Nhưng các thượng đế kiểu Homer không đặt ra các qui luật chung cho sự phát triển. Cái mà Homer cố gắng nhấn mạnh và giải thích không phải là tính thống nhất của lịch sử, mà đúng hơn là sự thiếu thống nhất của nó. Tác giả của tấn kịch trên Sân khấu Lịch sử không phải là một Thượng đế; mà các thần thuộc đủ loại nhúng tay vào. Cái mà diễn giải của Homer chia sẻ với người Do Thái là một cảm giác mơ hồ nào đó về vận mệnh, và ý tưởng về các quyền năng đứng ở hậu trường. Nhưng vận mệnh cuối cùng, theo Homer, không được tiết lộ; không giống như với người Do Thái, nó vẫn bí ẩn.
Người Hi Lạp đầu tiên đưa ra một thuyết lịch sử chủ nghĩa nổi bật là Hesiod, ông có lẽ đã bị ảnh hưởng của các nguồn phương đông. Ông đã sử dụng ý tưởng về xu hướng hay khuynh hướng chung trong phát triển lịch sử. Diễn giải lịch sử của ông mang tính bi quan. Ông tin rằng loài người, trong sự phát triển xuống của nó từ Thời Hoàng kim, đã được định sẵn để suy đồi, cả về mặt thể chất lẫn đạo đức. Cao điểm của các ý tưởng lịch sử chủ nghĩa khác nhau do các triết gia Hi Lạp ban đầu đề xuất, đến với Plato, người, trong một nỗ lực để giải thích lịch sử và đời sống xã hội của các bộ lạc Hi Lạp, và đặc biệt của những người Athens, đã vẽ nên bức tranh triết học hùng vĩ của thế giới. Trong chủ nghĩa lịch sử của mình ông bị ảnh hưởng mạnh bởi các bậc tiền bối khác nhau, đặc biệt bởi Hesiod; song ảnh hưởng quan trọng nhất đến từ Heraclitus.
Heraclitus là triết gia đã khám phá ra ý tưởng về thay đổi. Vào thời này, các triết gia Hi Lạp, bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng phương đông, đã coi thế giới như một dinh thự khổng lồ mà các thứ vật chất đã là vật liệu xây dựng.1 Toàn bộ các thứ là - cosmos [vũ trụ] (cái ban đầu dường như là một cái lều hay màn che phương đông). Các câu hỏi mà các triết gia tự hỏi mình đã là, ‘Thế giới được làm bằng chất gì?’ hay ‘Nó được xây dựng thế nào, sơ đồ mặt bằng thật của nó là gì?’. Họ coi triết học, hay vật lí học (hai thứ không thể được phân biệt trong thời gian dài), như việc nghiên cứu ‘tự nhiên’, tức là, nghiên cứu vật liệu ban đầu mà dinh thự này, thế giới này, được làm ra. Trong chừng mực bất kể quá trình nào được xem xét, họ đã nghĩ hoặc như xảy ra ở bên trong dinh thự, hoặc khác đi thì như xây dựng hay duy trì nó, làm xáo động và khôi phục lại sự ổn định hay cân bằng của một kiến trúc được coi về cơ bản là tĩnh. Chúng là các quá trình tuần hoàn (trừ các quá trình gắn với nguồn gốc của dinh thự; câu hỏi ‘Ai tạo ra nó?’ được những người phương đông, Hesiod, và những người khác thảo luận). Cách tiếp cận rất tự nhiên này, tự nhiên ngay cả với nhiều người chúng ta ngày nay, đã bị thế chỗ bởi thiên tài của Heraclitus. Quan điểm ông đưa ra là không có dinh thự như vậy, không có cấu trúc ổn định, không có vũ trụ. ‘Vũ trụ, nhiều nhất, giống như một đống rác rơi vãi lung tung’, là một trong các châm ngôn của ông.2 Ông hình dung thế giới không như một dinh thự, mà đúng hơn như một quá trình khổng lồ; không như tổng thể của tất cả các thứ, mà đúng hơn như tổng thể của tất cả các sự kiện, hay những thay đổi, hay các sự thực (fact). ‘Mọi thứ đều thay đổi và chẳng gì đứng yên cả’, là đề từ của triết học của ông.
Sự khám phá của Heraclitus đã ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của triết học Hi Lạp. Các triết lí của Parmenides, Democritus, Plato, và Aristotle tất cả đều có thể được mô tả một cách thích hợp như các nỗ lực để giải quyết các vấn đề của thế giới thay đổi đó, mà Heraclitus đã khám phá ra. Tính trọng đại của khám phá này khó có thể được đánh giá quá cao. Nó được coi là gây kinh hãi, và ảnh hưởng của nó được so sánh với ảnh hưởng của ‘một cuộc động đất, trong đó mọi thứ… dường như đều lắc lư’.3 Và tôi không nghi ngờ rằng khám phá này đã gây ấn tượng lên Heraclitus bởi những kinh nghiệm cá nhân gây kinh hãi đã trải qua như một kết quả của các xáo động xã hội và chính trị của thời ông. Heraclitus, là triết gia đầu tiên đề cập không chỉ đến ‘tự nhiên’ mà thậm chí nhiều hơn đến các vấn đề đạo đức-chính trị, đã sống trong một thời đại cách mạng xã hội. Chính trong thời ông các quí tộc bộ lạc Hi Lạp bắt đầu nhường bước cho lực lượng dân chủ mới.
Để hiểu ảnh hưởng của cuộc cách mạng này, chúng ta phải nhớ lại tính ổn định và cứng nhắc của đời sống xã hội trong một chế độ quí tộc bộ lạc. Đời sống xã hội được xác định bởi các điều cấm kị xã hội và tôn giáo; mỗi người có chỗ được ấn định của mình bên trong toàn bộ cấu trúc xã hội; mỗi người đều cảm thấy chỗ của mình là phù hợp, là địa vị ‘tự nhiên’, được ấn định cho anh ta bởi các lực thống trị thế giới; mỗi người ‘biết địa vị của mình’.
Theo truyền thống, địa vị riêng của Heraclitus là địa vị của người thừa kế thuộc hoàng gia của vua giáo sĩ ở Ephesus, nhưng ông đã từ bỏ đòi hỏi của mình nhường cho em trai. Bất chấp sự từ chối đáng hãnh diện của ông về tham gia vào đời sống chính trị của thành phố, ông đã ủng hộ sự nghiệp của các nhà quí tộc, những người đã cố một cách vô vọng để chặn sự nổi lên của trào lưu của các lực lượng cách mạng mới. Những kinh nghiệm này trong lĩnh vực xã hội hay chính trị đã được phản ánh trong những mẩu còn sót lại của tác phẩm của ông.4 ‘Người Ephesus phải treo cổ mình từng người một, tất cả người lớn, và để trẻ con cai trị thành phố …’, là một trong những cơn giận dữ của ông, gây ra bởi quyết định của nhân dân trục xuất Hermodorus, một trong các bạn quí tộc của Heraclitus. Lí thú nhất là diễn giải của ông về các động cơ của người dân, vì nó chứng tỏ rằng thủ thuật của lí lẽ phản dân chủ đã chẳng thay đổi mấy từ những ngày đầu tiên của nền dân chủ. ‘Chúng viện dẫn: không ai sẽ là người tốt nhất giữa chúng ta; và nếu có ai đó nổi bật lên, thì hãy để anh ta là thế ở nơi khác, giữa những người khác’. Sự thù địch này với dân chủ hiện ra khắp nơi trong các đoạn: ‘…đám đông nhồi đầy bụng giống lũ thú vật…Họ coi các thi sĩ và tín ngưỡng bình dân như người chỉ đường của họ, không biết rằng số nhiều là xấu và chỉ có ít là tốt…Bias, con của Teutames, đã sống ở Pirene, lời của ông có giá trị nhiều hơn của người khác. (Ông nói: ‘Hầu hết đàn ông là đồi bại.’) …Đám đông chẳng quan tâm, ngay cả đến những việc họ tình cờ gặp phải; họ cũng chẳng thể hiểu thấu được một bài học- dù họ nghĩ họ hiểu’. Ông nói theo cùng lối: ‘Luật có thể đòi hỏi, quả vậy, rằng ý chí của Một Người phải được tuân theo’. Một diễn đạt khác về cách nhìn bảo thủ và phản dân chủ của Heraclitus, tình cờ, hoàn toàn có thể chấp nhận được với những người dân chủ về cách hành văn của nó, tuy có lẽ không về chủ định của nó: ‘Nhân dân phải đấu tranh vì những phép tắc của thành phố như thể chúng là thành luỹ của nó’.
Nhưng cuộc chiến đấu vì các phép tắc cũ của thành phố của ông là vô vọng, và tính nhất thời của mọi thứ đã gây ấn tượng mạnh lên ông. Lí thuyết của ông về thay đổi bày tỏ cảm giác này5: ‘Mọi thứ đều thay đổi liên tục’, ông nói; và ‘ta không thể bước hai lần vào cùng một con sông’. Làm vỡ mộng, ông lí lẽ chống lại lòng tin rằng trật tự xã hội hiện hành sẽ duy trì mãi mãi: ‘Chúng ta không được hành động như trẻ con được nuôi dạy với cái nhìn thiển cận “Như nó được truyền xuống cho chúng ta”.’
Sự nhấn mạnh này về thay đổi, và đặc biệt về thay đổi trong đời sống xã hội, là một đặc trưng quan trọng không chỉ của triết lí của Heraclitus mà của chủ nghĩa lịch sử nói chung. Rằng các sự vật, và ngay cả các vị vua, thay đổi, là một sự thật cần phải có ấn tượng đặc biệt lên những người coi môi trường xã hội của họ là dĩ nhiên. Bấy nhiêu phải được thừa nhận. Song ở triết học kiểu Heraclitus một trong những đặc điểm ít đáng khen của chủ nghĩa lịch sử hiện ra, cụ thể là, một sự nhấn mạnh quá đến thay đổi, được kết hợp với lòng tin bổ sung vào một qui luật về vận mệnh không thể lay chuyển và không thể thay đổi được.
Trong lòng tin này chúng ta đối mặt với một thái độ, mặc dù thoạt nhìn là mâu thuẫn với sự nhấn mạnh quá đến thay đổi của nhà lịch sử chủ nghĩa, nó là đặc điểm của hầu hết, nếu không phải tất cả, các nhà lịch sử chủ nghĩa. Có thể giải thích thái độ này, có lẽ, nếu chúng ta diễn giải sự nhấn mạnh quá đến thay đổi của nhà lịch sử chủ nghĩa như một triệu chứng của một nỗ lực cần để vượt qua sự phản kháng vô thức của ông ta với ý tưởng về thay đổi. Điều này cũng có thể giải thích sự căng thẳng cảm xúc dẫn nhiều nhà lịch sử chủ nghĩa đến vậy (ngay cả ngày nay) đi nhấn mạnh tính mới của phát hiện chưa từng nghe thấy mà họ phải đạt được. Những cân nhắc như vậy gợi ý khả năng là các nhà lịch sử chủ nghĩa này sợ sự thay đổi, và họ không thể chấp nhận ý tưởng về thay đổi mà không có vật lộn nội tâm nghiêm túc. Có vẻ cứ như họ cố an ủi mình vì sự mất mát của một thế giới ổn định bằng cách bám chặt lấy quan điểm rằng sự thay đổi do một qui luật không thay đổi ngự trị. (Theo Parmenides và theo Plato, chúng ta thậm chí thấy lí thuyết rằng thế giới đang thay đổi, mà trong đó chúng ta sống, là một ảo tưởng và rằng có một thế giới thực hơn, một thế giới không thay đổi).
Trong trường hợp Heraclitus, sự nhấn mạnh đến thay đổi dẫn ông đến lí thuyết rằng mọi thứ vật chất, bất luận ở thể rắn, lỏng, hay khí, đều giống lửa -rằng chúng là các quá trình hơn là các thứ, và rằng chúng đều là những biến đổi của lửa; quả đất nhìn bề ngoài rắn (gồm có tro) chỉ là lửa trong trạng thái biến đổi, và ngay cả các chất lỏng (nước, biển) đều là lửa được biến đổi (và có thể trở thành nhiên liệu, có lẽ ở dạng dầu hoả). ‘Sự biến đổi đầu tiên của lửa là biển; nhưng của biển, nửa là đất, và nửa khí nóng’.6 Như vậy tất cả ‘các nguyên tố’ khác - đất, nước, và khí - đều là lửa được biến đổi: ‘Mọi thứ là một sự trao đổi ra lửa, và lửa ra mọi thứ; hệt như vàng ra hàng hoá và hàng hoá ra vàng’.
Nhưng sau khi qui mọi thứ thành lửa, thành các quá trình, giống như sự cháy, Heraclitus thấy rõ trong các quá trình một qui luật, một mức độ, một lẽ phải, một sự sáng suốt; và sau khi đã phá huỷ vũ trụ như một dinh thự, và tuyên bố nó như một đống rác, ông tái-giới thiệu nó như trật tự đã định trước của các sự kiện trong quá trình-thế giới.
Mỗi quá trình trong thế giới, đặc biệt bản thân lửa, phát triển theo một qui luật xác định, theo ‘mức độ’7 của nó. Đó là một qui luật không lay chuyển và không cưỡng lại được, và trong chừng mực này nó giống khái niệm hiện đại của chúng ta về qui luật tự nhiên cũng như khái niệm về các qui luật lịch sử hay tiến hoá của các nhà lịch sử chủ nghĩa. Nhưng nó khác các khái niệm này ở chừng mực nó là sắc lệnh của lí trí, được thực thi bằng trừng phạt, hệt như luật do nhà nước áp đặt. Sự thất bại để phân biệt, một bên giữa luật pháp hay các tiêu chuẩn và các qui luật tự nhiên hay những sự đều đặn ở bên kia, là đặc trưng của chủ nghĩa cấm kị: cả hai loại luật được coi như ma thuật, điều làm cho sự phê phán duy lí các điều cấm kị nhân tạo là không thể hình dung nổi như một nỗ lực để cải thiện sự sáng suốt và lẽ phải cuối cùng của các qui luật hay sự đều đặn của thế giới tự nhiên: ‘Tất cả các sự kiện diễn ra với sự tất yếu của số phận… Mặt trời sẽ không đi quá mức độ của quĩ đạo của nó; không thì nữ thần Số Phận, hầu gái của Công Lí, sẽ biết tìm nó ra sao’. Nhưng mặt trời không chỉ tuân theo qui luật; Lửa, trong hình thù của mặt trời và (như chúng ta sẽ thấy) của sấm sét của thần Zeus, trông coi qui luật, và đưa ra phán xử theo nó. ‘Mặt trời là người gác, người bảo vệ các chu kì, hạn chế và phán xử và báo trước và biểu thị những thay đổi và các mùa, những cái sinh ra tất cả mọi thứ…Trật tự vũ trụ này, trật tự như nhau cho mọi thứ, đã không được tạo ra, không phải bởi thần cũng chẳng phải bởi con người; nó luôn đã là, đang là, và sẽ là, một ngọn Lửa sống mãi, loé sáng theo mức độ [qui luật], và tắt đi theo mức độ…Trong sự thăng tiến của nó, Lửa sẽ nắm bắt, xét xử, và thi hành, mọi thứ’.
Kết hợp với ý tưởng lịch sử chủ nghĩa về một vận mệnh tàn nhẫn chúng ta thường xuyên thấy một yếu tố của chủ nghĩa thần bí. Chương 24 sẽ cho một phân tích phê phán của chủ nghĩa thần bí. Ở đây tôi chỉ muốn chỉ ra vai trò của chủ nghĩa phản lí và chủ nghĩa thần bí trong triết học Heraclitus8: ‘Tự nhiên thích che giấu’, ông viết, và ‘Chúa mà lời sấm của Ngài ở Delphi không tiết lộ cũng chẳng giấu giếm, mà Ngài biểu lộ ý nghĩa của mình qua các lời ám chỉ’. Sự khinh rẻ các nhà khoa học có đầu óc thực nghiệm hơn của Heraclitus là điển hình của những người chấp nhận thái độ này: ‘Người biết nhiều thứ không cần đến nhiều trí tuệ; vì khác đi thì Hesiod và Pythagoras đã có thể có nhiều hơn, và cả Xenophanes nữa…Pythagoras là ông của tất cả những kẻ lừa đảo’. Đi cùng với sự khinh bỉ này là lí thuyết thần bí về một sự hiểu biết trực giác. Lí thuyết của Heraclitus về lí trí coi sự thực, rằng nếu chúng ta thức, chúng ta sống trong một thế giới chung, như điểm xuất phát của mình. Chúng ta có thể giao thiệp, kiểm soát, và kiểm tra lẫn nhau; và sự đảm bảo, rằng chúng ta không là nạn nhân của ảo tưởng, nằm ở đây. Nhưng lí thuyết này cho một ý nghĩa thứ hai, mang tính tượng trưng, và thần bí. Nó là lí thuyết về một trực giác thần bí được ban cho những người được chọn, những người thức, những người có quyền lực để nhìn, nghe, và nói: ‘Ta không được hành động và nói cứ như đang ngủ…Những người thức có Một thế giới Chung; những người ngủ, quay về các thế giới riêng của họ…Họ không có năng lực cả về nghe và nói…Cho dù họ có nghe họ giống người điếc. Ngạn ngữ áp dụng cho họ: Họ hiện hữu thế mà họ không hiện hữu…Chỉ có một thứ là sáng suốt: để hiểu ý nghĩ hướng dẫn mọi thứ qua mọi thứ’. Thế giới, mà kinh nghiệm về nó là chung cho những người thức, là cái thống nhất thần bí, cái độc nhất của tất cả mọi thứ, cái có thể lĩnh hội được chỉ bằng lí trí: ‘Ta phải theo cái là chung cho tất cả…Lí trí là chung cho tất cả… Tất cả trở thành Một và Một trở thành tất cả… Cái Một, mà riêng nó là sáng suốt, muốn và không muốn được gọi bằng tên của Zeus…Đó là sấm sét hướng dẫn tất cả mọi thứ’.
Bấy nhiêu về các nét đặc biệt chung của triết lí Heraclitus về sự thay đổi phổ quát và vận mệnh bị che giấu. Từ triết lí này nảy sinh một lí thuyết về động lực đằng sau mọi thay đổi; một lí thuyết bày tỏ đặc tính lịch sử chủ nghĩa của nó bằng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ‘động học xã hội’ đối lại với ‘tĩnh học xã hội’. Động học Heraclitus về tự nhiên nói chung và đặc biệt về đời sống xã hội, xác nhận quan điểm rằng triết lí của ông được truyền cảm hứng bởi những xáo động xã hội và chính trị mà ông đã trải nghiệm. Vì ông tuyên bố rằng xung đột hay chiến tranh là nguyên lí động học hay sáng tạo của mọi thay đổi, và đặc biệt của mọi sự khác biệt giữa những con người. Và là một nhà lịch sử chủ nghĩa điển hình, ông chấp nhận phán quyết của lịch sử như một phán quyết đạo đức9; vì ông cho rằng kết quả của chiến tranh luôn luôn là công bằng10: ‘Chiến tranh là cha và vua của mọi thứ. Nó chứng tỏ một số là thần và những người khác chỉ là người, biến những người này thành nô lệ và những người trước thành các ông chủ…Phải biết rằng chiến tranh là phổ quát, và rằng công lí –pháp luật- là xung đột, và rằng tất cả mọi thứ phát triển thông qua xung đột và bởi tính tất yếu’.
Nhưng nếu công lí là xung đột hay chiến tranh; nếu ‘nữ thần Định mệnh’ đồng thời là ‘cô hầu của Công lí’; nếu lịch sử, hay chính xác hơn, nếu thành công, tức là thành công trong chiến tranh, là tiêu chuẩn của phẩm chất, thì tiêu chuẩn của phẩm chất bản thân nó phải ‘luôn thay đổi’. Heraclitus thoả mãn vấn đề này bằng chủ nghĩa tương đối của ông, và bằng học thuyết về tính đồng nhất của những sự đối lập của ông. Cái này xuất phát từ lí thuyết về thay đổi của ông (vẫn là cơ sở cho lí thuyết của Plato và thậm chí nhiều hơn của Aristotle). Một sự vật thay đổi phải từ bỏ tính chất nào đó và lấy tính chất đối ngược. Không phải là một sự vật mà là một quá trình quá độ từ một trạng thái sang trạng thái đối lập, và do đó là sự thống nhất của các trạng thái đối lập11: ‘Các vật lạnh trở nên ấm và các vật ấm trở nên lạnh; cái là ẩm trở nên khô và cái khô trở nên ẩm…Bệnh tật cho phép chúng ta đánh giá cao sức khoẻ…Sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, tất cả các thứ này là y hệt nhau; vì cái này biến thành cái kia và cái kia biến thành cái này…Cái vật lộn với chính mình trở thành cam kết cho chính mình: có một liên kết hay sự hài hoà do bật và căng, như trong vĩ cầm hay đàn lyre…Các sự đối lập thuộc về lẫn nhau, sự hài hoà nhất là kết quả từ sự bất hoà, và mọi thứ phát triển bằng xung đột…Con đường dẫn lên và đường dẫn xuống là y hệt nhau…Đường thẳng và đường quanh co là như nhau… Với thánh thần, mọi thứ đều đẹp và tốt và công bằng; con người, tuy vậy, đã chấp nhận một số thứ là công bằng, các thứ khác là không công bằng…Cái tốt và cái xấu là y hệt nhau’.
Nhưng chủ nghĩa tương đối về giá trị (có thể được mô tả thậm chí như chủ nghĩa tương đối đạo đức) được bày tỏ ở đoạn sau cùng không ngăn cản Heraclitus phát triển, trên nền lí thuyết của ông về công lí của chiến tranh và phán quyết của lịch sử, một đạo đức theo bộ lạc và lãng mạn về Danh tiếng, Định mệnh, và sự ưu việt của Vĩ Nhân, tất cả giống lạ kì với một số tư tưởng rất hiện đại12: ‘Người hi sinh trong chiến đấu sẽ được thần thánh và con người ca ngợi…Hi sinh càng lớn thiên mệnh càng vẻ vang…Người giỏi nhất kiếm một thứ trên tất cả các thứ khác: danh tiếng muôn thủa…Một người có giá trị hơn vạn người, nếu anh ta Vĩ đại’.
Thật ngạc nhiên để thấy trong các đoạn này, có từ khoảng năm 500 trước công nguyên, bao nhiêu cái là đặc trưng của các xu hướng lịch sử chủ nghĩa và phản dân chủ hiện đại. Nhưng ngoài sự thực rằng Heraclitus là một nhà tư tưởng có năng lực và tính độc đáo vô song, và, hệ quả là, nhiều tư tưởng của ông (qua trung gian của Plato) đã trở thành một phần chủ yếu của truyền thống triết học, sự giống nhau của học thuyết có lẽ có thể được giải thích, ở mức độ nào đó, bằng sự giống nhau của tình hình xã hội trong các giai đoạn liên quan. Có vẻ cứ như các tư tưởng lịch sử chủ nghĩa trở nên nổi bật trong các thời kì biến động xã hội lớn. Chúng xuất hiện khi đời sống bộ lạc Hi Lạp đổ vỡ, cũng như khi đời sống bộ lạc Do Thái bị tan vỡ do tác động của sự xâm chiếm của người Babylon13. Có ít nghi ngờ, tôi tin, rằng triết học của Heraclitus là một biểu hiện của một cảm giác trôi giạt; một cảm giác dường như là một phản ứng điển hình đối với sự tan rã của các hình thức bộ lạc cổ xưa của đời sống xã hội. Ở châu Âu hiện đại, các tư tưởng lịch sử chủ nghĩa đã hồi sinh trong cách mạng công nghiệp, và đặc biệt qua ảnh hưởng của các cuộc cách mạng chính trị ở Mĩ và Pháp14. Dường như nhiều hơn là sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng Hegel, người đã chấp nhận rất nhiều tư tưởng của Heraclitus và chuyển nó cho tất cả các phong trào lịch sử chủ nghĩa hiện đại, là một người phát ngôn của phản ứng chống lại Cách mạng Pháp./.
CHÚ THÍCH CHO CHƯƠNG 2
(* ): Tập 1 của sách Xã hội mở và kẻ thù của nó
1 Câu hỏi ‘Thế giới được làm bằng gì?’ ít nhiều được chấp nhận nói chung như vấn đề cơ bản của các triết gia Ionian ban đầu. Ta giả sử rằng họ coi thế giới như một dinh thự, vấn đề về sơ đồ mặt bằng của thế giới sẽ bổ sung cho vấn đề về vật liệu xây dựng của nó. Và quả thực, chúng ta nghe thấy rằng Thales đã không chỉ quan tâm đến vật liệu của thế giới làm bằng gì, mà cả đến thiên văn học và địa lí học mô tả, và rằng Anaximander đã là người đầu tiên vẽ ra một sơ đồ mặt bằng, tức là một bản đồ thế giới. Vài nhận xét thêm về trường phái Ionian (và đặc biệt Anaximander như tiền bối của Heraclitus) sẽ được thấy ở chương 10; so các ct. 38-40 của chương đó, đặc biệt ct. 39.
* Theo R. Eisler, Weltenmantel und Himmelszelt, p. 693, cảm nhận của Homer về số phận (‘moira’) có thể truy nguyên về chủ nghĩa bí ẩn chiêm tinh phương đông thách đố thời gian, không gian, và số phận. Cũng theo tác giả đó (Revue de Synthèse Historique, 41, app., p. 16 f.), Bố Hesiod quê ở Tiểu Á, và nguồn ý tưởng của ông về Thời Hoàng Kim, và các kim loại trong con người, mang tính đông phương. (So về vấn đề này với nghiên cứu về Plato của Eisler được công bố sau khi ông chết, Oxford 1950). Eisler cũng chứng tỏ (Jesus Basileus, vol. II, 618 f.) rằng ý tưởng về thế giới như một tổng thể các thứ (‘cosmos’) truy nguyên về lí thuyết chính trị Babylonian. Ý tưởng về thế giới như một dinh thự (nhà hay lều) được đề cập trong Weltenmantel của ông*
2 Xem Diels, Die Vorsokratiker, 5th edition, 1934 (từ đây được viết tắt là ‘D5’), đoạn 124; so cả D5, vol. II, p. 423, các dòng 21 f. (sự phủ định nội suy đối với tôi có vẻ không đúng về phương pháp luận cũng như nỗ lực của các tác giả nào đó không tin toàn bộ đoạn này; ngoài điểm này ra, tôi theo bản sửa lỗi của Rüstow). Về hai trích dẫn khác ở đoạn văn này, xem Plato, Cratylus, 401d, 402a/b.
Diễn giải của tôi về giáo huấn của Heraclitus có lẽ khác với diễn giải thông thường được cho là đúng hiện nay, thí dụ của Burnet. Những người, có thể cảm thấy nghi ngờ liệu nói chung có thể đứng vững không, được dẫn chiếu đến các chú thích của tôi, đặc biệt đến chú thích này và các ct. 6, 7, và 11, trong đó tôi đề cập đến triết học tự nhiên của Heraclitus, giới hạn văn bản của tôi cho trình bày khía cạnh lịch sử chủ nghĩa của giáo huấn của Heraclitus và triết học xã hội của ông. Tôi cũng chỉ dẫn họ thêm đến bằng chứng của các chương 4 đến 9, và đặc biệt của chương 10, mà theo ánh sáng của nó triết học của Heraclitus, như tôi thấy, tỏ ra là phản ứng điển hình với cách mạng xã hội mà ông đã là nhân chứng. So cả các ct. 39 và 59 của chương đó (và văn bản), và phê phán chung đối với các phương pháp của Burnet và Taylor ở ct. 56.
Như biểu lộ ở văn bản, tôi (cùng nhiều người khác, thí dụ, Zeller và Grote) cho rằng thuyết về dòng chảy [flux] phổ quát là thuyết trung tâm của Heraclitus. Ngược với điều này, Burnet cho rằng đây ‘khó mà là điểm trung tâm trong hệ thống’ Heraclitus (so Early Greek Philosophy, 2nd ed., 163). Song xét kĩ các lí lẽ của ông (158 f.) không hoàn toàn thuyết phục được tôi là khám phá cơ bản của Heraclitus là thuyết siêu hình trừu tượng ‘sự sáng suốt không phải là tri thức về nhiều thứ, mà là tri giác về sự thống nhất cơ bản của các sự đối lập xung khắc nhau’, như Burnet trình bày. Sự thống nhất của các đối lập chắc chắn là phần quan trọng của giáo huấn của Heraclitus, song nó có thể được dẫn ra (ở chừng mực các thứ như vậy có thể được dẫn ra; so ct. 11 của chương này, và văn bản tương ứng) từ lí thuyết về dòng chảy cụ thể hơn và có thể hiểu một cách trực giác; và có thể nói cũng thế về thuyết về lửa của Heraclitus (so ct. 7 của chương này).
Những người, cùng Bernet, gợi ý rằng thuyết về dòng chảy phổ quát là không mới, mà được những người Ionian ban đầu thấy trước, tôi cảm thấy, là nhân chứng vô tình cho tính độc đáo của Heraclitus; vì bây giờ, sau 2400 năm, họ vẫn không hiểu điểm chính của ông. Họ không thấy sự khác biệt giữa một dòng chảy hay luân chuyển bên trong một mạch hay dinh thự hay khung khổ vũ trụ, tức là, bên trong một tổng thể của mọi thứ (phần của lí thuyết Heraclitus quả thực có thể được hiểu theo cách này, nhưng chỉ phần đó là phần không mấy độc đáo; xem dưới đây), và dòng chảy phổ quát bao hàm mọi thứ, ngay cả bản thân mạch, và khung khổ (so Lucian trong D5 I, p. 190) và là cái được, sự từ chối tồn tại của bất cứ thứ gì cố định của Heraclitus, mô tả. (theo một cách, Anaximander đã tạo ra một khởi đầu bằng làm tan rã khung khổ, nhưng vẫn còn xa từ đấy đến lí thuyết về dòng chảy phổ quát. So cả ct. 15 (4) của chương 3).
Thuyết về dòng chảy phổ quát buộc Heraclitus thử giải thích sự ổn định bề ngoài của các thứ ở thế giới này, và của các sự đều đặn điển hình khác. Nỗ lực này dẫn ông đến phát triển các lí thuyết phụ khác, đặc biệt đến thuyết của ông về lửa (so ct. 7 của chương này) và về các qui luật tự nhiên (so ct. 6). Chính trong sự giải thích này về sự ổn định bề ngoài của thế giới mà ông sử dụng nhiều lí thuyết của các tiền bối của ông bằng phát triển lí thuyết của họ về làm loãng khí và ngưng tụ, cùng với thuyết của họ về sự xoay vòng của trời, thành một lí thuyết chung về luân chuyển vật chất và về tính tuần hoàn. Nhưng phần này của giáo huấn của ông, tôi cho là, không phải là trung tâm mà là phụ. Có thể nói, là biện giải, vì nó cố dung hoà thuyết mới và cách mạng về dòng chảy với kinh nghiệm chung cũng như với giáo huấn của các tiền bối của ông. Tôi tin, vì thế, rằng ông không phải là một nhà duy vật cơ học người dạy cái gì đó giống như bảo toàn và luân chuyển vật chất và năng lượng; đối với tôi cách nhìn này dường như bị loại trừ bởi thái độ thần diệu của ông đối với luật cũng như bởi lí thuyết của ông về sự thống nhất của các đối lập, lí thuyết nhấn mạnh chủ nghĩa huyền bí của ông.
Luận điểm của tôi rằng dòng chảy phổ quát là lí thuyết trung tâm của Heraclitus, tôi tin, được Plato làm vững thêm. Tuyệt đại đa số các dẫn chiếu dứt khoát của ông đến Heraclitus (Crat., 401d, 402a/b, 411. 437ff., 440; Theaet., 153c/d, 160d, 177c, 179d f., 182a ff., 183a ff., so cả Symp., 207d, Phil., 43a; so cả Metaphysics của Aristotle, 897a33, 1010a13, 1078b13) làm chứng cho ấn tượng ghê gớm mà thuyết trung tâm này gây trên các nhà tư tưởng thời kì đó. Các chứng cớ dễ hiểu và rõ ràng này là mạnh hơn nhiều đoạn phải thừa nhận là lí thú không nhắc đến tên Heraclitus (Saph., 242d f., được Ueberweg và Zeller trích dẫn rồi, liên quan đến Heraclitus), mà dựa vào nó Burnet cố đặt cơ sở cho diễn giải của ông. (Về đánh giá hơi ngập ngừng của Burnet liên quan đến giá trị của đoạn này, so ct. 56 (7) của chương 10). Sự khám phá của Heraclitus rằng thế giới không phải là tổng thể của các thứ mà là của các sự kiện hay các sự thực không hề tầm thường; điều này có lẽ có thể được đánh giá bằng sự thực rằng Wittgenstein đã thấy cần phải khẳng định lại nó mới gần đây: ‘Thế giới là tổng thể của các sự thực, không phải của các vật’. (So Tractus Logico-Philosophicus, 1921/22, câu 1.1; tôi nhấn mạnh).
Tóm lại. Tôi coi thuyết về dòng chảy phổ quát là cơ bản, và nổi lên từ lĩnh vực kinh nghiệm xã hội của Heraclitus. Tất cả các thuyết khác của ông theo một cách đều là phụ so với nó. Thuyết về lửa (so Metaphysics của Aristotle, 984a7, 1067a2; cả 989a2, 996a9, 1001a15; Physics, 205a3) tôi coi là thuyết trung tâm của ông trong lĩnh vực triết học tự nhiên; nó là một nỗ lực để dung hoà thuyết về dòng chảy với kinh nghiệm của chúng ta về các thứ ổn định, một liên kết với các lí thuyết cũ hơn về lưu thông, và nó dẫn đến một lí thuyết về luật. Và thuyết về sự thống nhất của các đối lập tôi coi như cái gì đó ít trung tâm hơn và trừu tượng hơn, như người báo trước của một lí thuyết logic hay phương pháp luận (như nó tạo hứng cho Aristotle để trình bày qui luật của ông về mâu thuẫn), và như gắn với chủ nghĩa thần bí của ông.
3 W. Nestle, Die Vorsokratiker (1905). 35.
4 Để thuận tiện cho nhận diện các đoạn được trích dẫn, tôi cho các số của lần xuất bản của Bywater (được Burnet chấp nhận, trong bản dịch tiếng Anh của ông về các đoạn, ở Early Greek Philosophy), và cả các số của lần xuất bản thứ 5 của Diels.
Trong tám đoạn được trích ở đoạn văn này, (1) và (2) là từ các đoạn B 114 (= Bywater, và Burnet), D5 121 (= Diels lần xuất bản thứ 5). Các đoạn khác là từ: (3) B 111, D5 29; so Republic của Plato, 586a/b… (4): B 111, D5 104 … (5): B 112, D5 39 (so D5, vol. I, p. 65, Bias, 1) … (6): B 5, D5 17 … (7): B 110, D5 33 … (8): B 100, D5 44.
5 Ba đoạn trích ở đoạn văn này là từ các đoạn: (1) và (2): so B 41, D5 91; cho (1) so cả ct. 2 của chương này. (3): D5 74.
6 Hai đoạn là B 12, D5 31; và B 22, D5 90.
7 Về các ‘mức độ’ (hay qui luật, hay chu kì) của Heraclitus, xem B 20, 21, 23, 29; D5 30, 31, 94. (D5 31 nhóm ‘mức độ’ và ‘qui luật’ (logos) lại với nhau).
Năm đoạn được trích muộn hơn ở đoạn văn này là từ các đoạn: (1): D5, vol. I, p. 141, dòng 10. (So Diog. Laert., IX, 7.) ... (2): B 29, D5 94 (so ct. 2 chương 5) … (3): B 34, D5 100 … (4): B 20, D5 30 … (5): B 26, D5 66.
(1) Ý tưởng về qui luật là tương quan với ý tưởng về thay đổi hay dòng chảy, vì chỉ các qui luật hay sự đều đặn bên trong dòng chảy có thể giải thích sự ổn định bề ngoài của thế giới. Các sự đều đặn điển hình bên trong thế giới thay đổi được con người biết đến là các chu kì tự nhiên: ngày, tháng âm lịch, và năm (các mùa). Lí thuyết về qui luật của Heraclitus, tôi tin, là trung gian về mặt logic giữa quan niệm tương đối hiện đại về ‘các qui luật nhân quả’ (do Leucippus và đặc biệt Democritus nắm giữ) và các quyền lực đen tối của số phận của Anaximander. Các qui luật của Heraclitus vẫn mang tính ‘ma thuật’, tức là ông vẫn chưa phân biệt giữa các sự đều đặn nhân quả trừu tượng và các luật, như các cấm kị, được thực thi bởi sự trừng phạt (với điều này, so chương 5, ct. 2). Hình như lí thuyết của ông về số phận có liên hệ với lí thuyết về một ‘Năm Lớn’ hay ‘Chu trình Lớn’ bằng 18.000 hay 36.000 năm bình thường. (So, thí dụ, Republic of Plato do J. Adam biên tập, vol. II, 303). Tôi chắc chắn không nghĩ rằng lí thuyết này là một biểu lộ rằng Heraclitus thực sự không tin vào một dòng chảy phổ quát, mà chỉ vào những lưu thông khác nhau luôn tái lập sự ổn định của khung khổ; mà tôi nghĩ là có thể rằng ông đã có khó khăn trong hình dung một qui luật về sự thay đổi, và ngay cả về số phận, khác với qui luật dính đến một lượng chu kì nào đó. (So cả ct. 6 của chương 3).
(2) Lửa đóng vai trò trung tâm trong triết học tự nhiên của Heraclitus. (Có thể có ảnh hưởng Persian nào đó ở đây). Lửa là biểu tượng hiển nhiên của một dòng chảy hay quá trình hiện ra ở nhiều khía cạnh như một sự vật. Như vậy nó giải thích kinh nghiệm về các sự vật ổn định, và dung hoà kinh nghiệm này với thuyết về dòng chảy. Ý tưởng này có thể dễ được mở rộng ra cho các thân thể sống, chúng giống như lửa, chỉ cháy chậm hơn. Heraclitus dạy rằng tất cả các sự vật đều trong dòng chảy, tất cả đều giống lửa; dòng chảy của chúng chỉ có các ‘mức độ’ hay qui luật chuyển động khác nhau. ‘Cái bát’ hay ‘cái máng’ trong đó lửa cháy sẽ ở trong dòng chảy chậm hơn lửa nhiều, nhưng tuy nhiên nó vẫn trong dòng chảy. Nó thay đổi, nó có số phận và qui luật của mình, nó phải bị lửa làm mòn dần, và bị thiêu cho dù cần thời gian dài hơn trước khi số phận của nó hoàn thành. Như thế, ‘đi trước nó, lửa sẽ phán xử và kết án mọi thứ’ (B 26, D5 66).
Do đó, lửa là biểu tượng và sự giải thích về sự yên bề ngoài của các sự vật bất chấp trạng thái thực của chúng trong dòng chảy. Song nó cũng là biểu tượng về sự chuyển hoá vật chất từ một chặng (nhiên liệu) sang chặng khác. Như thế nó cung cấp kết nối giữa lí thuyết trực giác của Heraclitus về tự nhiên và các lí thuyết về loãng khí và ngưng tụ, v.v. của các tiền bối của ông. Nhưng sự loé lên và lịm đi của nó, hợp với mức cung cấp nhiên liệu, cũng là một thí dụ của một qui luật. Nếu điều này được kết hợp với dạng nào đó về chu kì, thì có thể dùng nó để giải thích các sự đều đặn của các chu kì tự nhiên, như ngày hay năm. (Xu hướng tư duy này làm cho không chắc là Burnet đúng trong hoài nghi các báo cáo truyền thống về lòng tin của Heraclitus vào một đám cháy lớn có chu kì, có lẽ liên hệ đến Năm Lớn của ông; so Aristotle, Physics, 205a3 với D5 66).
8 Mười ba đoạn trích ở đây là. (1): B 10, D5 123 … (2): B 11, D5 93 … (3): B 16, D5 40 … (4): B 94, D5 73 … (5): B 95, D5 89 … so (4) và (5) với Republic của Plato, 476c f., và 520c … (6): B 6, D5 19 … (7): B 3, D5 34 … (8): B 19, D5 41 … (9): B 92, D5 2 … (10): B 91a, D5 113 … (11): B 59, D5 10 … (12): B 65, D5 32 … (13): B 28, D5 64.
9 Nhất quán hơn hầu hết các nhà lịch sử chủ nghĩa đạo đức, Heraclitus cũng là một nhà thực chứng đạo đức và pháp lí (về thuật ngữ này, so chương 5): ‘Tất cả mọi thứ, đối với các thần, là phải và tốt và đúng; tuy vậy con người đã coi một số thứ là sai, và một số là đúng’. (D5 102, B 61; xem đoạn (8) trong ct. 11). Rằng ông là nhà thực chứng đầu tiên được Plato chứng thực (Theaet., 177c/d). Về chủ nghĩa thực chứng đạo đức và pháp lí nói chung, xem chương 5 (văn bản với các ct. 14-18) và chương 22.
10 Hai đoạn trích ở đoạn văn này là: (1): B 44, D5 53 … (2): B 62, D5 80.
11 Chín đoạn trích ở đoạn văn này là: (1): B 39, D5 126 … (2): B 104, D5 111 … (3): B 78, D5 88 … (4): B 45, D5 51 … (5): D5 8 … (6) B 69, D5 60 … (7): B 50, D5 59 … (8): B 61, D5 102 (so ct. 9) … (9): B 57, D5 58. (So Aristotle, Physics, 185b20).
Dòng chảy hay thay đổi phải là quá độ từ một giai đoạn hay đặc tính hay vị trí này sang cái khác. Trong chừng mực mà dòng chảy giả thiết trước cái gì đó thay đổi, cái gì đó này phải vẫn hệt như nhau, cho dù nó mang một giai đoạn hay đặc tính hay vị trí đối lập. Điều này liên kết lí thuyết về dòng chảy với lí thuyết về sự thống nhất của các sự đối lập (so Aristotle, Metaphysics, 1005b25, 1024a24 và 34, 1062a32, 1063a25) cũng như thuyết về tính duy nhất của mọi thứ; chúng tất cả đều là các pha hay diện mạo khác nhau của một thứ thay đổi (của lửa).
Liệu ‘con đường dẫn lên’ và ‘con đường dẫn xuống’ ban đầu được hình dung như một con đường bình thường đầu tiên dẫn lên núi, rồi muộn hơn lại quay xuống (hay có lẽ: dẫn lên từ cái nhìn của người ở dưới, và dẫn xuống từ cái nhìn của người ở trên), và liệu ẩn dụ này chỉ muộn hơn mới được áp dụng cho quá trình lưu thông, cho con đường dẫn từ đất qua nước (có lẽ qua nhiên liệu lỏng trong một cái bát?) lên lửa, và lại quay từ lửa qua nước (mưa?) xuống đất; hay liệu đường lên và xuống của Heraclitus ban đầu được ông áp dụng cho sự lưu thông này của vật chất hay không; tất cả việc này tất nhiên không thể được phân xử. (Nhưng tôi nghĩ rằng khả năng đầu tiên có nhiều khả năng hơn xét đến rất nhiều các ý tưởng tương tự trong các đoạn của Heraclitus: so với văn bản).
12 Bốn đoạn là: (1): B 102, D5 24 … (2): B 101, D5 25 (một phiên bản sát hơn ít nhiều giữ được lối chơi chữ của Heraclitus là: ‘Cái chết lớn hơn có được số phận lớn hơn’. So cả Laws của Plato, 903 d/e; tương phản với Republic 617 d/e) … (3): B 111, D5 29 (phần tiếp tục được trích ở trên; xem đoạn (3) ở ct. 4) … (4): B 113, D5 49.
13 Có vẻ rất có thể (so Gesch. d. Altertums của Meyer, đặc biệt vol. I) là các giáo huấn đặc trưng như vậy như về dân được chọn khởi đầu ở thời kì này, cái tạo ra một vài tôn giáo cứu rỗi khác bên cạnh Do Thái giáo.
14 Comte, người ở Pháp đã phát triển một triết học lịch sử chủ nghĩa không khác lắm với phiên bản Phổ của Hegel, đã thử, giống Hegel, chặn trào lưu cách mạng. (So, F. A. von Hayek, The Counter-Revolution of Science, Economica, N. S. vol. VIII, 1941, pp. 119 ff, 281 ff.). Về sự quan tâm của Lassalle đến Heraclitus, xem ct. 4 của chương 1. –Lí thú để lưu ý, trong mối quan hệ này, đến sự song song giữa lịch sử của các ý tưởng lịch sử chủ nghĩa và tiến hoá. Chúng bắt đầu ở Hy Lạp với Empedocles nửa-Heraclitean (về phiên bản của Plato, xem ct. 1 của chương 11), và chúng được tái sinh, ở Anh cũng như ở Pháp, trong thời Cách mạng Pháp.
Người dịch: Nguyễn Quang A