi trong tiến trình lịch sử hay không. Họ lí lẽ rằng dân chủ, để chống lại chủ nghĩa toàn trị, buộc phải sao chép các phương pháp của nó và như vậy tự trở thành toàn trị. Hoặc họ khẳng định rằng hệ thống công nghiệp của chúng ta không thể tiếp tục hoạt động mà không chấp nhận các phương pháp kế hoạch hoá tập thể, và họ suy ra từ tính không thể tránh khỏi của một hệ thống kinh tế tập thể rằng sự chấp thuận các hình thức toàn trị của cuộc sống xã hội là cũng không thể tránh khỏi.
Các lí lẽ như vậy nghe có vẻ khá hợp lí. Song vẻ hợp lí không phải là một chỉ dẫn tin cậy trong những vấn đề như vậy. Thực ra, không nên đi thảo luận các lí lẽ chỉ có vẻ hợp lí này trước khi xét vấn đề sau về phương pháp: Liệu có trong phạm vi năng lực của bất kể khoa học xã hội nào để đưa ra các lời tiên tri lịch sử bao quát đến vậy không? Chúng ta có thể mong đợi để có được trả lời nhiều hơn trả lời vô trách nhiệm của thầy bói nếu chúng ta hỏi một người: tương lai dự trù cái gì cho nhân loại?
Đây là một câu hỏi về phương pháp của các khoa học xã hội. Nó rõ ràng là căn bản hơn bất kể phê phán nào của bất kể lí lẽ nào được viện dẫn để ủng hộ bất kể lời tiên tri lịch sử nào.
Khảo sát tỉ mỉ câu hỏi này đã dẫn tôi đến niềm tin chắc chắn rằng các lời tiên tri lịch sử bao quát như vậy là hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của phương pháp khoa học. Tương lai phụ thuộc vào bản thân chúng ta, và chúng ta không phụ thuộc vào bất kể tất yếu lịch sử nào. Tuy vậy, có các triết lí xã hội có ảnh hưởng giữ quan điểm ngược lại. Họ cho rằng mỗi người cố dùng đầu óc của mình để tiên đoán các sự kiện sắp xảy ra; rằng dĩ nhiên là chính đáng cho một nhà chiến lược để cố gắng thấy trước kết quả của một cuộc chiến; và rằng các đường ranh giới giữa một dự đoán như vậy và các lời tiên tri lịch sử bao quát là dễ thay đổi. Họ khẳng định rằng nhiệm vụ của khoa học nói chung là để đưa ra các tiên đoán, hay đúng hơn, để cải thiện các dự đoán hàng ngày của chúng ta, và để đặt chúng trên những cơ sở chắc chắn hơn; và rằng, đặc biệt, chính nhiệm vụ của các khoa học xã hội là cho chúng ta những lời tiên tri lịch sử dài hạn. Họ cũng tin rằng họ đã khám phá ra các qui luật của lịch sử, các qui luật cho phép họ tiên tri diễn tiến của các sự kiện lịch sử. Các triết lí xã hội khác nhau nêu ra các đòi hỏi loại này, được tôi nhóm lại với nhau dưới cái tên chủ nghĩa lịch sử. Ở nơi khác, trong Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa Lịch sử, tôi đã thử lí lẽ chống lại các đòi hỏi này, và chứng tỏ rằng bất chấp vẻ hợp lí của chúng, chúng dựa vào sự hiểu sai thô thiển về phương pháp khoa học, và đặc biệt vào sự bỏ qua sự phân biệt giữa tiên đoán khoa học tiên tri lịch sử. Trong khi bận phân tích và phê phán một cách có hệ thống các đòi hỏi của chủ nghĩa lịch sử, tôi cũng đã cố thu thập một số tài liệu để minh hoạ sự phát triển của nó. Những nghi chú được thu thập cho mục đích đó trở thành cơ sở cho cuốn sách này.
Phân tích có hệ thống chủ nghĩa lịch sử nhắm tới cái gì đó giống địa vị khoa học. Cuốn sách này thì không. Nhiều ý kiến được bày tỏ mang tính cá nhân. Cái nó hàm ơn phương pháp khoa học chủ yếu là ý thức về các hạn chế của nó: nó không cho các chứng minh nơi chẳng gì có thể được chứng minh, nó cũng không làm ra vẻ là khoa học nơi nó không thể đem lại nhiều hơn một quan điểm cá nhân. Nó không cố thay các hệ thống triết học cũ bằng một hệ thống mới. Nó không cố đưa thêm vào tất cả các tập sách nhồi đầy sự uyên thâm này, vào siêu hình học về lịch sử và vận mệnh, như đang thời thượng hiện nay. Đúng hơn nó cố chứng tỏ rằng sự uyên thâm tiên tri này là có hại, rằng siêu hình học về lịch sử cản trở việc áp dụng các phương pháp từng phần của khoa học vào các vấn đề cải cách. Và nó cố hơn để chứng tỏ, chúng ta có thể là người kiến tạo số phận của mình khi thôi làm bộ như các nhà tiên tri về nó.
Lần theo sự phát triển của chủ nghĩa lịch sử, tôi thấy rằng tập quán nguy hiểm của tiên tri lịch sử, rất phổ biến giữa các lãnh tụ trí tuệ của chúng ta, có các chức năng khác nhau. Luôn là sự hãnh diện để thuộc về nội giới của những người biết bí mật riêng, và để có quyền năng đột xuất về tiên đoán diễn tiến của lịch sử. Ngoài ra, có một truyền thống là các thủ lĩnh trí tuệ được phú cho các quyền năng như vậy, và không chiếm đoạt chúng có thể dẫn đến mất địa vị xã hội. Mặt khác, mối nguy hiểm bị lột mặt nạ của họ như những kẻ bịp bợm là rất nhỏ, vì họ luôn có thể chỉ ra là chắc chắn có thể cho phép đưa ra các tiên đoán ít bao quát hơn; và ranh giới giữa những cái này và lời bói dựa vào điềm báo là dễ thay đổi.
Nhưng đôi khi có các động cơ thêm và có lẽ sâu hơn để giữ các niềm tin lịch sử chủ nghĩa. Các nhà tiên tri, người đoán trước sự đến của một thời đại hoàng kim, có thể biểu lộ tình cảm sâu sắc về sự bất mãn; và các ước mơ của họ thực ra có thể cho một số người niềm hi vọng và niềm cổ vũ, những người khó có thể hoạt động mà không có chúng. Nhưng chúng ta cũng phải nhận ra là ảnh hưởng của họ có thể ngăn cản chúng ta đối mặt với các nhiệm vụ hàng ngày của đời sống xã hội. Và các nhà tiên tri thứ yếu, người tuyên bố rằng các sự kiện nào đó, thí dụ một sự sa ngã vào chủ nghĩa toàn trị (hay có lẽ ‘chủ nghĩa quản lí’), nhất thiết xảy ra, có thể, dù họ có thích hay không, là công cụ gây ra các sự kiện này. Câu chuyện của họ rằng dân chủ không kéo dài mãi mãi là cũng đúng, và cũng chẳng quan trọng, như khẳng định rằng lí trí con người không kéo dài mãi mãi, vì chỉ dân chủ mới cung cấp một khung khổ định chế cho phép cải cách mà không có bạo lực, và việc sử dụng lí trí trong các vấn đề chính trị cũng vậy. Nhưng câu chuyện của họ có xu hướng làm nản lòng những người chiến đấu chống chủ nghĩa toàn trị; động cơ của nó là ủng hộ sự nổi loạn chống nền văn minh. Dường như có thể thấy một động cơ nữa nếu xem xét rằng siêu hình học lịch sử chủ nghĩa là hợp để làm nhẹ bớt cho con người khỏi sự căng thẳng của các trách nhiệm của họ. Nếu biết rằng các sự vật nhất thiết xảy ra bất kể chúng ta làm gì, thì có thể cảm thấy thoải mái để từ bỏ đấu tranh chống lại chúng. Đặc biệt, ta có thể từ bỏ nỗ lực để kiểm soát những thứ mà hầu hết người dân thống nhất coi là các tệ nạn xã hội, như chiến tranh; hoặc, để nhắc đến một thứ nhỏ hơn tuy nhiên quan trọng, sự chuyên quyền của công chức nhỏ.
Tôi không muốn gợi ý là chủ nghĩa lịch sử phải luôn có các tác động như vậy. Có các nhà lịch sử chủ nghĩa- đặc biệt các nhà Marxist- những người không muốn làm nhẹ bớt cho con người khỏi các trách nhiệm của họ. Mặc khác, có một số triết lí xã hội, có thể là hay có thể không là lịch sử chủ nghĩa, nhưng chúng biện hộ sự bất lực của lí trí trong đời sống xã hội, và bằng phản chủ nghĩa duy lí này chúng tuyên truyền thái độ: ‘hoặc đi theo Lãnh tụ, Chính khách Vĩ đại, hay tự trở thành một Lãnh tụ’; một thái đội, đối với hầu hết người dân, hẳn có nghĩa là sự phục tùng thụ động các lực lượng, cá nhân hoặc ẩn danh, các lực lượng cai trị xã hội.
Lí thú để thấy rằng một vài trong những người lên án lí trí, và thậm chí trách móc nó vì các tệ nạn xã hội của thời đại chúng ta, làm vậy một mặt vì họ nhận ra sự thực rằng tiên tri lịch sử vượt quá năng lực của lí trí, và mặt khác vì họ không thể hình dung về một khoa học xã hội, hay về lí trí trong xã hội, có chức năng khác ngoài chức năng tiên tri lịch sử. Nói cách khác, họ là các nhà lịch sử chủ nghĩa bất mãn; họ là những người, bất chấp việc thừa nhận sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử, không ý thức được rằng họ vẫn có định kiến lịch sử chủ nghĩa căn bản- học thuyết rằng các khoa học xã hội, nếu chúng nói chung có bất kể sự hữu dụng nào, phải mang tính tiên tri. Rõ ràng là thái độ này hẳn dẫn tới từ chối áp dụng khoa học hay lí trí cho các vấn đề của đời sống xã hội- và cuối cùng, dẫn tới học thuyết về quyền lực, về thống trị và qui phục.
Vì sao tất cả các triết lí xã hội này ủng hộ nổi loạn chống nền văn minh? Và bí mật về sự ưa thích của nhân dân đối với chúng là gì? Vì sao chúng hấp dẫn và quyến rũ nhiều trí thức đến vậy? Tôi thiên về nghĩ rằng lí do là, chúng biểu lộ một sự bất mãn sâu sắc với một thế giới, thế giới không, và không thể, thực hiện các lí tưởng đạo đức và các ước mơ hoàn mĩ của chúng ta. Xu hướng của chủ nghĩa lịch sử (và các quan điểm liên quan) để ủng hộ nổi dậy chống lại nền văn minh có thể do sự thực là bản thân chủ nghĩa lịch sử, chủ yếu, là một phản ứng chống lại căng thẳng của nền văn minh của chúng ta và đòi hỏi của nó về trách nhiệm cá nhân.
Những ám chỉ cuối cùng là hơi mơ hồ, nhưng chúng phải đủ cho dẫn nhập này. Muộn hơn chúng sẽ được tài liệu lịch sử chứng minh, đặc biệt trong chương ‘Xã hội Mở và Những Kẻ thù của Nó’. Tôi bị cám dỗ đưa chương này lên đầu cuốn sách; với sự quan tâm đang nói đến nó có thể chắc chắn làm cho dẫn nhập lí thú hơn. Nhưng tôi thấy rằng toàn bộ trọng lượng của diễn giải lịch sử này không thể được cảm nhận trừ phi nó đi sau tài liệu được thảo luận sớm hơn trong cuốn sách. Dường như đầu tiên ta bị bối rối bởi sự giống nhau giữa lí thuyết của Plato về công lí và lí thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa toàn trị hiện đại trước khi ta có thể cảm nhận việc diễn giải các vấn đề này là cấp bách đến thế nào.

Cuốn sách này nêu ra các vấn đề có thể không hiển nhiên từ bảng mục lục.Nó phác hoạ một số khó khăn đối mặt với nền văn minh của chúng ta- một nền văn minh có lẽ có thể được mô tả như hướng đến tính nhân đạo và tính hợp lí, đến sự bình đẳng và quyền tự do; một nền văn minh, có thể nói, vẫn còn phôi thai và tiếp tục phát triển bất chấp sự thực là nó đã rất thường xuyên bị rất nhiều lãnh tụ trí tuệ của nhân loại phản bội. Nó cố gắng chỉ ra rằng nền văn minh này vẫn chưa hồi phục từ cú sốc sinh thành của nó- quá độ từ xã hội bộ lạc hay ‘xã hội đóng’, với sự qui phục trước các lực lượng ma thuật, sang ‘xã hội mở’ giải phóng năng lực phê phán của con người. Nó cố gắng chứng tỏ rằng cú sốc của quá độ này là một trong những nhân tố đã làm cho sự nổi lên của các phong trào phản động- đã cố, và vẫn cố, đạp đổ nền văn minh và để quay lại với tập quán bộ lạc- là có thể. Và nó gợi ý rằng cái ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa toàn trị thuộc về một truyền thống, đúng là cổ xưa hay đúng là non trẻ như bản thân nền văn minh của chúng ta.
Nó cố gắng bằng cách ấy đóng góp cho sự hiểu biết của chúng ta về chủ nghĩa toàn trị, và về tầm quan trọng của cuộc chiến muôn thủa chống lại nó.
Nó cố khảo sát thêm việc áp dụng các phương pháp phê phán và duy lí của khoa học vào các vấn đề của xã hội mở. Nó phân tích các nguyên lí của sự tái thiết xã hội dân chủ, các nguyên lí của cái tôi có thể gọi là ‘cải biến xã hội từng phần- piecemeal social engineering’ đối lập với ‘cải biến xã hội Không tưởng –Utopian social engineering (như được giải thích ở Chương 9). Và nó cố dọn đi một số trở ngại ngăn cản cách tiếp cận duy lí đến các vấn đề tái thiết xã hội. Nó làm như vậy bằng cách phê phán các triết lí xã hội, triết lí chịu trách nhiệm về định kiến phổ biến chống lại các khả năng của cải cách dân chủ. Hùng mạnh nhất trong các triết lí này là triết lí mà tôi đã gọi là chủ nghĩa lịch sử. Câu chuyện về sự nổi lên và ảnh hưởng của một số dạng quan trọng của chủ nghĩa lịch sử là một trong những đề tài chính của cuốn sách, những cái có thể thậm chí được mô tả như một sưu tập các ghi chú bên lề về sự phát triển của các triết lí lịch sử chủ nghĩa nào đó. Vài nhận xét về xuất xứ của cuốn sách sẽ trình bày ngắn gọn chủ nghĩa lịch sử có nghĩa là gì và nó liên hệ ra sao với các vấn đề khác được nhắc tới.
Mặc dù tôi chủ yếu quan tâm đến các phương pháp của vật lí học (và vì vậy đến các vấn đề kĩ thuật nhất định, rất xa các vấn đề được thảo luận ở cuốn sách này), tôi cũng đã quan tâm trong nhiều năm đến vấn đề về tình trạng không được thoả mãn lắm của một số khoa học xã hội và đặc biệt của triết học xã hội. Điều này, tất nhiên, làm nảy sinh vấn đề về các phương pháp của chúng. Sự quan tâm của tôi đến vấn đề này được kích thích mạnh bởi sự nổi lên của chủ nghĩa toàn trị và bởi sự thất bại của các khoa học xã hội và triết học xã hội khác nhau để làm cho nó có ý nghĩa.
Về điều này, một điểm nổi lên đặc biệt cấp bách đối với tôi.
Ta nghe quá thường xuyên về gợi ý rằng dạng này hay dạng kia của chủ nghĩa toàn trị là không thể tránh khỏi. Nhiều người, do trí thông minh và sự đào tạo của họ, phải chịu trách nhiệm về cái mà họ nói, tuyên bố rằng không có lối thoát nào khỏi nó. Họ hỏi liệu chúng ta có thật đủ ấu trĩ để tin rằng dân chủ có thể là vĩnh cửu hay không; liệu chúng ta không thấy rằng nó chỉ là một trong nhiều dạng của chính phủ đến và đi trong tiến trình lịch sử hay không. Họ lí lẽ rằng dân chủ, để chống lại chủ nghĩa toàn trị, buộc phải sao chép các phương pháp của nó và như vậy tự trở thành toàn trị. Hoặc họ khẳng định rằng hệ thống công nghiệp của chúng ta không thể tiếp tục hoạt động mà không chấp nhận các phương pháp kế hoạch hoá tập thể, và họ suy ra từ tính không thể tránh khỏi của một hệ thống kinh tế tập thể rằng sự chấp thuận các hình thức toàn trị của cuộc sống xã hội là cũng không thể tránh khỏi.
Các lí lẽ như vậy nghe có vẻ khá hợp lí. Song vẻ hợp lí không phải là một chỉ dẫn tin cậy trong những vấn đề như vậy. Thực ra, không nên đi thảo luận các lí lẽ chỉ có vẻ hợp lí này trước khi xét vấn đề sau về phương pháp: Liệu có trong phạm vi năng lực của bất kể khoa học xã hội nào để đưa ra các lời tiên tri lịch sử bao quát đến vậy không? Chúng ta có thể mong đợi để có được trả lời nhiều hơn trả lời vô trách nhiệm của thầy bói nếu chúng ta hỏi một người: tương lai dự trù cái gì cho nhân loại?
Đây là một câu hỏi về phương pháp của các khoa học xã hội. Nó rõ ràng là căn bản hơn bất kể phê phán nào của bất kể lí lẽ nào được viện dẫn để ủng hộ bất kể lời tiên tri lịch sử nào.
Khảo sát tỉ mỉ câu hỏi này đã dẫn tôi đến niềm tin chắc chắn rằng các lời tiên tri lịch sử bao quát như vậy là hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của phương pháp khoa học. Tương lai phụ thuộc vào bản thân chúng ta, và chúng ta không phụ thuộc vào bất kể tất yếu lịch sử nào. Tuy vậy, có các triết lí xã hội có ảnh hưởng giữ quan điểm ngược lại. Họ cho rằng mỗi người cố dùng đầu óc của mình để tiên đoán các sự kiện sắp xảy ra; rằng dĩ nhiên là chính đáng cho một nhà chiến lược để cố gắng thấy trước kết quả của một cuộc chiến; và rằng các đường ranh giới giữa một dự đoán như vậy và các lời tiên tri lịch sử bao quát là dễ thay đổi. Họ khẳng định rằng nhiệm vụ của khoa học nói chung là để đưa ra các tiên đoán, hay đúng hơn, để cải thiện các dự đoán hàng ngày của chúng ta, và để đặt chúng trên những cơ sở chắc chắn hơn; và rằng, đặc biệt, chính nhiệm vụ của các khoa học xã hội là cho chúng ta những lời tiên tri lịch sử dài hạn. Họ cũng tin rằng họ đã khám phá ra các qui luật của lịch sử, các qui luật cho phép họ tiên tri diễn tiến của các sự kiện lịch sử. Các triết lí xã hội khác nhau nêu ra các đòi hỏi loại này, được tôi nhóm lại với nhau dưới cái tên chủ nghĩa lịch sử. Ở nơi khác, trong Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa Lịch sử, tôi đã thử lí lẽ chống lại các đòi hỏi này, và chứng tỏ rằng bất chấp vẻ hợp lí của chúng, chúng dựa vào sự hiểu sai thô thiển về phương pháp khoa học, và đặc biệt vào sự bỏ qua sự phân biệt giữa tiên đoán khoa học tiên tri lịch sử. Trong khi bận phân tích và phê phán một cách có hệ thống các đòi hỏi của chủ nghĩa lịch sử, tôi cũng đã cố thu thập một số tài liệu để minh hoạ sự phát triển của nó. Những nghi chú được thu thập cho mục đích đó trở thành cơ sở cho cuốn sách này.
Phân tích có hệ thống chủ nghĩa lịch sử nhắm tới cái gì đó giống địa vị khoa học. Cuốn sách này thì không. Nhiều ý kiến được bày tỏ mang tính cá nhân. Cái nó hàm ơn phương pháp khoa học chủ yếu là ý thức về các hạn chế của nó: nó không cho các chứng minh nơi chẳng gì có thể được chứng minh, nó cũng không làm ra vẻ là khoa học nơi nó không thể đem lại nhiều hơn một quan điểm cá nhân. Nó không cố thay các hệ thống triết học cũ bằng một hệ thống mới. Nó không cố đưa thêm vào tất cả các tập sách nhồi đầy sự uyên thâm này, vào siêu hình học về lịch sử và vận mệnh, như đang thời thượng hiện nay. Đúng hơn nó cố chứng tỏ rằng sự uyên thâm tiên tri này là có hại, rằng siêu hình học về lịch sử cản trở việc áp dụng các phương pháp từng phần của khoa học vào các vấn đề cải cách. Và nó cố hơn để chứng tỏ, chúng ta có thể là người kiến tạo số phận của mình khi thôi làm bộ như các nhà tiên tri về nó.
Lần theo sự phát triển của chủ nghĩa lịch sử, tôi thấy rằng tập quán nguy hiểm của tiên tri lịch sử, rất phổ biến giữa các lãnh tụ trí tuệ của chúng ta, có các chức năng khác nhau. Luôn là sự hãnh diện để thuộc về nội giới của những người biết bí mật riêng, và để có quyền năng đột xuất về tiên đoán diễn tiến của lịch sử. Ngoài ra, có một truyền thống là các thủ lĩnh trí tuệ được phú cho các quyền năng như vậy, và không chiếm đoạt chúng có thể dẫn đến mất địa vị xã hội. Mặt khác, mối nguy hiểm bị lột mặt nạ của họ như những kẻ bịp bợm là rất nhỏ, vì họ luôn có thể chỉ ra là chắc chắn có thể cho phép đưa ra các tiên đoán ít bao quát hơn; và ranh giới giữa những cái này và lời bói dựa vào điềm báo là dễ thay đổi.
Nhưng đôi khi có các động cơ thêm và có lẽ sâu hơn để giữ các niềm tin lịch sử chủ nghĩa. Các nhà tiên tri, người đoán trước sự đến của một thời đại hoàng kim, có thể biểu lộ tình cảm sâu sắc về sự bất mãn; và các ước mơ của họ thực ra có thể cho một số người niềm hi vọng và niềm cổ vũ, những người khó có thể hoạt động mà không có chúng. Nhưng chúng ta cũng phải nhận ra là ảnh hưởng của họ có thể ngăn cản chúng ta đối mặt với các nhiệm vụ hàng ngày của đời sống xã hội. Và các nhà tiên tri thứ yếu, người tuyên bố rằng các sự kiện nào đó, thí dụ một sự sa ngã vào chủ nghĩa toàn trị (hay có lẽ ‘chủ nghĩa quản lí’), nhất thiết xảy ra, có thể, dù họ có thích hay không, là công cụ gây ra các sự kiện này. Câu chuyện của họ rằng dân chủ không kéo dài mãi mãi là cũng đúng, và cũng chẳng quan trọng, như khẳng định rằng lí trí con người không kéo dài mãi mãi, vì chỉ dân chủ mới cung cấp một khung khổ định chế cho phép cải cách mà không có bạo lực, và việc sử dụng lí trí trong các vấn đề chính trị cũng vậy. Nhưng câu chuyện của họ có xu hướng làm nản lòng những người chiến đấu chống chủ nghĩa toàn trị; động cơ của nó là ủng hộ sự nổi loạn chống nền văn minh. Dường như có thể thấy một động cơ nữa nếu xem xét rằng siêu hình học lịch sử chủ nghĩa là hợp để làm nhẹ bớt cho con người khỏi sự căng thẳng của các trách nhiệm của họ. Nếu biết rằng các sự vật nhất thiết xảy ra bất kể chúng ta làm gì, thì có thể cảm thấy thoải mái để từ bỏ đấu tranh chống lại chúng. Đặc biệt, ta có thể từ bỏ nỗ lực để kiểm soát những thứ mà hầu hết người dân thống nhất coi là các tệ nạn xã hội, như chiến tranh; hoặc, để nhắc đến một thứ nhỏ hơn tuy nhiên quan trọng, sự chuyên quyền của công chức nhỏ.
Tôi không muốn gợi ý là chủ nghĩa lịch sử phải luôn có các tác động như vậy. Có các nhà lịch sử chủ nghĩa- đặc biệt các nhà Marxist- những người không muốn làm nhẹ bớt cho con người khỏi các trách nhiệm của họ. Mặc khác, có một số triết lí xã hội, có thể là hay có thể không là lịch sử chủ nghĩa, nhưng chúng biện hộ sự bất lực của lí trí trong đời sống xã hội, và bằng phản chủ nghĩa duy lí này chúng tuyên truyền thái độ: ‘hoặc đi theo Lãnh tụ, Chính khách Vĩ đại, hay tự trở thành một Lãnh tụ’; một thái đội, đối với hầu hết người dân, hẳn có nghĩa là sự phục tùng thụ động các lực lượng, cá nhân hoặc ẩn danh, các lực lượng cai trị xã hội.
Lí thú để thấy rằng một vài trong những người lên án lí trí, và thậm chí trách móc nó vì các tệ nạn xã hội của thời đại chúng ta, làm vậy một mặt vì họ nhận ra sự thực rằng tiên tri lịch sử vượt quá năng lực của lí trí, và mặt khác vì họ không thể hình dung về một khoa học xã hội, hay về lí trí trong xã hội, có chức năng khác ngoài chức năng tiên tri lịch sử. Nói cách khác, họ là các nhà lịch sử chủ nghĩa bất mãn; họ là những người, bất chấp việc thừa nhận sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử, không ý thức được rằng họ vẫn có định kiến lịch sử chủ nghĩa căn bản- học thuyết rằng các khoa học xã hội, nếu chúng nói chung có bất kể sự hữu dụng nào, phải mang tính tiên tri. Rõ ràng là thái độ này hẳn dẫn tới từ chối áp dụng khoa học hay lí trí cho các vấn đề của đời sống xã hội- và cuối cùng, dẫn tới học thuyết về quyền lực, về thống trị và qui phục.
Vì sao tất cả các triết lí xã hội này ủng hộ nổi loạn chống nền văn minh? Và bí mật về sự ưa thích của nhân dân đối với chúng là gì? Vì sao chúng hấp dẫn và quyến rũ nhiều trí thức đến vậy? Tôi thiên về nghĩ rằng lí do là, chúng biểu lộ một sự bất mãn sâu sắc với một thế giới, thế giới không, và không thể, thực hiện các lí tưởng đạo đức và các ước mơ hoàn mĩ của chúng ta. Xu hướng của chủ nghĩa lịch sử (và các quan điểm liên quan) để ủng hộ nổi dậy chống lại nền văn minh có thể do sự thực là bản thân chủ nghĩa lịch sử, chủ yếu, là một phản ứng chống lại căng thẳng của nền văn minh của chúng ta và đòi hỏi của nó về trách nhiệm cá nhân.

 Những ám chỉ cuối cùng là hơi mơ hồ, nhưng chúng phải đủ cho dẫn nhập này. Muộn hơn chúng sẽ được tài liệu lịch sử chứng minh, đặc biệt trong chương ‘Xã hội Mở và Những Kẻ thù của Nó’. Tôi bị cám dỗ đưa chương này lên đầu cuốn sách; với sự quan tâm đang nói đến nó có thể chắc chắn làm cho dẫn nhập lí thú hơn. Nhưng tôi thấy rằng toàn bộ trọng lượng của diễn giải lịch sử này không thể được cảm nhận trừ phi nó đi sau tài liệu được thảo luận sớm hơn trong cuốn sách. Dường như đầu tiên ta bị bối rối bởi sự giống nhau giữa lí thuyết của Plato về công lí và lí thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa toàn trị hiện đại trước khi ta có thể cảm nhận việc diễn giải các vấn đề này là cấp bách đến thế nào./.

 CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI VỀ VẬN MỆNH
Được tin một cách rộng rãi rằng một thái độ thật sự khoa học hay triết lí tới chính trị học, và một sự hiểu biết sâu hơn về đời sống xã hội nói chung, phải dựa vào sự trầm ngâm và diễn giải về lịch sử loài người. Trong khi người dân bình thường coi sự sắp đặt đời sống của mình và tầm quan trọng của những kinh nghiệm cá nhân và những vật lộn lặt vặt của anh ta là dĩ nhiên, được cho là nhà khoa học xã hội hay nhà triết học phải khảo sát các sự vật từ một mặt bằng cao hơn. Ông ta nhìn cá nhân như một con tốt, như một công cụ không quan trọng mấy trong sự phát triển chung của loài người. Và ông ta thấy rằng các diễn viên thực sự quan trọng trên Sân khấu Lịch sử hoặc là các Dân tộc Vĩ đại hoặc các Lãnh tụ Vĩ đại, hay có lẽ các Giai cấp Vĩ đại, hay các Tư tưởng Vĩ đại. Dẫu cho điều này có thế nào, ông ta sẽ cố gắng hiểu ý nghĩa của cuộc chơi diễn ra trên Sân khấu Lịch sử; ông ta sẽ cố gắng hiểu các qui luật phát triển lịch sử. Nếu ông ta thành công làm việc này, tất nhiên, ông ta sẽ có khả năng tiên đoán các diễn tiến tương lai. Khi đó ông ta có thể đặt chính trị học trên một cơ sở vững chắc, và cho chúng ta lời khuyên thực tiễn bằng cách nói cho chúng ta các hành động chính trị nào chắc sẽ thành công hay chắc sẽ thất bại.

Đây là một mô tả ngắn gọn của một thái độ mà tôi gọi là chủ nghĩa lịch sử. Nó là một ý tưởng cổ xưa, hay đúng hơn, là một tập liên kết lỏng lẻo của các ý tưởng, những cái, đáng tiếc, đã trở thành một phần của bầu không khí tinh thần của chúng ta đến mức chúng thường được coi là dĩ nhiên, và hầu như chẳng bao giờ bị nghi ngờ.

Tôi đã thử ở nơi khác để chứng tỏ rằng cách tiếp cận lịch sử chủ nghĩa tới các khoa học xã hội cho các kết quả nghèo nàn. Tôi cũng đã cố gắng phác hoạ một phương pháp mà, tôi tin, sẽ mang lại những kết quả tốt hơn.

Nhưng nếu chủ nghĩa lịch sử là một phương pháp có thiếu sót, tạo ra các kết quả vô dụng, thì có thể hữu ích để xem nó có nguồn gốc thế nào, và nó đã thành công ra sao để cố thủ thành công đến vậy. Một phác thảo lịch sử đảm nhiệm mục đích này có thể, đồng thời, dùng để phân tích tính đa dạng của các ý tưởng đã dần dần tích tụ lại xung quanh học thuyết lịch sử chủ nghĩa trung tâm- học thuyết cho rằng lịch sử được kiểm soát bởi các qui luật lịch sử hay tiến hoá đặc thù, mà sự khám phá ra chúng có thể cho phép chúng ta tiên tri vận mệnh của con người.

Chủ nghĩa lịch sử, mà đến đây tôi đã đặc trưng chỉ theo cách khá trừu tượng, có thể được minh hoạ khéo bởi một trong những hình thức đơn giản nhất và cổ nhất của nó, bởi thuyết về dân tộc được lựa chọn. Thuyết này là một trong các nỗ lực để làm cho lịch sử có thể hiểu được bằng một diễn giải theo thuyết hữu thần, tức là, bằng công nhận Thượng đế như tác giả của tấn kịch được diễn trên Sân khấu Lịch sử. Cụ thể hơn, lí thuyết về dân tộc được chọn giả thiết là Thượng đế đã chọn một dân tộc để hoạt động như công cụ được chọn của ý chí của Ngài, và rằng dân tộc này sẽ thừa kế trái đất.

Trong thuyết này, qui luật về sự phát triển lịch sử do Ý chí của Thượng đế đề ra. Đây là khác biệt đặc thù phân biệt hình thức hữu thần với các hình thức khác của chủ nghĩa lịch sử. Chủ nghĩa lịch sử theo tự nhiên, thí dụ, có thể coi qui luật phát triển như một qui luật tự nhiên; chủ nghĩa lịch sử tinh thần coi qui luật phát triển như một qui luật phát triển tinh thần; chủ nghĩa lịch sử kinh tế coi nó như một qui luật phát triển kinh tế. Chủ nghĩa lịch sử hữu thần chia sẻ với các hình thức khác của học thuyết rằng có các qui luật lịch sử đặc thù, những cái có thể được khám phá ra, và dựa vào chúng có thể đặt cơ sở cho các tiên đoán tương lai của nhân loại.

Không nghi ngờ gì là thuyết về dân tộc được chọn phát sinh từ hình thức bộ lạc của đời sống xã hội. Chủ nghĩa bộ lạc, tức là sự nhấn mạnh về tầm quan trọng tối cao của bộ lạc, mà không có nó thì cá nhân chẳng là gì cả, là một yếu tố mà chúng ta sẽ thấy trong nhiều hình thức của chủ nghĩa lịch sử. Các hình thức khác không còn mang tính bộ lạc vẫn có thể giữ lại một yếu tố của chủ nghĩa tập thể 1; chúng vẫn có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của nhóm hay tập thể nào đó –thí dụ, một giai cấp- mà không có nó thì cá nhân chẳng là gì cả. Một khía cạnh khác của thuyết về dân tộc được chọn là sự xa vời về cái nó đề nghị như là kết thúc của lịch sử. Vì mặc dù nó có thể mô tả sự kết thúc này với mức độ xác định nào đó, chúng ta phải đi rất lâu trước khi đạt đến nó. Và con đường không chỉ dài, mà quanh co, đi lên và xuống, rẽ phải và trái. Do đó, nó sẽ có khả năng gây ra mọi sự kiện lịch sử có thể hình dung ra được trong khuôn khổ sơ đồ diễn giải. Chẳng kinh nghiệm có thể hình dung ra nào có thể bác bỏ nó.2 Nhưng với những người tin vào nó, nó cho sự chắc chắn liên quan đến kết quả của lịch sử nhân loại.

Một phê phán đối với diễn giải hữu thần của lịch sử sẽ được thử ở chương cuối của cuốn sách này, nơi cũng sẽ chỉ ra rằng một số nhà tư tưởng Thiên chúa giáo vĩ đại nhất đã bác bỏ thuyết này như sự sùng bái thần tượng. Một tấn công vào dạng này của chủ nghĩa lịch sử vì vậy không được diễn giải như một sự công kích tôn giáo. Trong chương này, thuyết về dân tộc được chọn được dùng chỉ như một minh hoạ. Giá trị tự thân của nó có thể thấy từ sự thực rằng các đặc trưng3 chủ yếu của nó được hai phiên bản hiện đại quan trọng nhất của chủ nghĩa lịch sử chia sẻ, mà phân tích hai dạng đó sẽ là phần chính của cuốn sách này - một mặt là triết lí lịch sử của chủ nghĩa chủng tộc hay chủ nghĩa phát xít (phía hữu) và mặt khác là triết lí lịch sử của Marx (phía tả). Chủ nghĩa chủng tộc thay dân tộc được chọn bằng chủng tộc được chọn (sự lựa chọn của Gobineau), được chọn ra như công cụ của vận mệnh, cuối cùng để thừa kế trái đất. Triết lí lịch sử của Marx thay nó bằng giai cấp được chọn, công cụ để tạo ra một xã hội phi giai cấp, và đồng thời, là giai cấp được chỉ định thừa kế trái đất. Cả hai lí thuyết đặt cơ sở cho các dự báo lịch sử của mình vào một diễn giải lịch sử, diễn giải dẫn đến khám phá ra qui luật phát triển của nó. Trong trường hợp chủ nghĩa chủng tộc, điều này được coi như một loại qui luật tự nhiên; tính ưu việt sinh học của dòng máu của chủng tộc được lựa chọn giải thích diễn tiến của lịch sử, quá khứ, hiện tại, và tương lai; chẳng gì khác ngoài cuộc đấu tranh của các chủng tộc vì quyền làm chủ. Trong trường hợp triết lí lịch sử của Marx, qui luật là qui luật kinh tế; tất cả lịch sử phải được diễn giải như cuộc đấu tranh của các giai cấp vì uy quyền kinh tế.

Tính chất lịch sử chủ nghĩa của hai phong trào này làm cho nghiên cứu của chúng ta mang tính thời sự. Chúng ta sẽ quay lại chúng trong những phần sau của cuốn sách này. Mỗi trong hai thuyết này truy nguyên trực tiếp tới triết học của Hegel. Vì vậy, chúng ta cũng phải đề cập đến triết học đó nữa. Và vì Hegel4 chủ yếu theo các triết gia cổ xư nào đó, sẽ cần thiết để thảo luận các lí thuyết của Heraclitus, Plato và Aristotle, trước khi quay sang các hình thức hiện đại hơn của chủ nghĩa lịch sử./.

 

CHÚ THÍCH**

Người dịch: Nguyễn Quang A

 

CÁC NHẬN XÉT CHUNG. Văn bản của cuốn sách là độc lập và có thể đọc mà không có các Chú thích này. Tuy vậy, có thể thấy ở đây nhiều tư liệu chắc là lí thú với tất cả các bạn đọc của cuốn sách, cũng như có vài dẫn chiếu và tranh luận có thể không là mối quan tâm chung. Các bạn đọc muốn tham khảo các chú thích vì mục đích tư liệu này có thể thấy thuận tiện để đầu tiên đọc hết văn bản của một chương, và sau đó quay sang các Chú thích.

Tôi muốn xin lỗi về sự dẫn chiếu chéo có lẽ quá nhiều được đưa vào để giúp các bạn đọc những người quan tâm đặc biệt đến mặt này hay mặt khác của các vấn đề được đề cập đến (như những quan tâm của Plato đến chủ nghĩa chủng tộc, hay Vấn đề Socratic). Biết rằng hoàn cảnh chiến tranh làm cho bất khả đối với tôi để đọc bản in thử, nên tôi quyết định không dẫn chiếu theo trang mà theo số chú thích. Do đó, dẫn chiếu đến văn bản được thể hiện như: ‘xem văn bản gắn với chú thích 24 ở chương 3’, v.v. Hoàn cảnh chiến tranh cũng hạn chế thuận lợi về thư viện, làm cho bất khả thi đối với tôi để có được một loạt sách, một số mới và một số không mới, có thể tham khảo được trong hoàn cảnh bình thường.
*Các chú thích có sử dụng các tư liệu không sẵn có đối với tôi khi viết bản thảo cho lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách này (và các chú thích khác mà tôi muốn biểu thị rằng đã được đưa thêm vào cuốn sách kể từ 1943) được đánh dấu bằng dấu sao; tuy vậy không phải tất cả các chú thích mới đưa thêm đều được đánh dấu như vậy.*
 
CHÚ THÍCH CHO DẪN NHẬP
 
Về đề từ của Kant, xem chú thích [ct.] 41 của chương [ch.] 24, và văn bản.
 Thuật ngữ ‘xã hội mở’ và ‘xã hội đóng’, theo tôi biết, được Henri Bergson dùng lần đầu tiên, trong  Two Sources of Morality and Religion [Hai Nguồn của Đạo đức và Tôn giáo] (Engl. ed., 1935). Bất chấp một sự khác biệt đáng kể (do cách tiếp cận khác cơ bản về gần như mọi vấn đề triết học) giữa cách dùng từ của Bergson và của tôi, cũng có sự giống nhau nào đó, mà tôi muốn thừa nhận. (So mô tả đặc trưng của Bergson về xã hội đóng, op. cit., p. 229, như ‘xã hội loài người vừa mới khỏi tay của tự nhiên’). Tuy vậy, sự khác biệt chính là thế này. Từ của tôi, có thể nói, biểu lộ một sự phân biệt duy lí; xã hội đóng được đặc trưng bởi lòng tin vào các cấm kị ma thuật, còn xã hội mở là xã hội trong đó con người đã học được để ở mức độ nào đó có tính phê phán đối với các cấm kị, và để đặt cơ sở cho những quyết định trên căn cứ hiểu biết riêng của họ (sau khi thảo luận). Bergson, mặt khác, lại nghĩ đến một loại phân biệt tôn giáo. Điều này giải thích vì sao ông có thể coi xã hội mở của ông như sản phẩm của một trực giác thần bí, còn tôi gợi ý (ở chương 10 và chương 24) rằng chủ nghĩa thần bí có thể được diễn giải như một sự biểu lộ về niềm khát khao đối với sự thống nhất đã mất của xã hội đóng, và vì thế như một phản ứng chống lại chủ nghĩa duy lí của xã hội mở. Từ cách dùng từ ‘Xã hội Mở’ của tôi ở chương 10, có thể thấy rằng có sự giống nhau nào đó với thuật ngữ ‘Xã hội Vĩ đại’ của Graham Wallace; nhưng thuật ngữ của tôi phủ cả một ‘xã hội nhỏ’, có thể nói như vậy, như xã hội Athens thời Pericles, trong khi có lẽ có thể hình dung một ‘Xã hội Lớn’ có thể bị ngưng lại và vì thế là đóng. Có lẽ cũng có một sự giống nhau tương tự giữa ‘xã hội mở’ của tôi và thuật ngữ do Walter Lippmann dùng như tiêu đề của cuốn sách được hâm mộ nhất của ông, The Good Society [Xã hội Tốt] (1937). Xem cả các ct. 59 (2) ở chương 10 và các ct. 29, 32, và 38 của chương 24, và văn bản.
 
CHÚ THÍCH CHO CHƯƠNG 1
 
Về đề từ của Pericles, xem ct. 31 của chương 10, và văn bản. Đề từ của Plato được thảo luận khá chi tiết ở các ct. 33 và 34 của chương 6, và văn bản.
1 Tôi dùng từ ‘chủ nghĩa tập thể’ chỉ cho một học thuyết nhấn mạnh tầm quan trọng của tập thể hay nhóm nào đó, thí dụ, ‘nhà nước’ (hay một nhà nước; hay một quốc gia ; hay một giai cấp nào đó) đối lập với tầm quan trọng của cá nhân. Vấn đề của chủ nghĩa tập thể đối lại chủ nghĩa cá nhân được giải thích đầy đủ hơn ở chương 6; đặc biệt xem các ct. 26 đến 28 của chương đó, và văn bản. Về ‘chủ nghĩa bộ lạc’, xem chương 10, và đặc biệt ct. 38 của chương đó (danh mục các cấm kị bộ lạc theo kiểu Pythagoras).
2 Điều này có nghĩa là diễn giải không mang bất cứ thông tin kinh nghiệm nào, như được chỉ ra trong The Logic of Scientific Discovery của tôi.
3 Một trong các đặc điểm mà các thuyết về dân được chọn, chủng tộc được chọn, và giai cấp được chọn có chung là chúng bắt nguồn, và trở nên quan trọng, như các phản ứng lại loại đàn áp nào đó. Thuyết dân được chọn trở nên quan trọng ở thời kì thành lập nhà thờ Do Thái, tức là thời kì đầy ải [người Do Thái] sang Babylon; Lí thuyết của Bá tước Gobineau về chủng tộc chủ nhân Aryan là một phản ứng của người di cư quý tộc đối với luận điệu rằng Cách mạng Pháp đã trục xuất thành công các chủ nhân Teutonic. Lời tiên tri của Marx về chiến thắng của giai cấp vô sản là đáp lại của ông đối với một trong các thời kì đàn áp và bóc lột độc ác nhất trong lịch sử cận đại. Với những vấn đề này so chương 10, đặc biệt ct. 39, và chương 17, đặc biệt các ct. 13-15, và văn bản.
*Một trong những tóm tắt ngắn nhất và tốt nhất về tín điều lịch sử chủ nghĩa có thể thấy trong pamphlet lịch sử chủ nghĩa triệt để được trích dẫn đầy đủ hơn ở cuối ct. 12 của chương 9, có tiêu đề Christians in the Class Struggle, của Gilbert Cope, với lời nói đầu của Giám mục xứ Bradford. (‘Magnificat’, Publication No. 1, do Council of Clergy and Ministers for Common Ownership xuất bản, 1942, 28, Maypole Lane, Birmingham 14). Chúng ta đọc ở đây, p. 5-6: ‘Chung cho tất cả các quan điểm này là đặc tính nào đó về “tính không thể tránh được cộng với quyền tự do”. Tiến hoá sinh học, xung đột giai cấp kế tiếp nhau, tác động của Chúa Thánh thần - cả ba thứ đều được đặc trưng bởi một chuyển động xác định đến một mục đích. Rằng chuyển động có thể bị hành động cố ý của con người gây cản trở hay làm trệch đi, song đà tích tụ của nó không thể bị tiêu tan, và mặc dù giai đoạn cuối cùng chỉ được cảm thấy lờ mờ, .. là có thể để biết đủ về quá trình để giúp đẩy mạnh hay trì hoãn dòng chảy không thể tránh khỏi. Nói cách khác, các qui luật tự nhiên về cái chúng ta coi là “tiến bộ” … đã được con người hiểu đủ sao cho họ có thể .. hoặc.. đưa ra các nỗ lực để làm ngưng hay làm trệch dòng chảy chính – các nỗ lực có vẻ như thành công một lúc, nhưng thực ra đã bị định sẵn là thất bại’.**
4 Hegel nói, trong Logic của mình, rằng ông đã bảo tồn toàn bộ giáo huấn của Heraclitus. Ông cũng nói rằng ông nhận là mọi thứ là do Plato. *Có thể đáng nói đến là Ferdinand von Lassalle, một trong những ngưới sáng lập của phong trào xã hội dân chủ Đức (và, giống Marx, là một người theo Hegel), đã viết hai tập về Heraclitus.*


 **Một số viết tắt trong phần chú thích: ct. = chú thích; ch. = chương; tên các tác phẩm mà người dịch không chắc có bản tiếng Việt được để nguyên để tiện tra cứu; các chữ viết tắt thông dụng tiếng latin được để nguyên.

(* ): Tập 1 của sách Xã hội mỏ và kẻ thù của nó

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114652802

Hôm nay

2357

Hôm qua

2474

Tuần này

21206

Tháng này

229588

Tháng qua

134162

Tất cả

114652802