I. SỬ DỤNG KHÁI NIỆM MẠNG CHO XÃ HỘI ĐNA
Các đặc trưng chung của sự phát triển kinh tế xã hội đang ngày càng trở nên rõ ràng trong khu vực Trung tâm Đông Nam Á (ĐNA) lục địa, bao gồm các dải thung lũng sông Chao Phraya, Irrawaddy, các nhánh hạ lưu sông Mekong, vùng miền Trung và ven biển Việt Nam. Trong các nhà nước tại khu vực này người ta thường gặp hai vấn đề:
1. Các nhà nước phát triển muộn (Winzeler 1976) liên quan đến các nhà nước có nguồn gốc bản địa của Cựu Lục địa. Tính chất muộn màng này (không đến giữa Thiên niên kỷ I sau công nguyên (SCN) dường như đưa lại ấn tượng là khảo cố học tiền sử đã mô tả sự hiện diện lâu dài của hai nhân tố kinh tế và công nghệ, đôi khi vẫn được coi là quan trọng đối với sự ra đời của một quốc gia tại một nơi nào đó: i) việc canh tác lúa nước từ thiên niên kỷ IV trước công nguyên (TCN) có lẽ đã xuất hiện tại các khu vực đất ngập nước quanh năm (White 1995); và ii) các sản phẩm chuyên biệt về đồ đồng được định niên đại ít nhất là từ nửa đầu thiên niên kỷ II TCN (White 1986, 1988; Muhly 1988: 16).
2. Đầy dẫy bằng chứng cho thấy rằng các nhân vật đóng vai trò xây dựng các nhà nước dường như lại chính là các cư dân bản địa, trong khi đó các mô hình tư duy khái niệm Ấn Độ vẫn được đại chúng chấp nhận có chọn lọc và được thích nghi hóa như là một kiến trúc thượng tầng ý thức hệ (Wheatley 1983). Nếu như các lực lượng địa phương trở nên quá quan trọng đối với quá trình phát triển của các nhà nước thì tại sao các mô hình chính thống hóa lại không phát triển theo cung cách bản địa? Tại sao người ta lại phải vay mượn quá nhiều từ ý thức hệ của một nền văn hóa hoàn toàn xa lạ? Wheatley (1979:295) đã khới lên rằng sự vay mượn ấy cho thấy các xã hội tiền nhà nước chắc chắn đã thiếu những mô hình chính thống làm cơ sở cho quá trình thể chế hóa bền vững hệ thống quản trị siêu làng. Tuy nhiền bằng chứng khảo cổ học từ giai đoạn tiền nhà nước tiền sử cũng cần phải được xem xét cùng với vấn đề này.
Các quan sát về bước tiến, nền tảng kinh tế-công nghệ và chiến lược chính thống hóa đối với quá trình hình thành nhà nước ĐNA bản địa cho thấy rằng việc xem xét quỹ đạo văn hóa xã hội trong vùng chứa đựng những viễn cảnh quan tâm đến một lý thuyết tổng quát về quá trình phát triển của tính phức hợp chính trị xã hội nơi đây. Tuy nhiên sự trùng khớp giữa quá trình hình thành nhà nước với sự khởi đầu giai đoạn lịch sử có nghĩa là bằng chứng khảo cổ học về giai đoạn tiền sử sẽ đóng vai trò chủ chốt trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh.
Các hạn chế của Hệ mẫu Thủ lĩnh địa
Lâu nay người ta vẫn đặc biệt quan tâm tới việc nghiên cứu phức hợp xã hội thuộc các xã hội tiền nhà nước trong một vùng có thể được coi là các thủ lĩnh địa nếu như mô hình nhóm – bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước cho quá trình phát triển xã hội được chấp nhận. Đoạn mở đầu của một hợp tuyển mới đây dành riêng cho vấn đề thủ lĩnh địa (Earle 1991a:xii) đã ghi nhận rằng Châu Á không được trình bày trong bản tóm tắt đó một phần là vì “khái niệm thủ lĩnh địa ít được sử dụng” trong vùng này. Tình trạng thiếu vắng những văn liệu mạch lạc và có ảnh hưởng trong việc sử dụng khái niệm thủ lĩnh địa vào các xã hội tiền nhà nước tại ĐNA chí ít cũng có thể quy vào 4 lý do sau đây:
1. Các hệ mẫu chuyên ngành – Đa phần mang tính học thuật về các nhà nước sớm ở ĐNA được thực hiện trong các bộ môn không phải là khảo cổ học nhân học Mỹ. Các sử gia, các nhà lịch sử nghệ thuật và các nhà bi ký học được dạy dỗ theo truyền thống Châu Âu đã tiến hành hầu hết các nghiên cứu, các lý giải dữ liệu để có được những tổng hợp đầu tiên. Hầu hết các học giả này ít cảm thấy bị bắt buộc phải tiến hành các cuộc thảo luận trong khuôn khổ của một hệ mẫu lý thuyết tiến hóa văn hóa (Taylor 1992:181).
2. Thiếu các dữ kiện khảo cổ học – Chỉ có một số lượng ít ỏi các dữ kiện khảo cổ học cho chính giai đoạn tiền nhà nước (200 TCN- 800 SCN), mà chủ yếu là tiền sử.
3. Các dữ kiện bất thường – Các dữ kiện này tồn tại để chứng tỏ cho sự phát triển xã hội trước khi hình thành nhà nước, thường là thưa thớt, không dễ dàng thích hợp với việc thảo luận dựa trên cơ sở các dữ kiện từ những vùng khác trên thế giới (Bentley 1986).
4. Những ứng dụng không thành công các mô hình tiến hóa – Các nỗ lực đề xuất thảo luận về các xã hội tiền nhà nước trong khuôn khổ các thủ lĩnh địa và các mô hình tiến hóa đã bị coi là không đầy đủ vì cả bằng chứng về các mối tương liên vẫn được chấp nhận phổ biến cũng không được xác định theo trình tự, sự kết hợp hoặc một bối cảnh thỏa đáng; và còn vì các mô hình đã không thể giải quyết được nhiều khía cạnh nổi bật từ những bằng chứng mới (Christie 1992; Bayard 1992).
Khi khẳng định rằng “các thủ lĩnh địa là những xã hội trực tiếp chứ không phải là nhà nước, cũng không phải là các xã hội theo chế độ bình quân” Earle (1991a:xi) đã muốn nói đến một phạm trù hết sức tổng hợp bao gồm gần như mọi xã hội sơ kỳ đá mới và các nhà nước. Tuy nhiên ngoại trừ cố gắng to lớn của Earle trong việc phân biệt khái niệm thì thủ lĩnh địa đã trở thành một hệ mẫu giả định về tính tập trung của việc “kiểm soát kinh tế, khả năng quân sự và tính chất chính thống về phương diện nghi thức” trong các xã hội “trực tiếp” (Earle 1991b: 14). Tính tập trung của tất cả ba biến số này thật khó mà thể hiện trong các xã hội tiền nhà nước ở ĐNA, kể cả việc kiểm soát kinh tế lẫn khả năng quân sự đều thực sự không phải là trung tâm đối với các xã hội nhà nước sớm nhất trong vùng.
Cuộc tranh đấu để áp dụng quá trình phát triển từ nhóm – bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước của các chuyên gia khu vực thực sự thiếu một sự đồng thuận rõ ràng về việc các xã hội sớm có thể được xác định dứt khoát là các thủ lĩnh địa hay thậm chí đã thực sự trở thành nhà nước. Nhiều thực thể vẫn được dán nhãn “nhà nước sớm” chẳng hạn như Angkor có những đặc điểm giống một thực thể vùng, thậm chí giống như mạng thủ lĩnh địa, đặc biệt là trong việc thừa kế không theo quy tắc, và việc nhấn mạnh vào cương vị thủ lĩnh nhờ ở thần uy của người cầm đầu (Wolters 1982; Hagesteijn 1986). Mặt khác các bằng chứng về phẩm chất thủ lĩnh thể hiện rõ ràng ở di chỉ khảo cố học sớm tại Khok Phanom Di (2000-1500 TCN). Các bằng chứng ấy cho thấy một “trật tự phân cấp rõ ràng”, trong đó người ta cho rằng các “thủ lĩnh” ngày càng có nhiều quyền kiểm soát đối với việc phân phối hàng hóa uy tín trong khu vực đến các “cộng đồng phụ thuộc” vào nó (Higham 1989a:251), ngay cả khi tình trạng kinh tế của khu di chỉ được mô tả trong khuôn khổ của một cộng đồng săn bắn - hái lượm phôi thai một quá trình thuần dưỡng cây trồng, vật nuôi (Higham 1989b:84).
Các chuyên gia khu vực có lẽ đều rất nhất trí rằng một loại thực thể vùng nào đó đã phát triển từ giữa đến cuối thiên niên kỷ I TCN dựa trên sự xuất hiện của các mô hình phân cấp cư trú trong các vùng chẳng hạn như thung lũng Mun – Chi (Higham and Kijngam 1982; Moore 1988, 1990; Welch and McNeill 1991). Tuy nhiên bằng chứng cụ thể cho các mối tương liên vùng này, chẳng hạn như công việc chiến tranh, đẳng cấp xã hội cha truyền con nối bền vững, sự thống nhất hệ tư tưởng, hoặc quyền kiểm soát kinh tế của các nhóm tinh hoa đều còn lâu mới được công khai. Việc chứng minh về quyền lực chính trị tập trung hoặc bước quá độ sang xã hội phân tầng có đặc quyền tiếp cận với các nguồn lực chiến lược lâu nay vẫn khó nắm bắt. Các ví dụ này ngụ ý rằng các đặc trưng phát triển phức hợp chính trị và xã hội khu vực có thể khác biệt đáng kể với sự mong đợi từ các lĩnh vực khác.
Đưa khái niệm Mạng vào lý thuyết phát triển xã hội ĐNA
Phần này chứng minh rằng giá trị của diễn trình văn hóa ĐNA đối với các vấn đề lý thuyết rộng lớn hơn nằm trong chính sự thách thức của nó đối với trí tuệ khảo cổ học truyền thống vẫn nhấn mạnh các mô hình tiên báo có tính quyết định luận về sự biến đổi văn hóa. Các dữ liệu ĐNA tạo thuận lợi cho việc đánh giá các khái niệm và các mô hình được phát triển từ các vùng khác trên thế giới: một cơ hội để phát triển các khung khái niệm mới hơn là việc tạo hình sự phát triển vùng cho phù hợp với các mô hình có trước (Morrison 1994). Với tư cách là bước khởi đầu trong quá trình đánh giá, phần này đề xuất ý tưởng cho rằng một khái niệm trọng tâm đã trượt khỏi công cuộc thảo luận về sự phát triển của xã hội ĐNA, và đến lượt mình nó lại trượt khỏi chính cuộc thảo luận về lý thuyết phức hợp xã hội: đó chính là khái niệm mạng (Crumley 1995).
Crumley (1979, 1987) đã chỉ ra rằng cuộc thảo luận về sự phát triển tính phức hợp xã hội hầu như chỉ tập trung vào việc xây dựng các cấu trúc đẳng cấp: bằng chứng về sự khác thường và sự lệ thuộc. Lướt qua các trang đầu tập công trình của Earle (1991b:1) về các vùng có thể thấy rất rõ những khuynh hướng phê phán liên quan đến việc hiểu về “quá trình tiến hóa của các xã hội phức hợp chưa phải là nhà nước”. “Ngôn ngữ vùng” được bộc lộ trong mệnh đề kết hợp các từ chẳng hạn như quyền lực, sự thống trị, sự phân tầng, sự kiểm soát (đối với các nguồn lực, các thung lũng sông, thương mại hàng hóa uy tín), chiến tranh, lệ thuộc, trung tâm, tinh hoa, và uy tín. Các động thái được xem xét tập trung vào các mối quan hệ hàng dọc. Tính chất phức hợp ngày càng tăng được cân bằng với cấp độ cấu trúc tôn ty hình tháp lồng nhau ngày càng tăng (Peebles and Kus 1977). Trong khi các động thái này chắc chắn tồn tại và thực sự quan trọng, thì cách tiếp cận ấy được thừa nhận là một lối nhìn đơn phương về tính chất phức hợp trong quá trình phát triển nhà nước của khu vực (Crumley 1987; Cocoran 1992).
Một số nhà lý thuyết đã thừa nhận rằng tính chất phức hợp cũng có thể được xem xét bằng các khuôn khổ khác (Kauffman 1993), chẳng hạn như tính chất đa chiều, các tương tác tiềm tàng, hoặc tính chất phức tạp của các mối liên hệ. Các quan hệ có thể được phân cấp hoặc không phân cấp, hoặc cũng có thể được phân cấp theo tình huống, chẳng hạn như trong bối cảnh hoặc quan điểm này thì mang tính thứ bậc, nhưng lại không thích hợp với một quan điểm hoặc một bối cảnh khác. Một khái niệm về tính phức hợp vượt khỏi quyết định luận và tích hợp các lựa chọn và bối cảnh có thể mở rộng cuộc thảo luận của chúng ta theo những cung cách sao cho thực sự hữu ích.
Hai thành tố chủ yếu của cấu trúc mạng là một hệ thống thứ bậc mềm và sự phân biệt bên, hay bình tuyến, là những động thái phê phán đã bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp trong việc phân tích quá trình tiến hóa của ĐNA và có lẽ của cả các xã hội khác nữa. Mặc dù Johnson (1982) đã sớm đề xuất một khái niệm liên quan tới hệ thống thứ bậc, là “hệ thống thứ bậc dãy”, nhưng ý tưởng của ông đã không gây được ảnh hưởng mà nó đáng có. Ảnh hưởng ấy mang tính bộ phận, bởi vì mệnh đề của ông bao gồm từ “thứ bậc”, không phân biệt rõ ràng quan niệm của ông với hệ thống thứ bậc chính thường, “hệ thống thứ bậc đồng thời” theo từ dùng của Johnson. Dẫu sao thì cuộc thảo luận của ông cũng đã bổ sung đáng kể cho lập luận của Crumley. Đặc biệt thảo luận của Johnson (1982:396) về bối cảnh và các vấn đề liên quan đến việc thiết lập một bình tuyến tổ chức xã hội phản hồi “sức ép giao tiếp vô hướng”, từ đây gọi tắt là “sức ép vô hướng” trực tiếp liên quan đến tiến hóa xã hội ĐNA.
Bằng việc xem xét các dữ kiện của họ thông qua lăng kính thứ bậc về mô hình vùng, các nhà khảo cổ học ĐNA nói chung đã đánh mất ý nghĩa của động thái cấu trúc mạng của sự phân cấp mềm và của sự phân biệt bình tuyến trong bằng chứng của họ, không chỉ giúp xác định quỹ đạo xã hội riêng biệt của vùng, mà còn giúp xây dựng sự phát triển khu vực theo cung cách hợp nhất với việc thảo luận sâu rộng hơn về sự phát triển tính phức hợp xã hội.
Theo tôi, tối thiểu cũng có đến 4 mô thức hoặc chủ đề lớn có thể được coi là có đặc trưng mạng trong số các đặc trưng nổi trội một cách bền vững đối với quá trình phát triển xã hội tại vùng hạch ĐNA lục địa, tối thiểu là từ thiên niên kỷ II TCN: 1) Phương thức đa nguyên văn hóa; 2) Các nền kinh tế bản địa có khuynh hướng được đặc trưng bởi: i) đơn vị sản xuất dựa trên cơ sở hộ; ii) chuyên môn hóa kinh tế dựa trên cơ sở cộng đồng; và iii) cơ chế xếp lớp đa trung tâm cạnh tranh trong việc phân phối hàng hóa chứ không phải là các độc quyền được kiểm soát bởi một trung tâm duy nhất; 3) Hệ thống vị thế xã hội có khuynh hướng linh động trong thực tiễn và bao gồm sự thành đạt cá nhân, ngay cả ở nơi mà các hệ thống thừa kế chỉ tồn tại trong lý thuyết; và 4) Giải pháp cho xung đột và các chiến lược tập trung hóa chính trị có khuynh hướng tạo thành liên minh với các động cơ cạnh tranh – hợp tác ở trung tâm và có thể tái thỏa thuận định kỳ (chiến tranh, kiểm soát, chinh phục, hoặc các động cơ bạo lực khác bị làm lu mờ đi hoặc chỉ trở thành phái sinh).
Trong khi không tự thể hiện mình một cách đồng nhất trong mọi bối cảnh, các mô thức mạng mà tôi đề xuất có thể được xác định trong các bối cảnh tiền sử, lịch sử, dân tộc học lịch sử, và dân tộc học tại ĐNA. Sau đây tôi sẽ tập trung vào việc thảo luận về các bằng chứng từ giai đoạn tiền sử khi các căn nguyên của quỹ đạo này hướng tới các nhà nước trong vùng phải được xác lập. Tất nhiên khảo cố học tiền sử là quá mới đối với một vùng mà các dữ liệu còn quá thưa thớt như vùng ĐNA lục địa này. Công việc nghiên cứu mới có thể đòi hỏi phải xem xét lại các quan điểm được đề xuất trong phần này. Tuy nhiên tôi vẫn cho rằng việc lý giải các mô thức của tôi bằng các chứng cớ tiền sử là phù hợp với các bằng chứng về các động thái chính trị xã hội trong vùng ở các giai đoạn muộn hơn.
Mô hình mạng trong nền cảnh tiền sử của các nhà nước ĐNA
Trong điều kiện các dữ liệu khảo cổ học thưa thớt đối với vấn đề các nhà nước sớm ĐNA trong nhiều thế kỷ (200 TCN – 800 SCN) thì lại có điều kiện thuận lợi để có thể tập hợp được đầy đủ dữ liệu từ các cuộc khai quật các di chỉ có niên đại từ 2000 năm – 200 năm TCN, đặc biệt là ở Thái Lan, giúp tái tạo dựng các mô thức phát triển văn hóa xã hội nơi đây. Nền nông nghiệp trồng lúa đã phát triển rực rỡ; việc sản xuất đồng và sắt cũng đều xuất hiện trong giai đoạn này; các di chỉ có những quy mô khác nhau, một số khu cư trú tại khu vực thung lũng sông Mun Chi có hào vây quanh, có lẽ thuộc thiên niên kỷ I TCN. Nếu các dữ kiện thuộc giai đoạn này được xem xét nhưng lại không thông qua lăng kính hình mẫu thủ lĩnh địa thì sẽ xuất hiện các mô thức đáng chú ý sau đây: i) quá trình địa phương hóa rõ ràng về văn hóa vật chất; ii) sự phát triển của các cộng đồng thủ công chuyên môn hóa; iii) tính chất cá thể trong việc xử lý các ngôi mộ bằng việc nhấn mạnh vào các ngôi mộ bất thường, thể hiện vai trò xã hội hoặc/và vai trò nghi lễ, kinh tế; iv) tình trạng khan hiếm bằng chứng về bạo lực có tổ chức hoặc chiến tranh. Tôi cho rằng các mô thức này thể hiện rõ ràng tính chất cấu trúc mạng bằng cách nhấn mạnh vào tính linh hoạt trong việc xác định vị thế, các mối quan hệ chính trị, và những phân biệt bên về các lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Địa phương hóa văn hóa vật chất: bằng chứng về đa nguyên văn hóa?
Các cuộc khai quật ở Thái Lan đang sản sinh ra tính chất đa dạng không ngờ được về văn hóa vật chất thể hiện các nền văn hóa địa phương hóa trên quy mô nhỏ (White 1986:337, Ho Chui-mei 1992). Trong khi đang cần các cuộc khai quật thêm để khẳng định các quan sát này và tăng cường việc kiểm soát dữ liệu trật tự thời gian và không gian chặt chẽ hơn thì đã có một số cơ sở để khẳng định rằng các đặc trưng địa phương lâu bền thể hiện rất rõ trong văn hóa vật chất, các thực tiễn nghi lễ, xã hội trong khoảng từ 2000 đến 200 năm TCN.
Những khác biệt bất ngờ trong các di chỉ liền kề trước hết trở nên rõ ràng khi trật tự gốm của di chỉ tiền sử Ban Chieng được so sánh một cách chi tiết với trật tự gốm của Ban Na Di cách đó chỉ 20km (White 1986:234). Dựa vào các niên đại C14, trầm tích nghĩa địa chủ yếu ở Ban Na Di trước hết phủ trên lớp nghĩa địa Ban Chiang giai đoạn giữa có niên đại từ sơ đến trung kỳ thiên niên kỷ I TCN. Một giả định khảo cổ học thông thường cho rằng hai di chỉ khảo cổ học gần nhau như vậy có thể có chung một truyền thống văn hóa (Higham and Kijngam 1984) có vẻ rất khó mà tách bạch được về gốm. Các trầm tích đương đại ở cả hai di chỉ có rất ít gốm có chung phong cách nên khó mà liên hệ niên đại giữa hai di chỉ ấy. Người ta có thể đặt câu hỏi đầu tiên rằng liệu các di chỉ này có tồn tại các lớp văn hóa đồng đại không. Tuy nhiên hai di chỉ đều có chung một loại hình đồ đựng đặc biệt, dù là hiếm, và điều này đã níu chặt hai trật tự niên đại lại với nhau. Một khi phong cách riêng của gốm hai di chỉ được nhận biết thì những đặc điểm phân biệt khác cũng đã trở nên rõ ràng.
Việc quan sát những khác biệt đáng kể về phong cách và hình thái đã được hỗ trợ bởi các phân tích kỹ thuật. Các phương pháp chế tạo vật dụng ở cả hai di chỉ cũng được phân biệt dựa vào việc nghiên cứu cấu trúc gốm (Vincent 1984, 1988; Glanzman and Fleming 1985; McGovern et al. 1985; White et al. 1991). Mặc dù các nghiên cứu về Ban Chiang mới chỉ ở giai đoạn sơ bộ, nhưng loạt nồi gốm giai đoạn Ban Chiang giữa đã sử dụng thịnh hành loại xương gốm có trộn trấu, trong khi Ban Na Di lại trộn bằng vụn mica hoặc bằng chính vụn gốm. Gốm Ban Chiang đều được làm bằng kỹ thuật bàn đập và hòn kê, trong khi hơn 90% nồi gốm Ban Na Di lại được làm bằng kỹ thuật khuôn-dải cuộn (Vincent 1984:661; White et al. 1991). Tóm lại các so sánh kỹ thuật, phong cách, hình thái đều khẳng định rằng Ban Chiang và Ban Na Di đã có những truyền thống chế tạo gốm khác nhau vào giữa thiên niên kỷ I TCN.
Gốm không phải là lĩnh vực duy nhất của văn hóa vật chất mà những khác biệt quan trọng giữa hai di chỉ đã thể hiện rõ ràng. Chẳng hạn như những chiếc vòng tay được làm bằng sò biển Chotrus thường gặp ở Ban Na Di, nhưng lại không thấy ở Ban Chiang – chí ít là từ cuộc khai quật do Cục Nghệ thuật và Bảo tàng Đại học Pennsylvania thực hiện. Những tượng nhỏ được tìm thấy trong mộ ở cả hai di chỉ đều khác biệt rõ rệt về kích thước, phong cách và ý nghĩa. Các mẫu Ban Chiang thường nhỏ, dài khoảng 3-4cm, và hình thù không rõ nét; còn các mẫu Ban Na Di thì lớn hơn nhiều, thường trên 15cm, được tạo dáng một cách tinh xảo hơn, và có thể dễ dàng nhận ra đó là trâu, bò, người, cá, voi.
Không chỉ là văn hóa vật chất, mà cả những khía cạnh xã hội cũng cho thấy những khác biệt đáng chú ý như đã thấy rõ trong táng tục ở cả hai di chỉ. Cách tổ chức mộ cùng với các đồ tùy táng thể hiện rõ sự khác biệt về hàng loạt loại hình và cách xử lý những chiếc nồi gốm đặt trong mộ cũng như hàng loạt mẫu vật và việc xử lý các di tích động vật giữa hai di chỉ. Mộ giai đoạn Ban Chiang giữa được đặc trưng bởi các bộ hài cốt được phủ bằng những vỉa gốm từ những chiếc nồi bị đập vỡ có chủ đích, mà khi phục dựng lại thấy có một số mẫu giống hệt như các mẫu gốm được đặt trên mộ. Chẳng hạn mộ số 40 trong mùa khai quật lần thứ hai có 7 chiếc nồi tô các vạch trắng và hai chiếc kết hợp tô màu và khắc vạch. Vincent (1984: 667) đã phát hiện ra một sự trái ngược tại Ban Na Di: mỗi mộ gồm có một vài chiếc nồi, trong đó một số thì vỡ, một số thì còn nguyên, và “…khuynh hướng chung là sử dụng những loại hình khác nhau chứ không phải chỉ một loại hình nhưng được sử dụng với số lượng nhiều”.
Xương động vật trong mộ cũng cho thấy những khác biệt về táng thức và hành vi nghi lễ. Mộ Ban Na Di thường có các chi nguyên vẹn của loài móng guốc, gồm có trâu, bò, lợn. Ở Ban Chiang lại thấy nhiều gà và hàm động vật, nhưng không có các chi nguyên vẹn của loài móng guốc với tư cách là một bộ phận của đồ tùy táng (Kijngam 1979:73).
Những khác biệt đã được lưu ý trong văn hóa vật chất và trong nghi lễ có vẻ không thể hiện một sự biệt lập về văn hóa. Không có sự biệt lập văn hóa thể hiện qua các bằng chứng về thương mại đường dài chẳng hạn như sò biển, đá, kim loại trong mạng lưới trao đổi vùng phát triển từ sông Mekong ra phía biển (khoảng cách giữa cao nguyên Khorat và vịnh Siem ít nhất cũng 500km). Các mối quan hệ văn hóa đường dài cũng thể hiện rõ ràng qua công nghệ và loại hình đồ kim loại trên một vùng rộng lớn từ Miến Điện đến Việt Nam vào thiên niên kỷ II TCN. Điều đó cũng chỉ rõ một khu vực kỹ nghệ rộng rãi độc đáo, được gọi là Tỉnh Luyện kim ĐNA (White 1988).
Trong khi luyện kim thể hiện một sự giao tiếp rộng rãi thì các loại hàng hóa đặc biệt của thương mại đường dài lại không được phân bố một cách đồng nhất như vậy. Nếu không vì lấy mẫu nhầm thì sự kiện khai quật tại Ban Na Di phát hiện ra một số vòng tay Trochus có nguồn gốc biển trong khi không cuộc khai quật nào tại Ban Chiang cho thấy mỗi cộng đồng đều tham gia một cách riêng rẽ vào thương mại hàng ngoại và có lẽ hàng hóa còn được sản xuất ở nơi khác nữa, mặc dù hai di chỉ này về cơ bản đều có cách thức giống nhau trong việc tham gia vào các mạng thương mại liên khu vực về phương diện vật chất (khoảng thời gian). Vì vậy các cộng đồng riêng rẽ có thể ấn định những giá trị khác nhau cho các mặt hàng ngoại đặc biệt: một mạng giá trị.
Ví dụ đặc biệt này về tính biến đổi địa phương bất ngờ trong văn hóa nghi lễ và văn hóa vật chất đã được thảo luận ở một số chi tiết vì có đủ các thông tin được công bố từ hai cuộc khai quật chủ yếu với các trật tự xếp lớp để phân biệt một vài khía cạnh khác biệt bên trong di chỉ và để đề xuất một ý tưởng nào đó về các chiều kích biến đổi địa phương hóa. Những ví dụ khác thuộc các vùng liền kề với những khác biệt rất rõ ràng về văn hóa vật chất được xác định ở miền Trung Thái Lan (Ho Chui-mei 1992; Natapintu 1992), đã cho thấy đông bắc Thái Lan dù xa xôi, hẻo lánh, nhưng không hề bị cô lập.
Một khía cạnh khác của đặc trưng tiểu vùng trong giai đoạn tiền sử Thái Lan được thể hiện bằng sự tham gia vào thời đại đồ đồng như một giai đoạn đã được xác định là khác biệt và đi trước thời đại đồ sắt. Vì vậy Glover (1991a, 1991b) cho rằng tây Thái Lan, đặc biệt là vùng thung lũng sông Kwai Noi và Kwai Yai đã không có bằng chứng về bất cứ sự liên can nào với kỹ nghệ đồng thau được khai thác tại các công trường thời đó ở đông bắc và trung Thái Lan vào thiên niên kỷ I TCN. Vì các khoảng cách trong ý nghĩa tuyệt đối của nó không vượt khỏi một loạt mạng thương mại đã biết nên ông kết luận rằng: “chúng ta đã bắt đầu nhận ra nhiều phạm vi tương tác” trong tiền sử Thái Lan, nơi các trở lực về xã hội cũng nhiều chẳng kém gì các trở lực về tự nhiên”. Mặc dù Bắc Việt Nam nằm ngoài phạm vi của phần này, nhưng vẫn rất xứng đáng để nhắc lại rằng Hà Văn Tấn cũng đã quan sát được quá trình biến đổi địa phương hóa trong các văn hóa và các nhà nước đương thời mà quá trình địa phương hóa thể hiện rất rõ trong giai đoạn tiền Đông Sơn (Trước thời đại đồ sắt: 2000-700 năm TCN). Ông cũng lưu ý rằng tính chất đa dạng văn hóa địa phương hóa thể hiện rõ ràng trong các phong cách gốm, tạo hình công cụ đá và kỹ nghệ, cũng như trong sự hiện diện khác biệt của hoạt động chế tạo đồ đồng.
Một điều rất đáng chú ý về việc xác định thời điểm của quá trình địa phương hóa này bản thân tôi đã nhận thấy rất rõ ở đông bắc Thái Lan, và Hà Văn Tấn ở Việt Nam, đó chính là thời điểm trùng khớp với thời điểm xuất hiện thời đại đồ đồng. Tại cả hai nơi đều thấy có sự tương đồng lớn trong văn hóa vật chất vùng (những tương đồng về phong cách phát triển trên những vùng rộng lớn hơn) trước khi xuất hiện đồ đồng. Ngay khi đồng thau trở thành một công nghệ thì các mảnh văn hóa vật chất cũng gia nhập vào các nhóm nhỏ, địa phương hóa cao. Vì vậy trong khi nuôi dưỡng mối quan hệ ngày càng tăng (tức là sự giao tiếp) giữa các cộng đồng thì sự xuất hiện của đồng thau cũng đi cùng với sự khác biệt bình tuyến mang tính tượng trưng và tính vật chất ngày càng tăng.
Căn cứ vào những nhận xét của Johnson (1982) thì sự xuất hiện rộng rãi của đồ đồng thau trong tiền sử ĐNA có thể tạo ra một bối cảnh sức ép giao tiếp vô hướng. Phản ứng lại với sức ép này là sự khác biệt bình tuyến của những đơn vị cộng đồng có thể nhận thấy trong các bối cảnh khảo cổ học như tính chất biến đổi địa phương hóa trong văn hóa vật chất và trong táng thức. Việc sáng tạo hành vi nghi lễ liên quan đến những biểu hiện về tính chất biến đổi phong cách có thể đánh dấu sự xác định nguồn gốc của các phụ nhóm được Johnson lưu ý như là những cơ chế tích hợp có thể làm giảm đi những sức ép giao tiếp vô hướng trong các nhóm mà ông gọi là “phương thức bình quân”. Vấn đề tại sao sự khác biệt lại xảy ra theo bình tuyến mà không phải là trực tuyến sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn vào những khía cạnh khác của các bằng chứng tiền sử ở phía dưới. Biến đổi văn hóa địa phương hóa tiếp tục ở Thái Lan cho đến giai đoạn đồ sắt (nửa sau thiên niên kỷ I TCN) tối thiểu là ở thung lũng Khorat thuộc đông bắc Thái Lan. Tuy nhiên ở Việt Nam giai đoạn Đông Sơn thuộc thời đại đồ sắt đã chứng kiến một sự cố kết của các văn hóa tiểu vùng (Hà Văn Tấn 1991).
Khác biệt bình tuyến trong tổ chức kinh tế tiền sử
Giới tinh hoa kiểm soát việc sản xuất và phân phối các sản phẩm thủ công chuyên môn hóa thường được coi là một thể tương liên phức hợp xã hội ngày càng tăng và một phương tiện cho các cá nhân hoặc các nhóm (thân tộc) tích lũy của cải và nắm được quyền lực. Vẫn chưa tìm được bằng chứng ở vùng hạch của ĐNA lục địa để gợi ý rằng việc kiểm soát sản xuất và phân phối hàng hóa là một phương tiện chủ yếu mà các nhóm tinh hoa vùng sử dụng để tập trung quyền lực chính trị. Hơn nữa các bằng chứng hiện thời cũng chỉ ra rằng chuyên môn hóa thủ công và trao đổi đường dài phát triển và tăng cường theo cách giải tập trung và đa trung tâm không có lợi cho việc duy trì sự kiểm soát theo thứ bậc.
Một ví dụ tốt nhất để bộc lộ rõ vấn đề này trong giai đoạn tiền sử Thái Lan là việc sản xuất và phân phối các hàng hóa kim loại chủ yếu là đồ đồng. Bằng đặc tính tự nhiên, luyện kim đồng đòi hỏi một trình độ chuyên môn hóa nhất định vì tính chất phức hợp và sự cố gắng sản xuất và phân phối mang tính tập trung các nguồn nguyên liệu buộc số lượng người sản xuất phải ít hơn người tiêu thụ.
Bằng chứng từ Thái Lan trong khoảng từ 2000 – 300 năm TCN đã chỉ ra rằng những người sản xuất kim loại trong suốt giai đoạn này là những chuyên gia độc lập. Trong khi sự hiện diện thông thường của các mảnh nồi nấu kim loại tại các di chỉ làng cách xa nguồn quặng đã chỉ rõ rằng các làng bình thường có những người thợ đúc và các nhà chuyên môn cư trú đôi khi cũng tập hợp nhau lại thành các cộng đồng (chẳng hạn như Non Nok Tha, Non Pa Wai, Nil Kham Haeng lại chấp nhận chuyên môn hóa cộng đồng riêng sản xuất cho một phạm vi tiêu thụ vùng). Từ quan niệm chung này, các bằng chứng ở Thái Lan đã chỉ rõ tính chất tăng cường của sản xuất và khối lượng sản phẩm từ các cộng đồng sản xuất kim loại chuyên môn hóa có thể khác biệt bằng cách tăng cường sản xuất một khối lượng lớn sản phẩm, có thể được gọi là “công nghiệp cộng đồng”. Mức độ công nghiệp của sản lượng sản phẩm dựa trên cộng đồng thể hiện rõ trong các di chỉ sản xuất đồng có niên đại từ 1500 – 300 năm TCN ở thung lũng sông Khao Wong Prachan thuộc miền trung Thái Lan.
Không có sự phân biệt chức năng ngoài di chỉ nào phù hợp với việc tổ chức sản xuất công xưởng lại được xác định trong các cộng đồng sản xuất đồng ở trung Thái Lan với khối lượng sản phẩm ở mức độ công nghiệp. Thay vào đó phương tiện sản xuất quy mô nhỏ, các sản phẩm đúc nhỏ bé, phân bố rải rác các đồ phế thải trong sản xuất, và việc trộn lẫn với các chất liệu có sẵn tại nơi cư trú đã cho thấy công việc sản xuất được tổ chức theo quy mô hộ. Mỗi hộ đã tiến hành những bước cần thiết để đưa nguyên liệu (tức là quặng đồng từ những khu mỏ gần kề) qua những công đoạn sản xuất khác nhau để có được sản phẩm cuối cùng. Không bằng chứng nào cho thấy một đầu vào hạn chế, việc tổ chức lao động theo thứ bậc, các công việc bị chia tách theo không gian, hoặc bất cứ một chứng cớ nào khác cho thấy những cung cách kiểm soát độc tài. Pigott et al. (1995) đã xuất trình một mô hình công nghệ đề cập đến cách sản xuất đồng theo những đơn vị sản xuất nhỏ đã được quản lý như thế nào.
Bằng chứng nghĩa địa đi liền với các cộng đồng sản xuất đồng cho thấy rằng vai trò kinh tế của những người sản xuất đồng đã được chấp nhận rộng rãi. Các mộ táng ở Nil Kham Haeng đều thuộc những người khá giả vì có nhiều đồ tùy táng với nhiều loại hình khác nhau, trong đó thường thấy các dụng cụ sản xuất đồng như búa chim, khuôn đúc, quặng, và các hiện vật bằng đồng thường bị làm hỏng. Sự phân bố của các mộ trong di chỉ cho thấy rằng đầu vào đối với vị thế xã hội qua công việc sản xuất đồng không bị hạn chế đối với bất kỳ bộ phận xã hội nào (Pigott et al. 1995). Không có gì cho thấy những người sản xuất này nhất thiết phải tích lũy các tài sản thông thường hoặc sử dụng địa vị kinh tế chuyên môn hóa của họ để tích lũy quyền lực kinh tế hoặc quyền lực chính trị vượt khỏi cộng đồng vùng của họ. Quy mô di chỉ thường khiêm tốn và nói chung điển hình cho các di chỉ làng tiền sử (chẳng hạn như Nil Kham Haeng chỉ rộng 3 - 5ha). Hơn nữa ở những vùng có các di chỉ khá rộng phát triển vào giữa thiên niên kỷ I TCN (chẳng hạn như vùng Phi Mai dọc theo hệ thống sông Mun) không quá xa so với các nguồn đồng và là những cộng đồng chính sản xuất đồng chuyên môn hóa.
Tại Thái Lan, bằng chứng về sự phát triển sản xuất đồng thể hiện ở các mô thức tăng cường và chuyên sâu, nhưng không phân hóa theo trật tự thứ bậc, mà là phân hóa bên. Phân hóa bên có thể có những loại hình khác nhau, các bằng chứng từ thiên niên kỷ II TCN ở đông bắc Thái Lan rất phù hợp với một hệ thống sản xuất phân tán mà các công đoạn sản xuất khác nhau có thể được thực hiện tại những di chỉ khác nhau, bởi các cộng đồng khác nhau (White and Pigott 1995). Ngược lại ở miền trung Thái Lan đã có những bằng chứng rõ ràng về quá trình phân hóa sản xuất ở thung lũng Khao Wong Prachan, với các cộng đồng riêng thực hiện hầu hết các công đoạn sản xuất. Hơn nữa các bằng chứng hiện thời cho thấy các cộng đồng liền kề nhau cùng sản xuất đồng, nhưng có thể đã khai thác các công nghệ tương đối khác nhau và đã sản xuất ra những loại sản phẩm khác nhau. Nhận xét này là kết quả của các quan sát tại Nil Kham Haeng, thể hiện rõ trong việc sản xuất các vật dụng hình dây thừng, có đế lắp ghép mà người ta vẫn chưa biết rõ chức năng của nó. Tuy nhiên ở gần Non Pa Vai, trầm tích lớp trên trồng lên lớp Nil Kham Haeng ở dưới, những người sản xuất đồ kim khí tập trung vào việc sản xuất các thỏi kim loại và hàng loạt vật dụng khác nhau. Vì vậy bằng chứng vùng trung Thái Lan cho thấy một phương tiện mà việc tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất cộng đồng chuyên môn hóa có thể được tăng cường không phải bằng quá trình hình thành hệ thống thứ bậc mà bằng chính các cộng đồng riêng rẽ chuyên môn hóa sâu hơn vào các thị phần riêng biệt của thị trường. Loại phân hóa bên thông qua việc nhấn mạnh vào một cụm thị trường có thể tránh được nhu cầu kiểm soát hành chính hoặc một nền kinh tế chỉ huy. Như Johnson đã nói “…việc tạo lập một tổ chức xã hội bên thiết yếu…làm giảm đi tính phức hợp điều chỉnh các mối quan hệ xã hội…”
Các cơ chế phân phối hàng hóa trong giai đoạn tiền nhà nước ở vùng hạch ĐNA vẫn còn chưa được biết rõ. Việc tổ chức sản xuất độc lập linh hoạt và giải tập trung cũng như việc thiếu bằng chứng kiểm soát chặt chẽ mức độ tiêu thụ của tầng lớp tinh hoa chóp bu lại tỏ ra là sự phân phối giải tập trung và đa mô hình. Các chiến lược này có thể giống với các chiến lược đã được thảo luận trong các công trình của Bowie (1992). Stark (1992) cũng đã mô tả sự phân phối hàng dệt ở bắc Thái Lan và gốm ở Luzon một cách riêng rẽ theo những bối cảnh dân tộc học lịch sử mà ở đó có nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau trong các cộng đồng đã chuyên môn hóa. Việc phân phối hàng hóa qua các liên hệ bên, phức hợp với nhiều dạng thức có thể là một chức năng tích hợp theo bình tuyến vùng đa nguyên văn hóa rộng lớn hơn.
Khung cảnh linh hoạt trong phân hóa xã hội tiền sử
Giống hệt như các khu vực khảo cổ học khác trên thế giới, việc xác định các nhóm tinh hoa xã hội là một chủ đề chính trong nghiên cứu khảo cổ học ĐNA trong vòng trên một thế kỷ qua. Một số nghĩa địa tiền sử là đối tượng của các cuộc khai quật và thường được nhận thức thông qua mô hình tiến hóa. Các nhà khảo cổ học ĐNA đã thử đề xuất những chiến lược khác nhau để nhận thức các bằng chứng về những vị thế khác nhau trong số chủ nhân của các ngôi mộ. Được gợi hứng từ Peeples và Kus (1977), Tainer (1978) và những người khác nữa, một số nhà khảo cổ học đã đi tìm bằng chứng về các bước phân hóa thứ bậc thừa kế - sự phân cấp được coi là không theo ý muốn – như là một thứ chìa khóa để phát triển phức hợp xã hội (Peeples và Kus 1977). Cho đến nay, các kết quả đạt được không đủ sức thuyết phục, thậm chí đôi khi còn mâu thuẫn với nhau. Tình trạng lộn xộn trong việc tìm hiểu các đặc trưng cấu trúc của xã hội tiền sử phần nào tùy thuộc vào các mẫu nghiên cứu sẵn có thì vẫn còn nhỏ nhoi; các nghĩa địa được khai quật còn rất khiêm tốn. Hơn nữa các công cụ lý thuyết được sử dụng để phân tích cũng không đầy đủ. Bốn di chỉ đã được khai quật công phu ở Thái Lan cho thấy tầm quan trọng của các trầm tích văn hóa nghĩa địa tiền sử cùng với một số phân tích chi tiết đã được công bố đủ đề bình luận về các bằng chứng phân cấp xã hội, đó là Ban Kao, Non Nok Tha, Ban Na Di, và Khok Phanon Di.
Nghĩa địa Ban Kao ở trung tây Thái Lan có niên đại vào nửa đầu thiên niên kỷ II TCN và đã được khai quật trước khi phân biệt được sự phân cấp các hệ thống xã hội mà khảo cổ học lý thuyết của Mỹ rất chú trọng. Sorensen (1967) đã nhận thấy rằng các mộ được phân biệt bởi đồ tùy táng có từ một đến hai mươi di vật, và ông cũng đã thảo luận về việc lựa chọn, xếp đặt và xử lý các đồ tùy táng đó. Sự khác biệt về tài sản và việc xử lý đồ tùy táng đã cắt qua tuổi tác, giới tính, trong đó một số mộ trẻ em lại có số lượng đồ tùy táng phong phú hơn một số mộ người lớn. Một số mộ cũng có vẻ rất khác thường. Mộ số 10 là một người đàn ông 50 tuổi có một tập hợp đồ tùy táng khiến cho Sorensen nghĩ rằng đây là mộ của một pháp sư. Điều gây ấn tượng cho Sorensen hơn bất kỳ một bằng chứng nào khác về những khả năng khác biệt vị thế chính là “mức độ tùy tiện khác thường và tính chất không tuân theo nghi thức” của các ngôi mộ “được bày biện có vẻ cá nhân của chúng” Sorensen (1967: 74) và “sự vắng mặt của những luật tắc chặt chẽ trong táng thức” (ibid, 141).
Nghĩa địa Non Nok Tha được định niên đại sơ bộ vào các thiên niên kỷ I – II TCN. Người khai quật (Bayard 1984) đã kết luận có hai nhóm liên quan trong nghĩa địa này căn cứ vào sự khác biệt về phân bố của các loại hình đồ gốm nhất định. Sau đó Bayard đã nghiên cứu sự khác biệt giữa các ngôi mộ theo mức độ giàu nghèo tương đối căn cứ vào số lượng hiện vật từ 0 đến 32. Đáng lưu ý là Bayard đã sử dụng một ranh giới võ đoán là 14/15 hạng mục cho một mộ để phân biệt giữa giàu và nghèo bằng cái mà ông thừa nhận là tính liên tục từ “giàu” đến “nghèo”. Cả hai nhóm liên quan này đều có mộ giàu và mộ nghèo, nhưng một nhóm có tỷ lệ mộ giàu lớn hơn. Bayard cho rằng mô thức phân chia đồ tùy táng khác nhau như vậy chính là bằng chứng thể hiện “sự phân cấp khác thường”. Nhóm giàu rõ ràng có nhiều đồ ngoại nhập, bao gồm cả đồ kim loại, mặc dù tập hợp này thực sự không có giá trị cao. Dựa vào sự xuất hiện một số mộ trẻ em giàu có nên ông đã gộp hiện tượng này vào tập bằng chứng về một vị thế được thừa kế, chứ không phải là một vị thế do cá nhân đạt được. Có một khuynh hướng rõ ràng là ở một số vị trí của nghĩa địa có tỷ lệ nhóm liên quan cao hơn.
Những người khai quật Ban Na Di (Higham and Kijngam 1984) đã tập trung vào chiến lược nghiên cứu mức độ phân cấp xã hội khác nhau. Họ so sánh từ hai bộ phận mộ cách nhau khoảng 25 m đã được khai quật, trước hết theo tiêu chí có sự hiện diện của các hạng mục nhập khẩu, chẳng hạn như sò ốc biển, kim loại. Các hiện vật này được coi là “bảo bối nguyên thủy” ngoại nhập, và chứng tỏ về sự “tiêu phí năng lượng cao hơn” của chủ nhân của các ngôi mộ có các đồ tùy táng ấy. Và chủ nhân của các ngôi mộ có chứa các loại đồ tùy táng ấy được coi là “khá giàu có” và đầu tiên được phát hiện tại một vị trí của khu nghĩa địa đã được khai quật... Mô thức đó kéo dài suốt quá trình sử dụng nghĩa địa mà Higham và Kijngam cho là vào khoảng 800 – 1000 năm. Họ kết luận rằng: “bằng chứng này hoàn toàn ủng hộ cho sự hiện diện của tình trạng bất bình đẳng cha truyền con nối…một trình độ phân cấp vừa phải theo huyết thống…” (Higham and Kijngam 1984). Báo cáo của họ đã không so sánh những khác biệt về số lượng đồ tùy táng giữa hai mẫu nghĩa địa đã được khai quật, có thể là do việc thực hiện các táng thức đã không được hoàn thiện.
Nghĩa địa Khok Phanom Di (2000 – 1500 TCN) là một di chỉ ven biển rộng khoảng 5 ha ở trung Thái Lan đồng thời với di chỉ Ban Kao. Những người khai quật đã lý giải về hiện tượng đa số các mộ đều có huyệt mộ từ 10 x 10m là thuộc về những tập hợp đại diện cho những khu vực mai táng tách biệt của những nhóm họ hàng khác nhau. Họ còn đề nghị phân lập thêm một loạt thế hệ mộ cắt qua các tập hợp này. Rất đáng lưu ý là các bằng chứng đã cho thấy rõ vật tùy táng giữa các tập hợp đó là khác nhau theo thời gian, bằng một tập hợp riêng biệt, các mộ giàu có lại được tiếp nối bởi các mộ bình thường hoặc nghèo. Một số thảo luận trước đây về diễn tiến của táng thức đã ám chỉ bước chuyển tiếp tới một thời đại xuất hiện các vị thế được thừa kế vào giai đoạn muộn của trật tự này. Điều đó đã cho thấy có sự thay đổi trong nhận thức của các chủ nhân khu nghĩa địa. Các mộ giai đoạn muộn bao gồm các trẻ em giàu có và một mộ phụ nữ ở độ tuổi 30 đặc biệt giàu có (mộ 15). Higham cho rằng sự thay đổi trong việc bài trí mộ như vậy gợi ý về một “khu vực nghĩa địa giành riêng” cho người giàu. Bằng chứng khác cho thấy những tương liên “kiểu thủ lĩnh địa”, bao gồm quá trình chuyên môn hóa về nghề nghiệp, các loại hàng hóa uy tín có thể tượng trưng cho vị thế, mức tiêu thụ năng lượng khác nhau, sự tập trung hóa và quy mô di chỉ khác nhau. Tuy nhiên tiếp theo mộ giàu số 15, các mộ kế tiếp không quá giàu có đến mức như vậy. Vì thế không có bằng chứng cho thấy sự duy trì các khác biệt rõ ràng về vị thế trong các thế hệ tương lai.
Các cách xử lý tắt, quá đơn giản này không thể đánh giá đúng được các chi tiết của các dữ liệu của từng di chỉ, mức độ phong phú của các cách tiếp cận và sự phân tích của mỗi học giả, các vấn đề về khả năng áp dụng các mô hình đã được sử dụng, hoặc các vấn đề lấy mẫu và xây dựng trật tự niên đại. Tuy nhiên từ các tóm tắt kiểu tổ kén được sử dụng để gây ấn tượng với các mô thức phân tích táng thức quá khứ mà tôi muốn có một số xem xét và đề xuất một tâm điểm chú ý mới.
Rõ ràng là mỗi nghĩa địa đều phản ánh một truyền thống táng tục liên quan rộng rãi đến cách hung táng nằm ngửa kèm theo các đồ tùy táng thường bao gồm cả các hiện vật gốm. Tuy nhiên mỗi nghĩa địa đều khác nhau về nhiều khía cạnh nổi bật, và các khác biệt về cách tiếp cận phân tích cũng phản ánh những khác biệt này ở một mức độ nào đó. Dữ kiện thu được đã không phù hợp với các mô hình được đề xuất để xem xét những mức độ phân cấp xã hội khác nhau, và vẫn tồn tại một vấn đề không rõ ràng là có thể sử dụng bất cứ một cách tiếp cận nào để phân tích các nghĩa địa đó cũng đều ổn cả. Rõ ràng đây không phải là những xã hội có lối sống bình quân vì các ngôi mộ đã không được xử lý giống như nhau, hơn nữa các mộ đơn lại rất khác biệt về số lượng và kiểu loại đồ tùy táng, trong khi đó mức độ khác biệt xã hội trong các nghĩa địa lại thường mơ hồ, không rõ ràng, và mỗi nghĩa địa lại có cách thể hiện khác nhau.
Sự khác biệt giữa các nghĩa địa cho thấy các mô hình đã có và việc áp dụng vào nguồn dữ liệu ĐNA cần phải được xem xét lại. Việc nỗ lực tập trung phân tích đánh giá sơ bộ sự hiện diện và mức độ phân cấp (chẳng hạn như vị thế xã hội bình đẳng, tự đạt được hay được thừa kế) đều không đánh giá đúng tính chất phức hợp của dữ kiện. Vẫn còn một vấn đề khác chưa được biết rõ là liệu mức độ giàu có khác nhau có phải được phân biệt dựa vào số lượng các đồ tùy táng hoặc sự có mặt hay vắng mặt của những hiện vật không phải của địa phương có thực sự nói lên sự thay đổi trong một hệ thống phân cấp chính thức hóa hay không. Theo tôi, tất cả các di chỉ được thảo luận ở trên đều phù hợp với các phán đoán của Bayard (1984: 108) khi ông bàn về sự phân nhỏ khác thường tại Non Nok Tha): “tầng lớp cực giàu được Peebles và Kus xác định, chủ yếu bao gồm những người đàn ông đã trưởng thành có vẻ như không tồn tại. Hơn nữa cũng không có bằng chứng về sự phân cấp theo nghĩa chặt chẽ được Peebles và Kus sử dụng trong nghiên cứu của họ…các ranh giới phân định giữa các đẳng cấp là không rõ ràng, cũng không hề có các phân biệt về biểu tượng, gia huy của các đẳng cấp khác nhau”. Các cách tiếp cận nhằm nhận thức rõ ràng sự phân biệt xã hội có vẻ không thích hợp với các dữ liệu thu được. Nhưng như vậy không có nghĩa là không hề có sự tồn tại của một loại phân cấp vị thế xã hội nào đó; vấn đề là ở chỗ liệu có tồn tại hay không tồn tại một cách tiếp cận phân tích xã hội tạo dựng được một khung khái niệm thích hợp cho việc nhận diện các xã hội vận hành như thế nào.
Điều gì được coi là nổi bật về các nghĩa địa tiền sử Thái Lan nếu chúng ta tạm gác một loại lập trường lý thuyết nào đó sang một bên? Vượt khỏi một thực tế là mỗi nghĩa địa dường như đều là một phần của truyền thống táng thức thông dụng đã được đề cập ở trên, tôi cho là có bốn đặc trưng nổi bật sau:
1) Đặc trưng nổi bật đầu tiên là đồ tùy táng của các mộ ở mỗi vị trí thì đều khác nhau theo cung cách hoàn toàn nhất quán với sự phát triển liên tục chứ không phải theo từng bước một. Các mộ giàu thì thực sự là giàu vì chúng ở một đầu của chuỗi liên tục đó. Mức độ giàu có tăng tiến toàn diện theo thời gian ở chỗ các mộ ở cuối phổ giàu có thể có nhiều hiện vật hơn với nhiều kiểu loại hiện vật hơn, đặc biệt là sau 1000 năm TCN, nhưng lại không nhất thiết có sự khác biệt rõ rệt về của cải giữa các nhóm tăng theo thời gian. Trên phương diện đó, tính liên tục được tiếp nối đến giai đoạn Ban Chiang muộn, một trầm tích văn hóa nghĩa địa duy nhất được khai quật tại Thái Lan đã kéo dài đến đầu thiên niên kỷ I SCN, và gắn liền với bằng chứng lịch sử sớm nhất về khu vực và về các nhà nước sớm nhất. Nói cách khác, không có những bằng chứng cho thấy có sự xuất hiện của một điều gì đó chẳng hạn như một nhóm lớn hơn, rõ ràng là nghèo hơn, trái ngược với một nhóm nhỏ hơn, rõ ràng là giàu có hơn bằng một hố ngăn cách dứt khoát ở giữa, mà đó lại chính là tiêu chí đã được Peebles và Kus (1977) đề xuất cho việc phân cấp nhất quán với một thủ lĩnh địa.
2) Đặc trưng nổi bật thứ hai của các nghĩa địa là ở chỗ các tiêu chuẩn thể hiện sự phân hóa xã hội khác nhau ở mỗi nghĩa địa. Ví dụ như tôi cho rằng những khác biệt trong sự xuất hiện của các hiện vật ngoại nhập ở Ban Na Di và Non Nok Tha có thể phản ánh rất rõ những khác biệt văn hóa và vì vậy mà tập hợp các biến cố hoặc các tiêu chuẩn được sử dụng để so sánh các mộ ở một di chỉ sẽ không nhất thiết phải phù hợp với tất cả những di chỉ khác trong vùng. Quan sát này phù hợp với quan sát ở phần trước về một khuynh hướng rõ ràng hướng đến các văn hóa địa phương hóa cao tại ĐNA được biểu hiện trong các văn hóa vật chất địa phương hóa và quá trình địa phương hóa văn hóa vật chất này được phản ánh trong các hệ thống giá trị địa phương hóa liên quan đến táng tục và vị thế xã hội. Một hệ luận khác của quan sát này thể hiện ở chiều góc vị thế xã hội riêng, chẳng hạn như đầu vào của các sản phẩm nhập khẩu, có thể chỉ phù hợp trong từng tình huống, chứ không phải cho mọi trường hợp.
3) Đặc trưng nổi bật thứ ba của các nghĩa địa tiền sử này là các mộ trẻ em thường giàu hơn các mộ người lớn. Chúng ta không thể cho rằng điều đó ngụ ý “vị thế cha truyền con nối không theo ý muốn” (Peebles and Kus 1977). Mô thức này cũng có thể đại diện cho một thứ tình cảm phụ mẫu hoặc thể hiện vị thế bắt buộc của cha mẹ trong một khung cảnh mà vị thế là một điều kiện để thương thảo cộng đồng. Một mẫu mộ của các cá nhân ở độ tuổi niên thiếu có lẽ cũng giúp cho việc xem xét vấn đề này một cách chi tiết hơn.
4) Đặc trưng nổi bật thứ tư là các táng thức thông thường nổi lên như là một biệt lệ không phải là nhất thiết liên quan đến sự giàu có, hoặc có thế lực chính trị rõ ràng, mà còn liên quan đến quá trình cá thể hóa được Sorensen lưu ý trong trường hợp Ban Kao. Các mộ độc đáo này thường cho thấy cung cách xử lý rất khác biệt: Mộ BC B20 với một tập hợp các hiện vật độc nhất bằng xương, và BC B23 với tập hợp những viên đạn bi, bôn, vòng tay và một chiếc nồi. Di chỉ Ban Tong liền kề có một mộ đàn ông với một tập hợp hơn 17 bộ xương hàm hươu. Các mộ có các hiện vật sản xuất bằng kim loại, vì vậy có thể là mộ của những người chế tạo kim loại, đã được phát hiện tại Non Nok Tha (Bayard 1980) và các di chỉ thuộc thung lũng Khao Wong Prachan miền trung Thái Lan (Pigott and Natapintu 1988; Pigott et al. 1995) cũng như ở Việt Nam (Hà Văn Tấn 1991). Những mộ táng này đã chỉ ra rằng hành động của một cá nhân có thể đã góp phần mình vào quá trình phân hóa vai trò của họ liên quan đến những người khác trong xã hội. Thực tế phân hóa mộ ở Ban Chiang, Ban Kao, Ban Na Di và Non Nok Tha đã không được xác định bằng khuôn khổ của sự bài trí độc đáo gắn liền với mức độ giàu có khác thường (tức là một mộ rất giàu trong một địa phương riêng biệt thể hiện địa vị của một thủ lĩnh hoặc là người thân cận với thủ lĩnh).
Nói cách khác, Khok Phanon Di đã đưa ra được những bằng chứng rõ ràng nhất được biết ở Thái Lan liên quan đến một mộ táng tiền sử được phân biệt bởi một số lượng lớn đồ tùy táng và các bài trí đặc biệt của ngôi mộ. Mộ 15 của một phụ nữ được táng trong một huyệt mộ có kích cỡ khác thường (sâu 1m, dài 3m) được đặt theo một tư thế và một hướng khác với các mộ sớm hơn. Ngôi mộ này còn được bày biện thêm bằng 8 – 10 đồ vật bằng gốm, hàng chục nghìn hạt chuỗi có lẽ được khâu thành một chiếc áo khoác. Tuy nhiên rất đáng lưu ý là trong số các đồ tùy táng còn có rất nhiều vật dụng để làm gốm, bao gồm hòn kê, các viên đá đánh bóng áo gốm, và những phôi gốm chưa nung. Vì vậy, và vì nhiều nguyên do khác nữa mà bà được diễn giải là một thợ gốm có đẳng cấp cao (Higham 1989b: 87). Dường như ngôi mộ này đã bổ sung vào số đồ tùy táng phong phú được đo bằng số lượng, loại hình và chất lượng của đồ tùy táng lại càng khuyếch đại mô thức phân hóa chức năng kinh tế và xã hội như đã được gợi ý từ các di chỉ khác. Bằng chứng xã hội từ Khok Phanom Di và di chỉ liền kề có niên đại muộn hơn là Non Nor đã chỉ ra một khuynh hướng không bền vững hoặc xảy ra sau, hướng đến sự cố kết của giới tinh hoa trong xã hội tiền sử đó. Điều này cho thấy sức ép giao tiếp vô hướng có thể đã sản sinh ra những phát triển độc đáo sau đó của Khok Phanom Di lại không thuộc về một trình độ hoặc một bản chất thúc đẩy xã hội tiến tới một sự thay đổi cơ bản, đó là một hệ thống thứ bậc thống nhất, có kiểm soát. Điều đó dường như đã sản sinh ra một thứ chớp lóe thành công, không bền, một tuyên ngôn xã hội trong một giai đoạn ngắn ngủi của cả một tiến trình táng thức Khok Phanom Di.
Ngoại trừ những đòi hỏi về một trật tự “thứ bậc cha truyền con nối” trước đó trong các nghĩa địa này, hiện giờ các dữ liệu dường như đã đưa ra một bằng chứng về những cơ sở cho quá trình phân hóa xã hội trong các nghĩa địa tiền sử Thái Lan này. Tuy nhiên theo tôi, nếu chỉ kết luận rằng phương thức đạt được vị thế xã hội trong các cộng đồng tiền sử này không do thừa kế thì chúng ta đã không đánh giá được đúng tính chất phức tạp của hệ thống dữ liệu thu được. Thay vào đó, tôi cho rằng các nghĩa địa tiền sử Thái Lan rất phù hợp với sự tồn tại của một hệ thống vị thế và quá trình phân hóa xã hội đa phương, đa diện, phức hợp và linh động. Các thành quả kinh tế cá nhân và các chức năng xã hội cũng như sự khác biệt về mức độ giàu có của từng gia đình và có lẽ cả thứ hạng của thị tộc, tất cả đều vận hành đồng thời, vì vậy mà đều kết hợp với các yếu tố kế thừa cũng như sự thành đạt do các nỗ lực cá nhân. Hơn nữa tôi cũng cho rằng những phương cách để đạt được vị thế xã hội là đa chiều và có thể khác nhau ở các tiểu văn hóa mà của cải chỉ là một thành tố của sự phân hóa xã hội. Các phương cách này cũng có thể được thỏa thuận và được ấn định giữa các cá nhân. Tôi đề xuất hệ thống đa diện này một phần vì nó có thể phù hợp với các bằng chứng dân tộc học và lịch sử ĐNA sẽ được tóm tắt dưới đây.
Mức độ xung đột bạo lực liên cộng đồng thấp
Một vấn đề khác liên quan đến giai đoạn tiền sử là có rất ít bằng chứng về nguồn xung lực xã hội lớn định hướng vào xung đột bạo lực liên nhóm. Đâu đó tôi đã cho rằng thời đại đồ đồng ĐNA lục địa tương đối hòa bình so với các vùng khác như Lưỡng Hà hoặc triều đại nhà Thương bên Trung Quốc, nơi khởi nguồn của khái niệm truyền thống “thời đại đồ đồng” (White 1982, 1988). Quan sát của tôi được thực hiện từng phần vì hầu hết đồ đồng tiền sử dường như đều là các đồ trang sức cá nhân và là các vật dụng thiết yếu trong phạm vi làng, và chỉ có một ít đồ đồng có thể được phân loại một cách rõ ràng là các vũ khí (riêng miền bắc Việt Nam dường như phát triển hơi khác với nhiều bằng chứng hơn về các vũ khí đồng sau 1000 năm TCN). Quan điểm này đã bị phê phán (Higham 1984), nhưng người phê phán lại đặt định vấn đề từ một khung bất phân và nhận thức một cách hẹp hòi. Vấn đề không phải là liệu có tồn tại một vài loại vũ khí hoặc các cuộc xung đột nào đó hay không. Vấn đề là ở chỗ chiến tranh là một trung tâm điểm tổ chức đối với các động thái của xã hội đã thúc đẩy việc sản xuất kim loại và sự tiến hóa của kỹ nghệ cùng với việc tiêu thụ một năng lượng xã hội to lớn vào các chiến lược tấn công và phòng thủ trong cả lĩnh vực xã hội (chẳng hạn như việc xây dựng một quân đội thường trực), và lĩnh vực vật chất (xây dựng những hệ thống phòng thủ bền vững). Tất cả các xã hội đều phải giải quyết các cuộc xung đột và thù địch liên nhóm. Thù hận và tục săn đầu người có lẽ vẫn là các phương cách mô tả người Nagas (Jacobs et al. 1990:138), chắc chắn có thể đặc trưng hóa cho các xã hội tiền sử được thảo luận ở phần này. Việc đánh giá toàn bộ các bằng chứng khảo cổ học, bao gồm cả tính chất khan hiếm của các loại vũ khí được xác định rõ ràng là sử dụng để chống lại con người, các hình thức chấn thương xương do những tai nạn hàng ngày (Douglas 1995), và tình trạng thiếu vắng bất cứ bằng chứng nào về các công trình phòng vệ như các thành đất chẳng hạn, cho đến giai đoạn sau khi xuất hiện đồ sắt – đã cho thấy các xã hội tiền sử ở vùng hạch ĐNA rất it quan tâm đến việc phát triển khả năng quân sự của mình.
Tại sao lại có thể như vậy được? Việc kiểm soát các nguồn lực đã được coi là hợp lý đối với sự phát triển các khả năng phòng thủ và tấn công. Trong khi một số nguồn lực kinh tế như đồng, muối (nhưng đất nông nghiệp thì ít hơn) tạo thành hạt nhân trong các vùng riêng biệt, nói chung không quá tập trung đến mức bất cứ làng nào cũng có thể bị cắt rời ra khỏi một loại sản phẩm thiết yếu hoặc đáng thèm muốn nếu như người ta thù địch với các làng khác. Chúng ta đều biết rằng ở trung Thái Lan một số cộng đồng thời đó đều sản xuất đồ đồng. Trong khi có thể có sự cạnh tranh giữa các cộng đồng trong việc sản xuất và phân phối kim loại, nhưng vẫn chưa có bằng chứng để kết luận về sự xung đột liên cộng đồng. Thực tế tôi cho rằng các trao đổi dài hạn liên vùng mà không có bằng chứng về tập trung hóa chính trị đi kèm hoặc sự kiểm soát hàm ý một bối cảnh ít chiến tranh. Giải pháp tranh chấp có thể nhấn vào các cơ chế chẳng hạn như quá trình ra quyết định có tính chất nghi lễ và liên tục đã được Johnson (1982) thảo luận.
Sự phát triển xã hội trong giai đoạn Tiền sử muộn
Các bằng chứng vừa được xem xét ở trên đã cho thấy một hệ thống xã hội tích hợp, nhưng lại phân hóa theo chiều ngang với những động thái kinh tế và xã hội linh hoạt được phát triển ở Thái Lan trong nhiều thiên niên kỷ trước trung kỳ thiên niên kỷ I TCN. Một cơ sở khả dĩ đảm bảo thành công dài hạn của hệ thống này chính là chiến lược kiếm sống địa phương hóa xác thực và có cơ sở rộng rãi (Higham and Kijngam 1979; White 1995). Việc canh tác lúa nước ở những vùng trung gian dọc theo các hệ thống sông ngòi đã tạo dựng cơ sở cho việc sản xuất nguyên vật liệu vì đông bắc Thái Lan trước hết do những người trồng lúa tới định cư vào thiên niên kỷ IV TCN (White 1995). Tôi cũng đã từng cho rằng hoạt động canh tác lúa nước ở ĐNA được tiến hành thuận lợi nhất trong những đơn vị sở hữu đất nhỏ mà hộ gia đình là một đơn vị tự nhiên vì thao tác trên một môi trường vĩ mô thân thuộc trong vòng nhiều năm liên tiếp trên những mảnh đất riêng là cần thiết để sản xuất ra những loại hoa màu tốt nhất (Geertz 1963). Tích hợp xã hội theo chiều ngang và việc sản xuất thực phẩm bền vững, giải tập trung hóa song hành với nhau đã được Johnson hết sức cổ vũ. Ông cho rằng “tính phức hợp quyết định trong phạm vi tổ chức kiếm sống, ngược lại, luôn gắn liền với tính chất có thể tiên đoán về các nguồn…và tiềm năng của hệ thống thứ bậc kèm theo [tức là hệ thống xã hội cấu trúc mạng] (White 1995) trực tiếp liên quan đến khả năng dự báo các nguồn. Đặc biệt Johnson (1982: 403) đã ngụ ý rằng ông trông chờ bước ra quyết định (có thể liên quan đến nhịp độ biến đổi chính trị?) trong các hệ thống xã hội với việc ra quyết định liên tiếp (tức là tích hợp ngang) sẽ bị chậm.
Như đã lưu ý ở trên, bằng chứng khảo cố học từ giai đoạn tiền sử muộn tuy thưa thớt, nhưng vẫn gợi lên rằng các mô thức cư trú trong hệ thống sông Mun và sông Chi thuộc đông bắc Thái Lan vào giữa thiên niên kỷ I TCN đã trải qua những biến đổi để tiến tới xuất hiện các khu cư trú có hào lũy khác nhau. Bằng chứng này được lý giải sơ bộ là một phản ứng đối với sự khai thác các khu vực có những thay đổi bất thường ngày càng tăng trong việc tiên liệu các nguồn vì sự thay đổi của lượng mưa (Welch and McNeill 1991). Vì vậy, theo Johnson điều này có thể gợi ý rằng các yếu tố thứ bậc tối thiểu là trong lĩnh vực qui mô cư trú và có lẽ cả trong tổ chức lao động nữa, đều được đưa vào vùng này, trong giai đoạn này như là một phản ứng lại với những sức ép giao tiếp vô hướng bị thúc đẩy bởi tính chất không thể dự liệu ngày càng tăng trong việc tìm được các nguồn sinh kế. Tuy nhiên các yếu tố thứ bậc đã không biến mất khỏi hệ thống xã hội ĐNA, mà vẫn là một hệ thống cơ bản đối với các quỹ đạo phát triển vùng như chúng ta sẽ xem xét dưới đây.
II. CẤU TRÚC MẠNG TRONG DÂN TỘC HỌC LỊCH SỬ ĐNA MUỘN
Trong khi các bằng chứng khảo cổ học từ giai đoạn tiền sử trực tiếp thể hiện việc hình thành các nhà nước trong vùng còn rất thưa thớt thì việc nhận thức về các kết quả tiếp theo của các giai đoạn lịch sử có thể đặt bằng chứng khảo cổ học tiền sử vào một viễn cảnh rõ ràng hơn. Một cái nhìn đầy đủ về các văn liệu dân tộc học, dân tộc học lịch sử, lịch sử có liên quan không phải là công việc của phần này. Tôi chỉ đưa ra một số ví dụ chọn lọc để chứng tỏ khái niệm mô hình mạng được đề xuất cho giai đoạn tiền sử đó nối tiếp với giai đoạn của các nhà nước lịch sử sớm và cả thời gian gần đây nữa.
Phương thức đa nguyên văn hóa trong khung cảnh ĐNA muộn
Tính chất đa dạng ngôn ngữ dân tộc rõ ràng là một đặc trưng nổi bật của ĐNA với một chiều sâu thời gian là một thiên niên kỷ hoặc hơn thế. Tuy nhiên việc xem xét các văn liệu lịch sử dân tộc học và lịch sử cho thấy phương thức đa nguyên văn hóa vùng là một thứ lan tỏa rộng khắp và thể hiện một cách phức tạp chất lượng có thể được gắn một cách đơn giản cho quá trình di cư của các nhóm từ phía nam và tây nam Trung Quốc vào khoảng một nghìn năm hoặc hơn một nghìn năm trước. Phương thức đa nguyên văn hóa không chỉ trùng khớp với các phân chia ngôn ngữ, mà còn có thể thấy rất rõ trong các nhóm ngôn ngữ dân tộc (Graves 1994).
Tính chất tộc thuộc và tính đa dạng văn hóa được các quốc gia sớm tại ĐNA thừa nhận. Wolters (1982,52) thậm chí còn tuyên bố rằng một đặc trưng nổi bật nhất của giai đoạn lịch sử sớm là tính đa dạng văn hóa và tính địa phương hóa cao của nó. Wicks (1992) cũng cho rằng “một trong những biểu hiện đáng chú ý nhất của quá trình địa phương hóa chính là cách thức biểu hiện giá trị rất khác nhau” bắt nguồn từ tính chất đa dạng của các phương tiện và các mức độ lưu hành tiền tệ của các nền kinh tế nhà nước sớm và sự cùng tồn tại của nhiều hệ thống giá trị trong những vùng riêng biệt.
Tính đa dạng văn hóa và tính tộc thuộc được coi là những chức năng cấu trúc và tích hợp trong các nhà nước ĐNA sớm. Các nhóm tộc người được thừa nhận đã lấp đầy các lỗ hổng kinh tế, chẳng hạn như họ đã cung cấp các hàng hóa hoặc các dịch vụ đặc biệt. Người Kui chẳng hạn đã có thể cung cấp sắt cho đế quốc Khmer (Bronson and Charoenwongsa 1986:24). Tính chất tộc thuộc và sự cư chiếm và định cư ở Pagan nhìn chung là trùng hợp và thực sự được luật pháp hóa một cách chính thống (Aung Thwin 1985:90). Sự tiếp cận của các nền hành chính nhà nước vùng hạch với tính đa dạng văn hóa rõ ràng tương phản với cách tiếp cận của Trung Quốc đối với vùng thung lũng sông Hồng, nơi mà người Trung Quốc đã thực thi chủ nghĩa đế quốc về văn hóa với những thành công đáng kể. Việc áp đặt nền văn hóa của nhóm thống trị và đồng hóa các nhóm bị trị khác nhau đã không cho thấy đó là mục tiêu nhà nước chủ yếu ở vùng hạch ĐNA.
Trong khi tính đa dạng rõ ràng về ngôn ngữ tộc người của ĐNA hiện nay có chiều sâu thời gian được biết vào khoảng 1 – 2000 năm trước thì sự hình thành biên giới tộc người trong các giai đoạn lịch sử lại phần nào được coi là một loại bối cảnh cho sự lựa chọn và thao tác trong nền kinh tế chính trị khu vực và không chỉ là một nguồn gốc lịch sử nhất định (Lehman 1967). Ý thức về tính chất linh hoạt ấy của bản sắc tộc thuộc dường như chứa đựng một động cơ chính trị mạnh mẽ.
Các lý lẽ của Graves (1994) về người Kalinga bắc Luzon thuộc Philippines chính là một ví dụ tuyệt vời về sự hình thành các phụ nhóm trong một nhóm ngôn ngữ tộc người duy nhất. Ví dụ này cũng chỉ rõ cách thức mà tính chất đa dạng văn hóa nhóm nội tộc có thể hình thành trong một bối cảnh chính trị vùng lỏng lẻo và một liên minh tập trung với sự chuyên môn hóa kinh tế cộng đồng. Một hệ thống vị thế không chặt chẽ dựa trên nhiều tiêu chuẩn, nơi mà “sự phân hóa vị thế thừa kế chỉ phát triển một cách yếu ớt” thì hiện vẫn còn (Graves 1994; 15). Về tính phù hợp tiềm tàng để lý giải các truyền thống gốm địa phương hóa của tiền sử Thái Lan thì phát hiện của ông về hệ thống thiết kế mẫu gốm lại phù hợp với các vùng xác định về phương diện chính trị. Graves đã quy tính chất khu vực của phong cách thiết kế không chỉ vào các khuôn khổ học hỏi hình thành bởi quá trình nội giao khu vực mà còn là những biểu hiện có chủ đích của người thợ gốm thuộc các bộ phận khác trong vùng. Những người thợ gốm cố tình tránh các mẫu thiết kế của các vùng khác. Graves (1994:48) kết luận rằng: “Trường hợp người Kalinga đã minh họa cho chúng ta thấy rõ các hệ thống xã hội phân ranh giới rất dứt khoát…khi không tồn tại chế độ vị thế hoặc phân biệt chính trị một các rành mạch. Thực tế xã hội này không được các nhà loại hình học khảo cổ đánh giá một cách thấu đáo. Có lẽ họ tin rằng những hệ thống xã hội khác biệt về phong cách, hoặc được tổ chức tốt luôn luôn hàm chứa các loại hình phức tạp của chế độ độc tài”.
Tóm lại cả bằng chứng dân tộc học lẫn lịch sử đều chứng thực cho biểu hiện đa nguyên văn hóa, nơi mà các ranh giới xã hội được xác định bởi những phương tiện xã hội khác nhau có thể hoặc không thể bao gồm những khác biệt về ngôn ngữ. Các nhóm xã hội nhỏ cung cấp phương tiện cho quá trình phân hóa bên và sự tích hợp của xã hội rộng lớn hơn cũng như một bối cảnh cho sự phân cấp linh hoạt và các mối tương liên kinh tế và xã hội linh hoạt không nhất thiết bị kiểm soát bởi một quyền lực được thừa nhận là cao hơn.
Các động thái mạng trong các nền kinh tế bản địa ĐNA muộn
Dù các bằng chứng có sẵn liên quan đến các nền kinh tế bản địa thuộc giai đoạn lịch sử sớm còn thưa thớt và mơ hồ, nhưng dường như vẫn có vẻ là nền sản xuất lương thực và đồ thủ công địa phương hóa trên cơ sở hộ với những cộng đồng chuyên môn hóa sản xuất một số mặt hàng tiếp tục trong một khu vực rộng lớn để đặc trưng hóa các nền kinh tế vùng.
Việc sản xuất lúa, nguồn tài chính chủ yếu của các nhà nước sớm ĐNA trong vùng hạch có lẽ đã kết hợp chặt chẽ những chiến lược tăng cường trong một vài khung cảnh. Có các công trình thủy lợi đi kèm với các nhà nước này, nhưng trình độ xây dựng và quản lý các công trình này của các trung tâm chính trị hoặc chúng cần thiết cho việc sản xuất lúa đến mức nào vẫn còn là một câu hỏi bị bỏ ngỏ. Đối với Ankor và những vùng khác, sản xuất lương thực có thể vẫn được tổ chức bởi các đơn vị hộ với việc quản lý các công trình thủy lợi giải tập trung và có lẽ dựa trên cơ sở cộng đồng (van Liere 1980; Stargardt 1990; Christie 1992). Đối với Pagan, nằm ở một vùng khô hạn thì đầu vào cho một hệ thống thủy lợi phát triển tốt và được điều chỉnh nhiều thì có lẽ đáp ứng được đầy đủ hơn cho các nhu cầu sản xuất lúa gạo (Aung Thwin 1985).
Trong thực tế thì đền đài hoặc hệ thống đền đài là một thể chế thường xuyên được đề cập đến với tư cách là vai trò chủ yếu trong việc phát triển các công trình thủy lợi cũng như trong việc tích lũy và tái phân phối các nguồn lực (Hall 1992:241-2). Người ta có thể cho rằng việc xác lập các hệ thống thứ bậc quy mô vùng bên ngoài các chế độ quan liêu nhà nước (chí ít trong trường hợp Angkor rõ ràng là phát triển kém) đồng thời các nhóm tinh hoa điền sản địa phương lại thể hiện một ví dụ khác về một chiến lược phân hóa bên tại một giao điểm của các sức ép giao tiếp vô hướng. Trong tình trạng này, các thủ lĩnh chính trị cần có những nguồn tài chính ổn định đủ để xây dựng các doanh trại và phục vụ cho cuộc chiến tranh bên ngoài lãnh thổ. Các nhóm tinh hoa xã hội điền sản địa phương rõ ràng không muốn thừa nhận và ủng hộ cho việc tiếp tục sự lãnh đạo có tính chất thể chế vượt khỏi đời sống của các thủ lĩnh thần uy (Wheatley 1979). Vì vậy việc thiết lập một hệ thống thứ bậc song hành bao gồm một tôn giáo khu vực rộng lớn (mà trước đó không có) để ủng hộ về tài chính và hệ tư tưởng cho vị thủ lĩnh và những kẻ kế thừa ông ta có thể được coi là thể hiện một sự đổi mới chính trị theo cấu trúc mạng một cách khôn ngoan.
Thông tin chi tiết về khu vực sản xuất bản địa (chẳng hạn như gốm, muối, vải, kim loại ; Hall 1992:275) luôn thiếu thốn, mặc dù các văn liệu đều ngụ ý về tính liên tục của các phường hội sản xuất kinh tế và trao đổi tiền sử được thừa nhận ở trên: các đơn vị sản xuất theo hộ, việc chuyên môn hóa cộng đồng và hệ thống phân phối chồng xếp nhiều trung tâm đều không được kiểm soát chặt chẽ bởi một nhóm nhỏ các tinh hoa (Wolters 1982:37; Hall 1985:172,322; Wicks 1992; dẫu sao vẫn nên xem Aung Thwin [1985] viết về Pagan để có được một bức tranh khác). Trong khi các trao đổi ngoài vùng (ở những mức độ khác nhau) là đối tượng kiểm soát của các nhóm tinh hoa thì thương mại nội địa chỉ “thường xuyên được giám thị” sơ bộ để hạn chế các tích lũy thặng dư (Wicks 1992:310). Đối với trường hợp Angkor, Hall (1985:172,322) đã lưu ý rằng các hệ thống chợ bản địa không tập trung hóa hoặc tổ chức theo hệ thống thứ bậc bởi nhà nước hoặc một nhóm tinh hoa thương mại nào. Hall tuyên bố rằng các thương nhân “kiểm soát” các mạng lưới – những phương tiện mà nhà vua và nhà chùa sử dụng để có được các hàng hóa. Tuy nhiên hình như Hall cũng ngụ ý rằng các thương nhân kiểm soát đầu vào các mạng lưới thông qua các nhóm tinh hoa chứ không nhất thiết phải là sự trao đổi giữa các khu vực cư trú.
Có rất ít thông tin cụ thể về việc sản xuất và phân phối các hàng hóa thủ công, nhưng dựa vào các nguồn thông tin khác nhau (Suchitta 1983; Hall 1985, 1992; Bronson and Charoenwongsa 1986:13; Bowie 1992; Christie 1992; Wicks 1992), thì một kịch bản có thể đi kèm (tiếp theo khái niệm của Earle đã được thảo luận trong Brumfiel and Earle 1987) các công xưởng hoặc các nghệ nhân thuộc quyền của thũ lĩnh đã sản xuất ra một số sản phẩm cho hoàng gia, chẳng hạn như các loại vải vóc tinh xảo hoặc những tác phẩm điêu khắc mang tính tôn giáo. Tuy nhiên các cộng đồng chuyên môn hóa không bị cai quản, không bị kiềm chế cũng đồng tồn tại, sản xuất cho cả nhóm tinh hóa lẫn những khách hàng địa phương cả ở các làng riêng rẽ hoặc những khu vực dân cư đô thị. Các nhóm tinh hoa tiếp cận được với các sản phẩm của các cộng đồng chuyên môn hóa độc lập thông qua các trung gian cũng như các cơ chế cống nạp và thuế. Một hệ thống như vậy có thể giúp duy trì và thậm chí kích thích cộng đồng về cả năng suất lẫn quá trình phân hóa kinh tế vùng.
Các hệ thống sản xuất và phân phối hàng hóa đa mô hình chú trọng đến đơn vị hộ và chuyên hóa cộng đồng cũng đặc trưng cho các giai đoạn muộn sau này. Mô tả của Bowie (1992) về đặc điểm phân phối vải đa mô hình ở bắc Thái Lan thế kỷ 19 đã đem đến một ví dụ tuyệt vời về hệ thống sản xuất và phân phối hàng thủ công đa dạng, đa trung tâm dựa trên cơ sở cộng đồng và đơn vị hộ trong khung cảnh của một của một quốc gia. Những công đoạn sản xuất khác nhau (chẳng hạn như trồng bông, chải bông, xe sợi, dệt vải, nhuộm và may) có thể thực hiện bằng nhiều dạng kết hợp của cả môi trường phân tán lẫn môi trường tập trung trải từ các hộ riêng lẻ trong môi trường làng đến các vùng có một số làng chuyên môn hóa những mặt hàng đặc biệt. Việc phân phối các thành phẩm theo những công đoạn khác nhau có thể được thực hiện bằng trình tự sau: từ các thợ thủ công đến các thương nhân buôn bán bằng thuyền đến người chào hàng rồi đến người sản xuất. Những người sản xuất, chẳng hạn như các thợ nhuộm lưu động cũng có thể đến các làng của người tiêu thụ và thực hiện công việc chuyên môn của họ cả khi đi xa nhà.
Việc sản xuất các sản phẩm cho nhóm tinh hoa (chẳng hạn như cung cấp tơ lụa cho giới quý tộc) thì phải chuyên môn hóa cao hơn với số lượng ít hơn, nhưng có tay nghề cao và lưng vốn khá. Vì vậy tơ lụa có giá trị uy tín cao hơn và đắt hơn, nhưng việc sản xuất và phân phối mặt hàng này cũng có nhiều mô hình. Một số làng chuyên sản xuất tơ lụa, nhưng mặt hàng này cũng được các tù binh chiến tranh, các nô lệ và thậm chí cả thành viên của giới quý tộc làm tại cung đình. Cống vật và lao động nô lệ là những phương tiện bổ sung cho khu vực thương mại, nhờ đó mà đội ngũ quý tộc có được các mặt hàng dệt cao cấp. Vì thế chuyên môn hóa có kiềm chế đã cùng tồn tại, nhưng lại không thay thế được cho chuyên môn hóa cộng đồng, thậm chí ngay cả trong việc sản xuất những sản phẩm tinh xảo.
Tôi cho rằng mô thức về các mức độ phân hóa khác nhau trong phạm vi chuyên môn hóa hộ/cộng đồng và một hệ thống phân phối đa mô hình với sự chuyên môn hóa có kiềm chế ở mức độ nhất định (có lẽ phần nhiều là để đảm bảo quyền tiếp cận cho giới tinh hoa hơn là việc kiểm soát các loại hàng hóa, sản phẩm uy tín) là loại kịch bản cần được hình dung cho sự phát triển của việc chuyên môn hóa thủ công trong các giai đoạn tiền sử và lịch sử của vùng hạch ĐNA lục địa.
Vị thế xã hội linh động trong các bối cảnh ĐNA muộn
Sự phân cấp xã hội được áp đặt một cách chặt chẽ không phải là một đặc trưng nổi bật của các khung cảnh xã hội dân tộc học hoặc lịch sử ĐNA. Dân tộc học ĐNA có đủ các tài liệu tham khảo về các hệ thống xã hội linh hoạt và các cấu trúc vị thế không tương thích với các mô hình thứ bậc điển hình. Tính linh động thể hiện rất rõ ràng trong các khuynh hướng thiên về các hệ thống thân tộc không đơn tuyến, những hệ thống chính trị liên minh chặt chẽ, tính chất mơ hồ hoặc sự dao động trong các quan hệ liên nhóm và các cơ chế phân cấp về vị thế và của cải. Có nhiều tài liệu tham khảo trong các văn liệu nhà nước sớm liên quan đến tính linh động về vị thế xã hội (chẳng hạn như Jacques 1979; Wolters 1982; Christie 1985:17; Hagesteijn 1986; see also Kobkua Suwanna that Dian [1993]) và những đề xuất cho rằng các cấu trúc phân cấp về mặt lý thuyết đều che phủ một thực tiễn linh động và lỏng hơn nhiều.
Thực chất và các mối liên quan về vị thế xã hội linh động của các nhà nước ĐNA có thể được xem xét một cách có phê phán về quyền kế vị. Huyết thống bị xuống cấp và được thao tác có tính chiến lược theo phương thức đa diện. Dòng dõi chỉ là một tiêu chuẩn có thể được sử dụng để chính thống hóa một khẳng định về vị thế của kẻ cai trị và được sử dụng một cách linh động: phụ hệ, mẫu hệ, thân tộc đằng vợ, tổ tiên xa, hoặc thậm chí một vài trường hợp còn bao gồm cả tổ tiên huyền thoại (Hagesteijn 1986). “Sự chuyển giao quyền lực trực tiếp từ cha đến con đã được ghi lại với chín trường hợp, thất lạc ba mươi hai trường hợp …Trong hầu hết các trường hợp (tám) quyền lực được chuyển cho các anh em hoặc cháu …hoặc cho một người cháu trai của vợ, cho các cháu gọi bằng ông, thậm chí cho cả cháu rể. Việc lựa chọn các ứng viên này được quyết định bởi “tuổi tác và đức hạnh của họ” (Sedov 1978:116). Việc các cá nhân không có dòng máu hoàng gia chiếm đoạt quyền lực chỉ được chấp nhận khi kẻ đó có năng lực khác thường (tức là khả năng làm thủ lĩnh) được thể hiện một cách rõ ràng như trường hợp một kẻ cai trị thành công nhất ở người Pagan (Aung-Thwin 1985:66). Khỏi phải nói, quyền kế vị trên cơ sở tuổi tác và đức hạnh của một loạt ứng viên không dễ để các mô hình tiến hóa trong quá trình hình thành nhà nước có thể dự liệu. Các sử gia đã bình luận về bản chất khác thường của vị thế thủ lĩnh tại các nhà nước ĐNA sớm, đặc biệt là phẩm chất thần uy, tầm quan trọng của quyền năng dị thường của cá nhân (Wolters 1982); cùng các hành vi tư cách và những dấu ấn về lý lịch cá nhân, đó chính là điển hình của sự thành đạt cá nhân. Việc tăng cường nhấn mạnh phẩm chất liên nhân đối với cương vị thủ lĩnh phụ thuộc vào các quần đám của mối quan hệ giữa kẻ che chở và bọn được che chở (chứ không phải là các giai tầng, dòng dõi, luật tắc hoặc chính thể quan liêu phân cấp) chính là phương tiện cơ bản để nhà nước cai trị và thể hiện quyền lực (Wolters 1982:20).
Lâu nay các nhà nhân học xã hội đã quan sát về sự xuất hiện của các hình thái tổ chức quan hệ thân tộc không đơn tuyến trong các xã hội ĐNA (về vấn đề này, nên xem tiểu luận trong Hiisken and Kemp [1991]). Các học giả khác (Winzeler 1976; Wolters 1982) cũng đã cho thấy rất rõ các hệ thống không đơn tuyến hoặc các hệ thống thân tộc song phương trong quá khứ có lẽ vẫn tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và tính cách của các nhà nước ĐNA. Trong khi quan hệ thân tộc gốc không bao hàm một kiểu xã hội hoặc văn hóa có những biểu hiện và các đặc tính chung, có thể tiên đoán thì các nhà dân tộc học đã nhận thấy rằng một trong những tương liên hành vi của các hệ thân tộc gốc phát hiện được ở một số xã hội ĐNA lại là sự lựa chọn mang tính cá nhân rất đáng kể (Embree 1969; King 1991:18) nhằm đáp lại các định chế luật pháp và các bổn phận xã hội. Vì vậy có thể cho rằng các hệ thống thân tộc gốc đã cho ta một cơ sở bước đầu về sự phản ứng mềm dẻo, một sản phẩm có thể đã sản sinh từ tính đa dạng của các hình thái xã hội được biểu hiện và đã phát triển tại ĐNA, cũng như tính mềm dẻo của chúng cùng với thời gian (King 1991:30).
Các xã hội này khác nhau về mức độ cấm đoán các hành vi và những lựa chọn đối với các cá nhân mà các nhà nhân học văn hóa đã phát hiện ra khi làm việc tại ĐNA. Embree (1969) đã đề cập đến hiện tượng này trong xã hội Thái khi lưu ý rằng mặc dù các nguyên tắc về bổn phận xã hội được kết nối với nhau về phương diện lý thuyết, nhưng cá nhân vẫn quyết định tối hậu có tuân theo các nguyên tắc đó hay không. Có thể xuất hiện những giai đoạn căng thẳng xã hội nếu ai đó không tuân thủ luật pháp, nhưng cá nhân thì lại luôn luôn thực sự được chào đón quay trở lại với nhóm lợi quyền xã hội của mình. Embree đã đối sánh tính chất lỏng lẻo với tính chặt chẽ của xã hội Trung Quốc và Nhật Bản, mà ở đó các chuẩn mực chẳng hạn như lòng hiếu thảo của con cái có những đòi hỏi và các luật tắc thông qua những hình thức thưởng phạt rất ngặt nghèo.
Các xã hội ĐNA cũng thể hiện tính mềm dẻo trong các cơ chế xác định vị thế. Jacobs et al. (1990) đã đưa ra những ví dụ minh họa về người Nagas mà vị thế khác biệt của họ cũng có thể dựa trên những kết hợp về các phẩm chất thừa kế và các phẩm chất do cá nhân đạt được; huyết thống, hôn nhân, số đầu người săn được (phản ánh năng lực đặc biệt), số lượng các loại tiệc tùng được tổ chức (thể hiện mức độ dồi dào về của cải) tất cả đều được khai thác bằng sự khác biệt vị thế, nhưng cũng có thể được nhấn mạnh bằng nhiều cách thức khác nhau về không gian và thời gian để tạo ra các mức độ và các dạng thức phân cấp xã hội. Các cá nhân, nhất là đàn ông, thậm chí từ những huyết hệ bậc thấp cũng có thể xây dựng các chiến lược nhằm đạt được vị thế xã hội thông qua các hành động riêng của họ. Vị thế xã hội không được xác định bằng một mô hình thứ bậc hình nón hoặc một hệ thống giá trị cố định, mà là một hệ thống đa phương để xác định vị thế trong những bối cảnh đặc biệt bắt nguồn từ tiềm năng đa dạng hóa các phương thức sắp xếp thứ bậc một cách linh động.
Các hệ thống chính trị xã hội liên minh tập trung tại ĐNA muộn
Các hệ thống chính trị dân tộc học lịch sử và lịch sử ở ĐNA cũng thể hiện những yếu tố chung bằng cách nhấn mạnh vào tính chất linh động và sự hình thành liên minh. Việc các nhà lãnh đạo thành công thể hiện kỹ năng ngoại giao thông qua việc duy trì các mối quan hệ liên nhân (Wolters 1982:18), thương lượng hòa bình, hoặc trao đổi với bên ngoài (Hall 1985:191) là có tính quyết định. Mặc dù nhiều cuộc chiến tranh đã được ghi chép lại, nhưng dường như các sử gia vẫn không coi các cuộc chiến đó là loại hành động tổ chức tập trung đối với các nhà cai trị sớm (Wolters 1982:17), hoặc chí ít sự cai trị hòa bình và quá trình hình thành liên minh cũng thường xuyên phải chịu sức ép (Hall 1985:6, 138).
Một hệ luận tất yếu của phong cách cai trị thần uy là tính hướng tâm đối lập với bản chất động lực ly tâm giữa nhà nước và dân chúng. Sức hấp dẫn của các thủ lĩnh và của trung tâm đối với dân chúng tác động lớn đến việc bành trướng sự thống trị hoặc đến những cưỡng bách từ trung tâm lên toàn lãnh thổ (Christie 1985:9). Sắc thái ấy có thể thấy rất rõ khi không có các tình huống phải nhấn mạnh đến các biên giới lãnh thổ thường hằng, sự giao động, tính chất lỏng lẻo, và thậm chí cả sự chồng chéo của các biên giới đó. Các nhà nước đã không được coi là các thực thể giới hạn độc nhất, vì vậy mà một vài khu vực đã tự nhận mình là những bộ phận của cả nhà nước này lẫn nhà nước khác trong cùng một thời điểm (Winichakul 1994).
Một hệ luận về động lực hướng tâm giữa nhà nước và dân chúng của nó là việc kiểm soát lãnh thổ thường không được coi là trọng tâm bằng việc kiểm soát lao dịch, có nghĩa là kiểm soát dân cư của nó. Hall (1985:4) cho rằng cuộc tranh đấu để kiểm soát dân cư có nghĩa là kiểm soát nguồn nhân lực về nguyên tắc là thông qua quá trình hình thành các liên minh chính trị với nhóm tinh hoa điền sản địa phương là mối bận tâm hàng đầu đối với kẻ cai trị. Mật độ dân số thấp luôn luôn là “một vấn đề” đối với các nhà nước ĐNA. Việc xây dựng các mối quan hệ giữa kẻ che chở - kẻ được che chở tạo cơ sở cho việc tuyển dụng lao dịch hơn là xác định những mối quan hệ về vai trò được phân tầng. Bọn thủ lĩnh cuốn hút lũ theo đuôi, thậm chí là toàn bộ các làng bằng việc hứa hẹn đảm bảo an toàn, chu cấp đất đai, cơm áo, tạo dựng uy tín, sự bảo vệ và khả năng tiếp cận với nguồn nước, tất cả đều là những phương tiện tăng thêm nhân đinh ủng hộ chúng. Bọn “nô lệ” hoặc “nông nô” được đề cập tới trong các văn liệu có lẽ giúp người đọc một cách tốt nhất để hình dung ra một lũ rơi vào tình trạng của kẻ được che chở (Aung-Thwin 1985:87).
Nhân học xã hội và chính trị của khu vực này luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hình thành liên minh chính trị và trạng huống đồng tồn tại của những tương tác linh động giữa các hệ thống giá trị thứ bậc và phương thức bình quân (có thể xem Leach 1954; McKinnon 1991). Những nghiên cứu của Graves (1994) về người Kalinga đã cho thấy rằng các khu vực cư trú được hình thành dựa trên cơ sở các thỏa thuận hòa bình được thương lượng liên tục. Công trình Các hệ thống Chính trị Cao nguyên Mianma của Leach (1954) đã cho thấy một trường hợp phức tạp điển hình về cái có thể được xác định một cách dễ dàng là cấu trúc mạng: các mối liên hệ mờ ảo và sự dao động (chứ không phải là tiến hóa) giữa các hệ thống tự trị gumsa phân cấp theo thứ bậc và các hệ thống gumlao chia bè phải theo phương thức bình quân. Bất cứ một cộng đồng đơn lẻ nào cũng có thể vận hành theo cách thức tương đối có thứ bậc hoặc theo cách thức dân chủ, và theo thời gian có thể thay thế nhau giữa hai phương thức đó. Hơn nữa mối quan hệ bên trên giữa những kẻ-cho-vợ và kẻ-nhận-vợ hàm chứa một hệ thống thứ bậc mang tính ngữ cảnh trong các hệ thống liên minh hôn phối bất đối xứng thường thấy trong các nhóm ĐNA (cũng đã được McKinnon [1991] và những người khác đề cập đến) vì các dòng tộc cưới gả cho nhau theo mô thức vòng tròn. Về mặt lý thuyết, phạm vi của các mối quan hệ bên trên giữa kẻ-cho-vợ và kẻ-nhận-vợ làm nảy sinh mô thức vận hành nghịch lý, và đó chính là cơ sở cho việc nảy sinh khái niệm cấu trúc mạng (McCulloch 1945).
Jacobs et al. (1990) đã mô tả những hệ thống dao động cấu trúc (các hệ thống Thendu/Thenkoh và Sema/Angami) trong cuốn sách của ông về người Nagas ở đông Ấn Độ. Các nhóm ĐNA khác đã thể hiện những ngữ cảnh khác nhau về hành vi dao động, chẳng hạn như trong bản sắc tộc thuộc hoặc hành vi nghi lễ (chẳng hạn Kirsch 1973). Tóm lại, văn liệu dân tộc học cung cấp nhiều ví dụ về các nhóm ĐNA coi các mối quan hệ thứ bậc trong chính trị và xã hội là có tính ngữ cảnh và mềm dẻo.
III. THẢO LUẬN
Việc điểm qua các bằng chứng về cấu trúc mạng trong tiền sử, lịch sử và dân tộc học ĐNA cho thấy các bước hướng tới một mô hình nhận thức thứ bậc cho quá trình phát triển phức hợp xã hội phù hợp với bối cảnh ĐNA. Vì vậy tôi thấy có hai yếu tố cơ bản đóng góp vào sự phát triển mang tính thứ bậc ở ĐNA có những mối ràng buộc sâu sắc với quỹ đạo phát triển vùng: 1) các khuynh hướng hệ thống xã hội tập trung vào ngã thể mà tôi đề xuất chứa đựng tiềm năng cố hữu về tính linh hoạt lớn hơn so với các hệ thống thân tộc đơn tuyến; và 2) các khuynh hướng thiên về, hoặc chí ít thì cũng kết hợp các giải pháp bên đối với các vấn đề cấu trúc tại những điểm giao tiếp vô hướng, một phẩm tính có thể có những liên hệ mật thiết với bước đi và phong cách của sự phát triển xã hội ĐNA.
Các mô hình tiến hóa tập trung vào sự phát triển phân cấp thừa kế có khuynh hướng thừa nhận hoặc chúng thích hợp nhất với cách tổ chức thân tộc đơn tuyến. Vậy thì khuynh hướng thiên về các hệ thống xã hội tập trung vào ngã thể tại ĐNA được đề xuất xem xét theo ba thời đoạn: từ sự xử lý các mộ theo cách đơn lẻ trong giai đoạn tiền sử đến nhiều cách thức kế thừa ngôi vị khác nhau và bằng chứng về tính song phương trong các nhà nước lịch sử, đến sự thịnh hành của các hệ thống thân tộc gốc trong các ghi chép dân tộc học.
Tương tự như vậy, các chiến lược bàng hệ hóa với sự phân hóa ngày càng tăng xảy ra theo chiều ngang dường như là một phản ứng thường xuyên đối với các bối cảnh gợi lên tính phức hợp ngày càng tăng. Tình trạng phân mảnh của các văn hóa vật chất sau khi đồng thau xuất hiện trong giai đoạn tiền sử thay thế cho những tăng tiến đáng mong đợi trong sự phân hóa theo chiều dọc là một ví dụ. Sự kết hợp của các mạng lưới đền đài liên vùng với tư cách là một bối cảnh cho việc thể hiện tính chất thứ bậc trong giai đoạn lịch sử khi việc nhấn mạnh hệ thống xã hội thế tục lại đối kháng với quá trình phân hóa thể chế hóa theo chiều dọc, có thể được coi là cơ chế của sự phân hóa theo chiều ngang. Trong các bối cảnh dân tộc học, tính chất tăng cường trong sự phân hóa tộc thuộc, mà không phải là đồng hóa và nô dịch khi các nhóm ngôn ngữ tộc người khác nhau ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với các xã hội có nhà nước ở vùng đồng bằng (chẳng hạn các nghiên cứu của Kunstadter [1967]) lại là một ví dụ khác.
Hệ thống thứ bậc linh hoạt và quá trình phân hóa theo chiều ngang có thể được biểu hiện bằng những cách thức khác nhau trong các xã hội khác nhau cắt qua thời gian, nhưng chúng cũng cho ta một cơ sở về tính linh hoạt trong sự đáp trả những thách thức, đó có thể là về môi trường, kinh tế, xã hội, hoặc lịch sử và các lựa chọn thay thế cho các cơ chế thứ bậc trực tiếp để thống nhất và kiểm soát điều chỉnh. Kiểu phân hóa đó có thể được sử dụng trong nhiều xã hội khác nhau trong những bước phát triển khác nhau với tư cách là một phương án thay thế hoặc thậm chí một cấu phần của sự phân hóa theo chiều dọc, với tư cách là một cơ chế để thực hiện các nhiệm vụ phức tạp và làm giảm thiểu các căng thẳng xã hội thấy rõ trong các bằng chứng ở vùng ĐNA. Một mối quan hệ mật thiết tiềm tàng liên quan đến các động thái cơ bản này chính là việc kiểm soát và các cơ chế điều chỉnh có thể bị phân tán chứ không tập trung, và mang tính bối cảnh hơn là tính cấu trúc. Tương tác liên nhóm có thể diễn ra mà không cần vị thế được xác định như là một điều kiện bền vững, việc xác định vị thế không phải là tất cả, hoặc việc xác định vị thế chỉ cần thiết cho các trường hợp đặc biệt hoặc có tính chất tình cờ (chẳng hạn như động thái cho hoặc nhận vợ).
Hơn nữa các dữ kiện ở ĐNA làm nổi lên một vấn đề là các cuộc thảo luận vể các thủ lĩnh địa và quá trình hình thành nhà nước theo cấu trúc thứ bậc đã đề cập đến một loạt biến số thực sự là một phương diện của một số trục liên tục văn hóa (Hình 9-2). Các dữ kiện ĐNA chỉ ra rằng tính chất cuối cùng và chặt chẽ của các ranh giới (giữa giai cấp, dòng tộc, và các thực thể chính trị) được áp dụng trong các mô hình thứ bậc là một phẩm tính có thể được xử lý như một biến số, mà không phải như một thành tố cố hữu của quá trình tiến hóa của tính phức hợp xã hội (một sự khác biệt gợi lại sự cố kết mang tính hữu cơ và tính cơ chế của Durkheim). Trong khi các xã hội có nhà nước trong các văn liệu khảo cổ học đều có khuynh hướng được thảo luận dựa trên cơ sở kết thúc tính liên tục của hệ thống thứ bậc, thì xã hội của chúng ta lại chỉ cần được xem xét để thừa nhận rằng các nguyên tắc cấu trúc thứ bậc là không tương thích với thể chế nhà nước.
Về vấn đề đưa ra một quan điểm tương tự với so sánh của Embree (1969) về người Thái và người Hoa thì thực tiễn khác biệt về tính nghiêm nhặt đã được các cuộc thám hiểm của người Pháp thế kỷ 19 làm nổi bật khi họ đi tìm một tuyến đường ngược dòng Mekong phục vụ cho thương mại châu Âu với Trung Quốc. Trong nội địa ĐNA, đội thám hiểm đã chạm trán với các cuộc lộn xộn tộc thuộc, các nhóm phân biệt bởi cách ăn mặc, các ngôn ngữ và các phương ngữ. Họ cũng mô tả tâm trạng cực kỳ vỡ mộng trong các nỗ lực xin phép để được vượt qua bất cứ vùng nào nằm dưới quyền cai quản của các ông hoàng địa phương liên minh với một vài “nhà nước” để mặc cả quyền bá chủ (Osborne 1975:94,105). “Việc đưa ra các quyết định tiếp theo” luôn luôn cản trở bước tiến của đội thám hiểm khi họ cần đến sự cho phép của chính quyền, và để có thể được phép, họ gặp phải cả một thiên la địa võng các trò chơi giữa các cá nhân. Đội thám hiểm đã rơi vào một trạng thái vô cùng xả láng khi cuối cùng lọt vào được một vùng buồn tẻ bởi “dấu hiệu của tính đơn điệu thường ngày” mà hệ thống văn hóa Trung Quốc đã tống vào các nhóm tộc người khác nhau đã bị đồng hóa vào nền văn minh của nó (Osborne 1975: 126) và trong đó các tuyến quyền lực, nói một cách tương đối, đều được xác định rõ ràng.
Vì vậy các lý thuyết khảo cổ học đã thất bại khi coi hiệu quả gây ra bởi sự khác biệt giữa các văn hóa với các luật tắc chặt chẽ của cấu trúc và hành vi cũng như các văn hóa có các luật tắc mềm dẻo đều tác động đến sự phát triển của tính phức hợp xã hội. Loại hình và chức năng của các hệ thống thứ bậc trong các xã hội linh hoạt trái ngược với các xã hội cứng nhắc sẽ phân biệt với các xã hội linh hoạt bằng cách gán vai trò cho chiến lược hóa và các cuộc đàm phán của các cá nhân và các nhóm. Đó cũng là một chiều góc về khả năng có những kinh nghiệm tương liên mà các nhà khảo cổ học có thể xác định để giúp chúng ta khai mở các động năng của các xã hội bằng cách nhấn mạnh vào các nguyên tắc cấu trúc thứ bậc.
Hình 9-2 là một khung khớp nối các tính chất khác biệt lại với nhau bằng những thành tố của một hệ thống văn hóa cùng với một vài trục xoay của tính liên tục thứ bậc – mạng. Một xã hội riêng rẽ không cần phải được đặc trưng bằng phía bên phải hoặc bên trái của bảng 9-2, nhưng vẫn có thể có những kết hợp khác nhau về các thành tố thứ bậc hoặc mạng. Việc xem xét một trường hợp đơn lẻ với việc quan tâm đến những chiều góc khác biệt này và các mối liên hệ cấu trúc của chúng là một phương tiện để vượt khỏi cách tiếp cận loại hình học (chẳng hạn như trong Kristiansen [1991], “xã hội phân tầng giải tập trung” ngược lại với “nhà nước cổ đại tập quyền”) để phân tích các cấu phần của các xã hội trung gian và các xã hội nhà nước sớm, mà ở đó ví dụ về đời sống thực hóa ra là chỉ có một số chứ không phải là tất cả các đặc trưng của kiểu loại ấy, hoặc các đặc trưng nhiều hơn một kiểu loại. Vì vậy, chẳng hạn người Maya (Potter and King, trong tuyển tập này) đã thể hiện một hệ thống chính trị phân tầng cao nhưng hệ thống kinh tế lại tích hợp theo chiều ngang. Tính phong phú tiềm tàng của cách tiếp cận này thể hiện rất rõ ràng khi cho rằng cần phải coi các chiều góc cần được nghiên cứu là liên tục chứ không phải là các thuộc ngữ mỗi một/hoặc, có mặt/vắng mặt. Về các chiều góc cá nhân, một xã hội có thể hướng tới cực này hoặc một cực khác, hoặc có thể một điểm nào đó giữa các cực bằng cách kết hợp các khía cạnh của cả hai. Chẳng hạn như các hệ thống sản xuất và phân phối vải được Bowie (1992) mô tả ở bắc Thái Lan trước hết là một hệ thống tự tổ chức, nhưng lại bao gồm cả công việc sản xuất có sự kiểm soát nào đó và gắn thêm chức năng sản xuất loại vải thượng hạng cho hoàng gia.
Các nghề thủ công khác nhau trong một xã hội có thể được kiểm soát hoặc phân tán thành một số trình độ khác nhau với những mối liên hệ mật thiết tổng hợp đối với cung cách mà một xã hội riêng lẻ vận hành và biến đổi. Điều đó gợi lên rằng việc xem xét tổng hợp các yếu tố kết hợp khác nhau trong khuôn khổ của các chiều góc thứ bậc/mạng sẽ đi xa hơn để kích thích những khác biệt giữa các xã hội phức hợp đơn và đặc tính của chúng tại một điểm riêng biệt trong tính liên tục lịch sử của chúng.
Những mối liên quan đến việc xây dựng mô hình
Nếu các cấu phần của xã hội chỉ được đặt cùng với nhiều loại liên tục tính khác nhau thì phải chăng chúng ta sẽ không bị mất rất nhiều chi tiết đặc thù? Làm thế nào mà người ta có thể kết hợp các dữ kiện vào các mô hình nếu cho phép lựa chọn, đàm phán cũng như chiến lược văn hóa và cá nhân? Việc bao gồm khái niệm lựa chọn đã không phù hợp với một quyết định luận về các mô hình tiến hóa đã được nhấn mạnh. Tôi tin rằng câu trả lời nằm ở việc bổ sung vào các cuộc thảo luận của chúng ta về những định hướng lý thuyết được khoa học tự tổ chức đề xuất và một nhánh của nó là khoa học về sự hỗn độn phù hợp hơn với các động thái thuộc hệ thống cấu trúc mạng.
Trong khi các đặc trưng kết hợp của những lý thuyết lớn này vào lý thuyết khảo cổ học sẽ vạch ra một cách chi tiết vì càng ngày càng có nhiều nhà khảo cổ học áp dụng ý tưởng này, thì hiện giờ tôi thấy có một số đóng góp đầu tiên. Các lý thuyết hỗn độn và tự tổ chức đã xuất trình những khái niệm hữu dụng sau: 1) một quỹ đạo phát triển được xem là phân nhánh liên tục chứ không phải chỉ theo một tuyến; 2) tầm quan trọng của các điều kiện khởi đầu cụ thể trong việc quyết định sự phản hồi của hệ thống tại điểm phân nhánh (tương đương với sức ép giao tiếp vô hướng?); 3) quan điểm cho rằng con đường được lựa chọn tại điểm phân nhánh là khó tiên đoán (tính hỗn độn) vì vậy con đường dẫn tới phân nhánh là có tính quyết định luận; 4) sự khớp nối của các mô thức động cơ bản vượt khỏi những cách thức tiến triển tuyến (mà động lực dao động có thể đặc biệt phù hợp với bối cảnh ĐNA); 5) tầm quan trọng của các thuộc tính di truyền của các tập hợp trong quỹ đạo phát triển của một hệ thống.
Mãi cho tới gần đây các nhà khảo cổ học vẫn có khuynh hướng tư duy theo sự tiến triển tuyến (ngay cả đó là đa tuyến) và có khuynh hướng coi thường các mô thức động khác, chẳng hạn như động thái dao động và tác động tiềm tàng của nó tới các quỹ đạo văn hóa. Các nhà khảo cố học hầu hết đều tập trung vào động thái tình trạng bền vững trong cái vỏ của các mô hình cân bằng. Rất đáng chú ý là Johnson (1982: 416) đã đi theo con đường của các lý thuyết gia tự tổ chức bằng cách ngụ ý đến một mô hình loại phân nhánh cho quá trình phát triển của tính phức hợp khi ông lưu ý rằng: “…các quỹ đạo phát triển có tổ chức sẽ phụ thuộc một phần vào diễn trình phản hồi, tức là trật tự thời gian, trong đó sự tạo dựng hoặc phát triển theo cấu trúc thứ bậc xảy ra đồng thời và/hoặc theo dãy…Chúng ta có thể trông đợi một sự thay đổi tổ chức dưới các sức ép vô hướng đứt đoạn nhiều hơn là liên tục” [nhấn mạnh thêm].
IV. KẾT LUẬN – CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Tôi đã nói rằng các vấn đề đưa ra ở phần đầu liên quan đến bước đi và chiến lược chính thống hóa cho sự phát triển của xã hội phức hợp trong vùng hạch ĐNA lục địa có thể được nghiên cứu một cách thành công bằng một khung lý thuyết thứ bậc. Viễn cảnh này gợi lên rằng sự phát triển của tính phức hợp xã hội và hình thức tập quyền chính trị là những hiện tượng riêng biệt và các khái niệm đó cần phải được tách riêng trong các cuộc thảo luận về lý thuyết. Hơn nữa viễn cảnh cấu trúc mạng gợi lên những đường hướng mới cho cả nghiên cứu kinh nghiệm lẫn nghiên cứu lý thuyết. Về phương diện kinh nghiệm, các dữ liệu ĐNA chỉ ra rằng bằng chứng trong nhiều trường hợp có thể là đầu vào cho các nhà khảo cổ để đánh giá sự hiện diện của các mô thức thứ bậc. Chẳng hạn như bằng chứng về tang lễ có thể được sử dụng để xem xét tính linh hoạt của vị thế, mức độ nghiêm nhặt của các táng thức, và bằng chứng về quá trình cá thể hóa các ngôi mộ có liên quan đến tính nghiêm nhặt của các luật tắc hành vi hoặc tầm quan trọng tương đối của các cá nhân khi đối diện với các nhóm hợp tác.
Về các vấn đề lý thuyết, các tiêu chí được mở rộng vượt khỏi các khuôn khổ nhị phân có vẻ mộc mạc (các phán đoán kiểu hiện diện-và-vắng mặt) cần phải được phát triển để đo lường, phân biệt và định giá các ảnh hưởng của các biến số chẳng hạn như chiến tranh, kiểm soát kinh tế, tăng cường nông nghiệp, hoặc chuyên môn hóa thủ công. Costin (1991) đã thực hiện được những bước tiến quan trọng trong việc mở rộng và phân biệt quá trình chuyên môn hóa thủ công nghiệp cũng như đưa ra các chỉ dẫn cho việc đánh giá các loại hình trong các bối cảnh khảo cổ học khác nhau. Những cách thức xử lý thận trọng tương tự về các biến số quyết định khác thì vẫn còn quá chậm. Chẳng hạn bằng chứng kinh nghiệm để đánh giá sự hiện diện, kiểu loại, mức độ, và tác động của sự xung đột bạo lực trong hệ thống xã hội cũng có thể được xác định vượt khỏi một sự quy chiếu tối thiểu vào chiến tranh. Các tiêu chí mở rộng có thể bao gồm trình độ thiết kế hình thức và kỹ thuật chế tạo vũ khí, và việc đánh giá định lượng về sự nổi bật của nó, bằng chứng về chấn thương bạo lực trong các tập hợp hài cốt, và bằng chứng về những biểu hiện phòng vệ (chứ không phải chỉ là tấn công), chẳng hạn như trình độ xây dựng các thành lũy đất phòng vệ.
Các xã hội phức hợp có thể được tái thẩm định theo các chiều góc kết nối đẩy đủ hơn ấy để xem liệu có phải tính chất biến đổi gặp phải có thể được ấn định một cách phong phú và mang tính hệ thống hơn không. Những biến đổi trong các xã hội phức hợp theo thời gian có thể được đặc trưng hóa thành các chiều góc riêng, và tác động của các kích thích tố riêng có thể được phân biệt tùy thuộc vào cung cách mà các liên tục tính của một xã hội riêng biệt được cấu thành trong bất cứ một điểm giao tiếp vô hướng đặc thù nào. Để giúp chúng ta xác định thêm các dữ liệu này một cách triệt để, có hệ thống và phong phú hơn thì viễn cảnh được đề xuất đang thách thức một vài giả định đề mà các nhà khảo cổ học nhân học đã nhấn mạnh trong các thập kỷ gần đây trong lý thuyết bậc cao, cụ thể là các định đề quyết định luận, tính có thể dự báo, và tiến hóa phi văn hóa. Các dữ kiện ĐNA đã làm nổi bật các nhu cầu tích hợp vào lý thuyết khảo cổ học khả tính và những mối liên hệ mật thiết của cấu trúc mạng ở mọi cấp độ của động thái xã hội.
TÁI CHÚ
Những bước phát triển chính trị xã hội ở vùng ngoại vi phía bắc của ĐNA lục địa dọc theo sông Hồng ở bắc Việt Nam và Vân Nam (Trung Quốc) vẫn chưa được xem xét trong nghiên cứu này. Các nhà nước ở bắc Việt Nam được coi là bị Trung Quốc áp đặt (Wheatley 1979, 1989). Bằng chứng khảo cổ học từ giai đoạn tiền sử đã chỉ ra rằng sự phát triển văn hóa xã hội của Lưu vực sông Hồng đã tạo thành một quỹ đạo khác biệt với vùng hạch ĐNA lục địa từ ít nhất là 1000 năm TCN và có thể sớm hơn.
Khả năng sự phát triển của các hệ thống thứ bậc tại các di chỉ vùng Phimai gắn liền với việc sản xuất tập trung hóa các nghề thủ công không phải nghề đồ đồng cần phải được khai thác triệt để. Tuy nhiên các nguồn lực được coi là lợi ích trung tâm của các xã hội này (chẳng hạn như đất đai, muối, gỗ, và quặng sắt) không bị hạt nhân hóa cao độ. Trong một nghiên cứu sơ bộ, McNeill và Welch (1991) cũng không thể xác định được các bằng chứng cho các trung tâm chế tạo gốm chuyên môn hóa.
Việc nhấn mạnh vào những thành đạt cá nhân của các nhà cai trị nhà nước chắc chắn sẽ quấy rầy các nhà khảo cổ nào theo đuổi lý thuyết tiến hóa văn hóa. Sự thành đạt bao gồm nhiều phẩm chất và hành động, bao gồm khả năng thu gom một cách khéo léo tri thức chính trị, sự điềm tĩnh và khả năng ngoại giao, sự dâng hiến về tinh thần, của cải và đôi khi là cả chiến tranh với nhau nữa. Kỹ năng trong việc xử lý liên cá nhân phức hợp đối với các nhà lãnh đạo còn quan trọng hơn việc phát động các hành động gây hấn.
_______________________________________
Người dịch: Hà Hữu Nga
Nguồn: White, Joyce C. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the analysis of complex societies/Robert M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy, editors; contributions by Elizabeth M. Brumfiel ... [et al.], 1995.
Tác giả: Dr. Joyce C White là nhà nghiên cứu khoa học cấp cao tại Bảo tàng Nhân học và Khảo cổ học thuộc Đại học Pennsylvania.
Lời cảm ơn của Tác giả: Tôi thành thực biết ơn Eleanor King, Heather McGrath, William Henderson, Julia Wiland, và những người khác đã giúp nhận xét bài viết này; cảm ơn Ardeth Anderson đã thiết kế giúp các hình minh họa. Bất cứ lỗi nào khác đều thuộc về trách nhiệm của tác giả.
* Ghi chú của người dịch: Đối với tôi, việc dịch bài viết này của Joyce White là một kỷ niệm khó quên. Trước cuộc họp của Hội Tiền sử Châu Á – Thái Bình Dương năm 1999 tại Penang, Malaysia, tôi không hề biết gì về cái tên Joyce White, chỉ đến khi tình cờ nghe nhắc đến khái niệm network model (mô hình mạng) tôi mới để ý và hỏi chuyện người đó. Thật may mắn, đó lại chính là Joyce White, thế là tôi liền hỏi xin White một bản copy bài viết bất kỳ nào về mô hình mạng. Hai tuần sau khi kết thúc hội nghị, tôi nhận được bản copy bài viết Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia của White. Nhưng khi nhận được bài viết tôi nghĩ rằng cô ấy đã gửi nhầm bài khác cho mình, vì không thấy đề cập gì đến network model cả. Nhưng vì thấy đây là một bài viết rất hay, tôi đã bỏ ra cả tháng trời (tháng 11 năm 1999) để dịch, nhưng chỉ có một từ duy nhất và quan trọng nhất là heterarchy tôi không biết dịch thế nào. Tôi tìm đến học giả, dịch giả Nguyễn Kiên Giang để hỏi nghĩa của từ tiếng Pháp tương đương, và bác Giang nói nó có nghĩa là một lối cai trị khác với lối cai trị thông thường. Tôi không biết chắc nghĩa đó có phản ánh đúng nghĩa của từ mà White sử dụng hay không, và tôi đem phân vân đó bày tỏ với Giáo sư Trần Quốc Vượng. Thầy Vượng nói: theo mình cậu có thể dùng từ hỗn trị để dịch heterarchy, nhưng tốt nhất là mình và cậu sang hỏi Dương Tường (dịch giả, nhà thơ Dương Tường). Nhà thơ Dương Tường nói nên dịch là dị trị.
Nghe theo ba bậc thầy, tôi đã dịch heterarchy là dị trị hoặc hỗn trị, nhưng thú thật là tôi vẫn băn khoăn, nên không muốn công bố bài dịch, cho dù Giáo sư Trần vẫn động viên tôi nên công bố. Một năm sau (năm 2000), khi gặp lại Joyce White tại Hội thảo Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, tôi bảo White là tôi không biết nghĩa của từ heterarchy là gì, vì không tìm thấy nó ở bất cứ từ điển nào. White nói đó chính là từ mà Warren McCulloch đã sử dụng lần đầu tiên trong bài viết ngắn A heterarchy of values determined by the topology of nervous nets (Bulletin of Mathematical Biophysics, 1945, pp. 89-93), muốn biết nghĩa của từ đó thì nên đọc McCulloch. Tuy nhiên cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ biết đến McCulloch và bài viết của ông, vì đơn giản là ông thuộc về một chuyên ngành hoàn toàn khác với khảo cổ học, vả lại lúc đó tôi cũng không biết phải tìm công trình của Mc Culloch ở đâu. Đọc kỹ lại bài của White, tôi quyết định dịch heterarchy là mạng, hoặc cấu trúc mạng. Tuy nhiên tôi chỉ yên tâm công bố bài dịch này sau 10 năm suy nghĩ thêm về nghĩa của từ heterarchy với tư cách là mạng/cấu trúc mạng.
Lý do tôi dịch heterarchy là mạng/cấu trúc mạng cũng có đôi chút cá nhân. Cách đây đã nhiều năm, vào năm 1982, nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm năm mươi năm văn hóa Hòa Bình, tôi đã đề xuất Mô hình tổng quát phi tuyến cho thời đại đá mới Việt Nam. Bài viết đó tôi lấy cảm hứng từ một công trình nghiên cứu hoàn hảo của Giáo sư Hà Văn Tấn Văn hóa Quỳnh Văn với một Truyền thống và một Bình tuyến. Tuy nhiên, khác với thầy mình, ý tưởng xuyên suốt của tôi là không có truyền thống văn hóa đá gốc từ Núi Đọ đến Quỳnh Văn tách biệt khỏi văn hóa đá cuội từ Sơn Vi lên Hòa Bình, rồi đến Bắc Sơn. Diễn trình lịch sử là phi tuyến tính, không hề giống với cách hình dung về hai truyền thống như trên, vì vậy tôi mong muốn đề xuất một mô hình thật đẹp đẽ để minh họa cho ý tưởng của mình. Hai năm sau, trong Hội nghị thông báo Khảo cổ học thường niên năm 1984, tôi đã công bố bài viết ngắn Thời đại đá mới Việt Nam và một Mô hình Tổng quát. Vậy là mô hình cấu trúc mạng - phi tuyến của tôi đã chính thức được ra mắt độc giả trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học Việt Nam năm 1984 (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985). Mười năm sau (1995) Giáo sư Carole Crumley, Joyce White và những người khác đã sử dụng loại mô hình này trong lý giải khảo cổ học, nhưng tất nhiên là từ một nguồn khác, nguồn Mc Culloch. Và giờ đây, khi quyết định công bố bản dịch này, tôi hoàn toàn yên tâm rằng heterarchy chính là mạng/cấu trúc mạng.
Từ đáy lòng mình, tôi muốn dành tặng bản dịch này cho những nhà nghiên cứu trẻ ham tìm tòi. Tôi đặc biệt cảm ơn Joyce White về bài viết tuyệt vời và thịnh tình của cô khi gửi cho tôi bản copy bài viết. Với bản dịch 10 năm này tôi xin được giành những tình cảm chân thành và kính trọng nhất đến hai người thầy lớn của nhiều thế hệ các nhà sử học Việt Nam, cố Giáo sư Trần Quốc Vượng và Giáo sư Hà Văn Tấn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adams, Richard Newbold 1988. The Eighth Day: Social Evolution as the Self-Organization of Energy. Austin: University of Texas Press.
Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: The Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press.
Bayard, Donn T. 1980. An early indigenous bronze technology in northeast Thailand: its implications for the prehistory of east Asia. Pp. 191-214 in The Diffusion of Material Culture.
Bayard, D.T. ed. 1992. Models, scenarios, variables and supposition: approaches to the rise of social complexity in mainland Southeast Asia, 700 BC-AD 500. Pp. 13-38 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centres in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bangkok: White Lotus. Dunedin: University of Otago Studies in Prehistoric Anthropology.
Bentley, G. Carter 1986. Indigenous states of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15:275-305.
Bowie, Katherine A. 1992. Unravelling the myth of the subsistence economy, textile production in nineteenth-century northern Thailand. Journal of Asian Studies 51(4):797-823.
Bray, Francesca 1986. The Rice Economies. New York: Basil Blackwell.
Branson, Bennet, and Pisit Charoenwongsa 1986. Eyewitness Accounts of the Early Mining and Smelting of Metals in Mainland South East Asia. Bangkok: Thailand Academic Publishing Co.
Brumfiel, E.M., and T.K. Earle 1987. Specialization, exchange and complex societies: an introduction. Pp. 1-9 in Specialization, Exchange and Complex Societies. E.M. Bnimfiel and T.K. Earle, eds. Cambridge: Cambridge University Press.
Christie, Jan Wisseman 1985. Theater States and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull Centre for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10. 1992 Trade and settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181-197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bangkok: White Lotus.
Cocoran, Elizabeth 1992. The edge of chaos: complexity is a metaphor at the Santa Fe Institute. Scientific American October: 17-20.
Costin, Lynne 1991. Craft specialization: issues in defining, documenting, and explaining the organization of production. In Archaeological Method and Theory, vol. 3. M.B. Schiffer, ed. Tucson: University of Arizona Press.
Crumley, Carole L. 1979. Three locational models: an epistemological assessment for anthropology and archaeology. Pp. 141-173 in Advances in Archaeological Method and Theory, vol. 2. M.B. Schiffer, ed. Tucson: University of Arizona Press.
Crumley, Carole L.1987. A dialectical critique of hierarchy. Pp. 155-169 in Power Relations and State Formation. T.C. Patterson and C.W. Gailey, eds. Washington, D.C.: American Anthropological Association.
Crumley, Carole L. 1995. Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Archeological Papers of the American Anthropological Association 7 (1): 1–5.
Douglas, Michele 1995. A Preliminary Discussion of Trauma in the Human Skeletons from Ban Chiang, Northeast Thailand. Papers from the 15th IPPA Congress, Chiangmai, Thailand. Indo-Pacific Prehistory Bulletin 14-15.
Earle, Timothy, ed. 1991a. Chiefdoms: Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press.
Earle, Timothy 1991b. The evolution of chiefdoms. Pp. 1-15 in Chiefdoms: Power, Economy, and Ideology. T. Earle, ed. New York: Cambridge University Press.
Embree, John F. 1969. Thailand, a loosely structured social system. Pp. 3-15 in Loosely Structured Social Systems. H.D. Evers, ed. New Haven: Yale University Southeast Asian Studies.
Geertz, Clifford 1963. Agricultural Involution: The Process of Ecological Change in Indonesia. Association of Asian Studies Monographs and Papers 11. Berkeley: University of California Press.
Glanzman, William D., and Stuart J. Fleming 1985. Ceramic technology at prehistoric Ban Chiang, Thailand: fabrication methods. MASCA Journal 3:114-121.
Glover, Ian C. 1991a. The Late Prehistoric period in west-central Thailand. Pp. 349-356 in Indo-Pacific Prehistory 1990, Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 1. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 10.
Glover, Ian C. 1991b. The Bronze-Iron Age in western Thailand. Paper presented at the conference The High Bronze Age of Southeast Asia and South China, Hua Hin, Thailand.
Graves, Michael W. 1994. Kalinga social and material culture boundaries. Pp. 13-49 in Kalinga Ethnoarchaeology. W.A. Longacre and J.M. Skibo, eds. Washington D.C.: Smithsonian Institution Press.
Ha Van Tan 1991. From Pre-Dong Son to Dong Son: Sociocultural Changes. Paper presented at the conference The High Bronze Age of Southeast Asia and South China, Hua Hin, Thailand.
Hagesteijn, Renee R. 1986. Trading places: political leadership in Southeast Asian early states. Pp. 105-116 in Private Politics: A Multi-disciplinary Approach to Big-Man Systems. M.A. Van Bakel, R.R. Hagesteijn, and P. Van de Velde, eds. Studies in Human Society, vol. 1. Leiden: E. J. Brill.
Hall, Kenneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
Hall, Kenneth R. 1992. Economic history of early Southeast Asia. Pp. 183-275 in The Cambridge History of Southeast Asia: From Early Times toe. 1800, vol. 1. N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press.
Hedges, R.E.M., R.A. Housley, C. Bronk Ramsey, and G.J. van KJinken 1993. Radiocarbon dates from the Oxford AMS system: archaeometry datelist 17. Archaeometry 35(2)350-326.
Higham, Charles F.W. 1984. Review of Ban Chiang: Discovery of a Lost Bronze Age, by Joyce White. Antiquity 53:64-66.
Higham, Charles F.W. 1989a. The later prehistory of mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3:235-282.
Higham, Charles F.W. 1989b. The Archaeology of Mainland Southeast Asia. Cambridge: Cambridge University Press.
Higham, Charles F.W., and Rachanie Bannanurag 1990. The Excavation of Khok Phanom Di, a Prehistoric Site in Central Thailand: The Excavation, Chronology and Human Burials, vol. 1. Reports of the Research Committee of the Society of Antiquaries of London 47. London: Society of Antiquaries.
Higham, Charles F.W., and Rachanie Bannanurag 1992. Prehistoric ritual and exchange along a tropical coast in Thailand. Research & Exploration 6(2): 180-195.
Higham, Charles F.W., and Amphan Kijngam 1979. Ban Chiang and northeast Thailand: the palaeoenvironment and economy. Journal of Archaeological Science 6: 211-233.
Higham, Charles F.W., and Amphan Kijngam 1982. Irregular earthworks in northeast Thailand: new insight. Antiquity 56:102-110.
Higham, Charles F.W., and Amphan Kijngam 1984. Prehistoric Investigations in Northeast Thailand. Oxford: BAR International Series 231 (i-iii).
Higham, Charles F.W.. R. Bannanurag. M. Graeme, and N. Tayles 1992. Human biology, environment, and ritual at Khok Phanom Di. World Archaeology 24:35-54.
Ho Chui-mei 1992. An analysis of settlement patterns in the Lopburi area. Pp. 39-45 in Early Metallurgy. Trade and Urban Centres in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bangkok: White Lotus.
Husken, Frans, and Jeremy Kemp. eds. 1991. Cognation and Social Organization in Southeast Asia. Verhandelingen Van Het Koninklijk Instituut Voor Taal Land, en Volkenkunde 145. Leiden: KITLV Press.
Jacobs, Julian; Alan MacFarlane; Sarah Harrison, and Anita Herle 1990. The Nagas: Hill Peoples of Northeast India. Society, Culture and the Colonial Encounter. London: Thames and Hudson.122 Joyce C. White
Jacques, Claude 1979. Funan, Zhenla: the reality concealed by these Chinese views of Indochina. Pp. 371-377 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History, and Historical Geography. R.B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press.
Johnson, Gregory A. 1982. Organizational structure and scalar stress. Pp. 389-421 in Theory and Explanation in Archaeology. C. Renfrew, ed. New York: Academic Press.
Kauffman, Stuart A. 1993. The Origins of Order: Self-organization and Selection in Evolution. New York: Oxford University Press.
Kemp, Jeremy, and Frans Husken 1991. Cognatic kinship in Southeast Asia. Pp. 1-11 in Cognation and Social Organization in Southeast Asia. F. Husken and J. Kemp, eds. Verhandelingen Van Het Koninklijk Instituut VoorTaal, Land, en Volkenkunde 145. Leiden: KITLV Press.
Kijngam, Amphan 1979. The Faunal Spectrum of Ban Chiang and Its Implications for Thai Culture History. M.A. thesis, Department of Anthropology, University of Otago.
King, Victor T. 1991. Cognation and rank in Borneo. Pp. 15-31 in Cognation and Social Organization on Southeast Asia. F. Husken and J. Kemp, eds. Verhandelingen Van Het Koninklijk Instituut Voor Taal-. Land-, en Volkenkunde 145. Leiden: KITLV Press.
Kirsch, AT . 1973. Feasting and Social Oscillation: Religion and Society in Upland Southeast Asia. Ithaca: Cornell University.
Kobkua Suwanna that-Dian 1993. Thrones, claimants, ruler and rules: problems of succession in the Malay sultanates. Journal of the Malasian Branch of the Royal Asiatic Society 66(2): 1-27.
Kristiansen, Kristian 1991. Chiefdoms, states, and systems of social evolution. Pp. 16-43 in Chiefdoms: Power, Economy, and Ideology. T. Earle, ed. New York: Cambridge University Press.
Kunstadter, Peter, ed. 1967. Southeast Asian Tribes, Minorities and Nations, vols. 1 and 2. Princeton: Princeton University Press.
Leach, E.R. 1954. Political Systems of Highland Burma. Boston: Beacon Press.
Lehman, F.K. 1967. Ethnic categories in Burma and the theory of social systems. Pp. 93-124 in Southeast Asian Tribes, Minorities and Nations, vol. 1. P. Kunstadter, ed. Princeton: Princeton University Press.
Loofs-Wissowa, H.H.E. ed. 1984. Rank and wealth at Non Nok Tha: the mortuary evidence. Pp. 87-122 in Southeast Asian Archaeology at the XV Pacific Science Congress: The Origins of Agriculture, Metallurgy, and the State in Mainland Southeast Asia. Asian and Pacific Archaeology Series 9. Honolulu: Social Science Research Institute, University of Hawaii.
McCulloch, Warren S. 1945. A heterarchy of values determined by the topology of nervous nets. Bulletin of Mathematical Biophysics 7:89-93.
McGovern, Patrick E. , William W. Vernon, and Joyce Carol White 1985. Ceramic technology at prehistoric Ban Chiang, Thailand: physiochemical analyses. MASCA Journal 3(4): 104-113.
McKinnon, Susan 1991. From a Shattered Sun: Hierarchy, Gender and Alliance in the Tanimbar Islands. Madison: University of Wisconsin Press.
McNeill, Judith R., and David J. Welch 1991. Regional and interregional interaction on the Khorat plateau. Pp. 327-340 in Indo-Pacific Prehistory 1990, Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 1. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 10.
Moore, Elizabeth H. 1988. Moated Sites in Early North East Thailand. Oxford: BAR International Series 400. 1990 Moated settlement in the Mun Basin, northeast Thailand. Pp. 201-212 in Southeast Asian Archaeology 1986: Proceedings of the First Conference of the Association of Southeast Asian Archaeologists in Western Europe. I.C. Glover and E. Glover, eds. Oxford: BAR International Series 561.
Morrison, Kathleen D. 1994. States of theory and states of Asia: regional perspectives on states in Asia. Asian Perspectives 33(2): 183-196.
Muhly, James D. 1988. The beginnings of metallurgy in the Old World. Pp. 2-20
in The Beginning of the Use of Metals and Alloys. R. Maddin, ed. Cambridge: M.I.T. Press.
Natapintu, Surapol 1992. Current Archeological Research in Central Thailand with Special Reference to the Site of Phu Noi, Lopburi Province. Paper presented at the 4th International Congress of the European Association of South East Asian Archaeologists, Rome.
Osborne, Milton 1975. River Road to China: The Mekong River Expedition, 1866-73. London: George Allen & Unwin.
Peebles, Christopher S., and Susan M. Kus 1977. Some archaeological correlates of ranked societies. American Antiquity 42:421-448.
Pigott, Vincent C , and Surapol Natapintu 1988. Investigating the origins of metal use in prehistoric Thailand. In the Proceedings of the Conference on Ancient Chinese and Southeast Asian Bronze Age Cultures, Kioloa, New South Wales. N. Barnard, ed. Canberra: Australian National University.
Pigott, Vincent C , Andrew D. Weiss, and U. Theetiparivatra 1995. The archaeology of copper production: excavations in the Khao Wong Prachan Valley, central Thailand. In the Proceedings of the Fifth Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Rome, Italy.
Scott, George P.1991. Introduction: self-organization science and the interdisciplinary tower of Babel syndrome. Pp. 3-20 in Time, Rhythms, and Chaos in the New Dialogue with Nature. G.P. Scott, ed. Ames: Iowa State University Press.
Sedov, Leonid A. 1978. Angkor: society and state. Pp. 111-130 in The Early State. H.J.M. Claessen and P. Skalnik, eds. New York: Mouton.
Serensen, Per 1967. Archaeological Excavations in Thailand: The Thai-Danish Prehistoric Expedition 1960-62, vol. 2, part 1. Copenhagen: Munksgaard.
Stargardt, Janice 1990. The Ancient Pyu of Burma: Early Pyu Cities in a Man-made Landscape, vol. 1. Cambridge: Publications on Ancient Civilization in South East Asia.
Stark, Miriam T. 1992. From Sibling to Suki: social and spatial relations in Kalinga pottery exchange. Journal of Anthropological Archaeology 2(10:137-151.
Suchitta, Pornchai 1983. The History and Development of Iron Smelting Technology in Thailand. Ph.D. dissertation, Department of Anthropology, Brown University.
Tainter. Joseph A. 1978. Mortuary Practices and the Study of Prehistoric Social Systems. In Advances in Archaeological Method and Theory, Volume I, edited by Michael B. Schiffer, pp. 105-141. Academic Press, New York.
Taylor, Keith W. 1992. The early kingdoms. Pp. 137-182 in The Cambridge History of Southeast Asia. N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press.
Vallibhotama, Srisakra 1991. Bronze-Iron Age Foundation for the Origin of the State of Chenla. Paper presented at the Conference on the High Bronze Age of Southeast Asia and South China, Hua Hin, Thailand,
van Liere, W.J. 1980. Traditional water management in the Lower Mekong Basin. World Archaeology 11(3):265-280.
Vincent, Brian 1984. The petrographic analysis of prehistoric pottery from Ban
Na Di and related sites. Pp. 644-697 in Prehistoric Investigations in Northeast Thailand, part 3.
Higham C. and A. Kijngam, eds. 1988. Prehistoric Ceramics of Northeastern Thailand, with Special Reference to Ban Na Di, part xiii. Oxford: BAR International Series 461. Oxford: BAR International Series 231.
Welch, David J., and Judith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phimai region, Thailand. Pp. 210-228 in Indo-Paciftc Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.
Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia. Pp. 288-303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R.B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press. 1983 Nagara and Commandery: Origins of the Southeast Asian Urban Traditions. Chicago: University of Chicago, Department of Geography, Research Paper 207-208.
White, Joyce Carol 1982. Ban Chiang: Discovery of a Lost Bronze Age. Philadelphia: The University Museum, University of Pennsylvania and the Smithsonian Institution Traveling Exhibition Service.
White, Joyce Carol 1986. A Revision of the Chronology of Ban Chiang and Its Implications for the Prehistory of Northeast Thailand. Ph.D. dissertation. University of Pennsylvania, Department of Anthropology. Ann Arbor: University Microfilms International.
White, Joyce Carol 1988. Early east Asian metallurgy: the southern tradition. Pp. 175-181 in The Beginning of the Use of Metals and Alloys. Robert Maddin, ed. Cambridge: MIT Press.
White, Joyce Carol 1990. Rice Cultivation and Social Development in Thailand. Paper presented at the Annual Meeting, American Anthropological Association, New Orleans.
White, Joyce Carol 1995. Modeling the development of early rice agriculture: ethnoecological perspectives from northeast Thailand. Asian Perspectives 34(l):37-68.
White, Joyce Carol, and Vincent C. Pigott 1995. From community craft to regional specialization: intensification of copper production in pre-state Thailand. In Craft Specialization and Social Evolution. B. Wailes, ed. Philadelphia: University of Pennsylvania Museum Monographs.
White, Joyce Carol, William Vernon; Stuart Fleming, William Glanzman, Ron Hancock, and Andrew Pelcin 1991. Preliminary cultural implications from initial studies of the ceramic technology at Ban Chiang. Pp. 188-203 in Indo-Pacific Prehistory 1990. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.
Wicks, Robert S. 1992. Money, Markets and Trade in Early Southeast Asia: The Development of Indigenous Monetary Systems to AD 1400. Ithaca: Cornell University Southeast Asia Program.
Winichakul, Thongchai 1994. Siam Mapped: A History of the Geo-body of a Nation. Honolulu: University of Hawaii Press.
Winzeler, Robert L, 1976. Ecology, culture, social organization, and state formation in Southeast Asia. Current Anthropology 17(4): 623-640.
Wolters, O.W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.