NLC: Rất nhiều nhà phê bình đã từng đánh giá, so với các đạo diễn Việt Nam thuộc thế hệ trước và thế hệ cùng thời với ông, ông có một phong cách riêng khác hẳn với những cách tư duy mới về chiến tranh, xã hội và con người. Ông đã phá vỡ được lối mòn cũ và mở ra được một lối thể hiện mới đầy sáng tạo và táo bạo. Ông có nhận thấy thế không? Yếu tố nào đã tác động giúp ông thực hiện được điều này?
Đạo diễn ĐNM: Tôi đến với điện ảnh là do tình cờ, run rủi của số phận, hoàn toàn không có sự chuẩn bị từ trước. Tôi không hề được đào tạo điện ảnh ở Liên Xô, Trung Quốc hay ở trong nuớc như tất cả các đạo diễn Việt Nam khác. Do vậy tôi phải tự tìm hiểu cái nghề này theo cách riêng của mình. Nếu có ai đó nhận thấy trong sáng tác của tôi có cái gì đó không giống với những đồng nghiệp đi trước hoặc cùng thời, có lẽ là do đặc điểm trên.
Khi tôi bước chân vào điện ảnh (những năm 60), nền văn nghệ Việt Nam là một nền văn nghệ phục vụ công nông binh không khác gì bên Trung Quốc thời đó vậy. Tôi cũng được giao làm vài phim như vậy và rồi tự thấy vô cùng chán ngán cái thứ phim ảnh kiểu này. Chúng hoàn toàn xa lạ với tôi. Đã có lúc tôi toan từ giã nó. Nhưng rồi có người khuyên nếu không thích làm những phim như vậy thì thử viết cái mà mình thích, mình cảm thấy rung động xem sao. Nếu không được, hãy từ giã cũng chưa muộn. Bộ phim đầu tiên do tôi tự viết kịch bản rồi tự đạo diễn có tên là Thị xã trong tầm tay được viết ra trong hoàn cảnh đó. May sao không khí văn nghệ hồi đó đã bắt đầu cởi mở hơn nên bộ phim đã được trên cho làm. Sau phim đó tôi quyết định không từ bỏ điện ảnh nữa mà thấy có thể tiếp tục làm phim với điều kiện kịch bản phải do mình tự viết ra, nói về những điều mà mình quan tâm muốn giãi bầy cùng người xem. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy yếu tố quan trọng đã giúp tôi tìm ra con đường đi riêng cho mình là: Biết cương quyết khước từ những cái mà mình không thích, cho dù những cái đó được khích lệ và cổ xuý rùm beng. Khi đã biết khước từ thì ắt sẽ tìm được cái gì đó riêng cho mình.
NLC: Trong quá trình“mở đường” này, ông thường vấp phải những khó khăn lớn gì và cách giải quyết ra sao?
Đạo diễn ĐNM: Con đường mà tôi đã chọn không giống ai nên tôi gặp khó khăn, trở ngại là chuyện đương nhiên. Cho đến nay, tất cả những phim tôi làm ra, ở trong nước không bao giờ được coi là dòng phim chính thống của Điện ảnh Việt Nam. Người ta cho tôi được làm là may mắn lắm rồi (có phim còn bị một vị lãnh đạo cao cấp của Đảng phê phán công khai, sau đó không ai dám chiếu nữa như phim Cô gái trên sông, hay bị báo chí nhất loạt phê phán như phim Thương nhớ đồng quê chẳng hạn...). Trong đội ngũ làm phim chính thống ở Việt Nam không có tên tôi. Trường đại học sân khấu điện ảnh ở Việt Nam chưa bao giờ mời tôi giảng dậy hoặc nói chuyện với sinh viên.
NLC: Ông cho rằng phim của ông thuộc phong cách gì? Có phải là phong cách phim tự sự như mọi người thường gọi? Điều gì đã khiến ông đi theo phong cách này? Vô tình hay cố ý?
Đạo diễn ĐNM: Khi quyết định tiếp tục làm điện ảnh, không có ý định từ giã nó nữa thì tôi tự xác định cho mình một cách có ý thức rằng: mỗi một phim do tôi tự viết kịch bản rồi tự làm đạo diễn phải là những lời tâm sự với ngưòi xem về những vấn đề mà tôi quan tâm, về những nỗi niềm mà tôi xúc động trong cuộc sống. Nếu những lời tâm sự đó được người xem đồng cảm thì tôi thấy thật hạnh phúc. Còn nếu không thì đành chịu, nhưng dầu sao tôi cũng đã thành thật với chính mình. Tôi không biết gọi đó là phong cách gì.
NLC: Trong quá trình hình thành và xây dựng phong cách làm phim của mình, ông thường chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ lĩnh vực nào? Từ người nào?
Đạo diễn ĐNM: Như trên tôi đã nói: tôi không được đào tạo chính quy về điện ảnh ở Nga, cũng không ở Trung quốc, và cũng không ở Việt Nam với các giảng viên hầu hết là tốt nghiệp ở Nga hoặc Trung Quốc. Do đó ảnh hưởng của những nền điện ảnh đó ở trong tôi không có. Ảnh hưởng lớn nhất đối với các sáng tác điện ảnh của tôi lại là thơ ca Việt Nam và đặc biệt là kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam. Trong văn học người tôi chịu ảnh hưởng nhiều nhất là nhà văn Thạch Lam, một nhà văn của những năm 30 - 45 trước Cách mạng. Trong điện ảnh thì bộ phim làm tôi bị sốc và có ấn tượng mạnh mẽ nhất là phim Hiroshima - mối tình của tôi của đạo diễn ngưòi Pháp Alain Resnais mà tôi được xem vào năm 1963. Đến năm 1987 tôi lại bịmột cú sốc nữa sau khi xem phim Câu chuyện Tyokyo của đạo diễn người Nhật OZU. Đó là hai phim đã để lại cho tôi những ảnh hưởng sâu sắc nhất trong phong cách làm phim của mình sau này. Đương nhiên tôi cảm thấy rất gần gũi với những phim của Trương Nghệ Mưu (trước khi làm phim Anh hùng) như Thu Cúc đi kiện, Không thiếu một em hay Cha mẹ tôi ..... cũng như phim Hoàng thổ của Trần Khải Ca. Ngoài ra tôi cũng rất phục những phim của đạo diễn người Ba lan Andrzej Wajda và đạo diễn người Iran Abba Kiarostami.
NLC: Ông có cho rằng phong cách làm phim của ông đã tác động mạnh tới các đạo diễn Việt Nam thế hệ sau không? Nếu có, ông vui hay buồn?
Đạo diễn ĐNM: Tuy không một đạo diễn nào nói ra nhưng xem phim của một số đạo diễn trẻ tôi nhận thấy họ có tìm hiểu kỹ những phim mà tôi đã làm và không ít trường hợp đã lặp lại trong một vài tình huống. Điều đó làm tôi cũng vui mà cũng buồn. Tôi muốn họ giống như tôi trước đây khi còn trẻ: Biết khước từ những cái đã có...
NLC: Theo ông, thế nào để được gọi là phong cách của một đạo diễn? Phải chăng đó sự khẳng định cái tôi của đạo diễn một cách đậm nét?
Đạo diễn ĐNM: Tôi rất tâm đắc với một câu nói của một đạo diễn Châu Âu (tôi quên mất tên) nói rằng: “Đạo diễn không phải là một nghề. Đó là một nhân sinh quan, một cách nhìn sự vật”. Càng ngày tôi càng nghiệm thấy ý nghĩa sâu sắc của câu nói đó.
NLC: Nếu người đạo diễn không có phong cách riêng sẽ trở thành bi kịch? Vậy để tạo dựng được phong cách riêng, người đạo diễn cần có những điều kiện tiên quyết gì?
Đạo diễn ĐNM: Ở Việt Nam có một nhà thơ tên là Phùng Quán. Năm 1957 ông có viết một bài thơ có tên là Lời mẹ dặn trong đó có mấy câu như sau: “Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét / Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét / Dù ai cầm dao doạ giết / Cũng không nói ghét thành yêu”. Điều kiện tiên quyết để người đạo diễn có được một phong cách riêng (mà không cứ chỉ đạo diễn) là làm đúng như ông nhà thơ này đã viết.
NLC: Để đảm bảo được phong cách của mình, ông đã phải làm gì?
Đạo diễn ĐNM: Là cố giữ mình là mình không những chỉ trong sáng tác mà cả trong cuộc sống.
Phần 2: Về Kịch bản điện ảnh và kịch bản văn học
NLC: Từ lúc cấu tứ cốt truyện cho tới khi viết được một kịch bản hoàn chỉnh, ông thường phải mất bao nhiêu thời gian? Có những tác động gì trong cuộc sống khiến ông nảy sinh ra những câu chuyện như vậy?
Đạo diễn ĐNM: Tất cả những kịch bản do tôi tự viết ra rồi tự thực hiện đều xuất phải từ những trải nghiệm của bản thân mình, lục ra từ trong ký ức của mình (nhưng không phải nguyên si là nhưng hồi ức cá nhân). Tôi không đi quan sát, thâm nhập thực tế ghi ghi chép chép như người ta vẫn thường làm. Thực tế nó tự vào trong tôi lúc nào không biết. Nếu gọi là đi thực tế thì tôi đi thực tế ngay trong tiềm thức của chính mình, rồi từ đó tôi hình thành lên câu chuyện. Lúc viết ra ban đầu thường rất nhanh, viết một mạch, đôi khi chỉ trong 3 tuần. Sau đó đánh máy, đọc lại, gọt rũa, chỉnh lý lại cấu trúc, đưa bạn bè góp ý, sửa chữa, thêm bớt v.v..... Thời gian này khá lâu, nhất là khi chờ Hội đồng duyệt kịch bản của Cục Điên ảnh góp ý bắt sửa...., có khi kéo dài dến 2 năm. Kinh nghiệm cho tôi thấy cái mình viết ra ban đầu rất nhanh ấy lại là cái hay nhất, chính xác nhất.
NLC: Là một người đã từng viết truyện, viết báo, lại tự viết kịch bản điện ảnh, chắc hẳn ông rất yêu thích văn học? Ông thường đọc các tác phẩm thuộc thể loại gì? Nhà văn nào có ảnh hưởng lớn đến ông?
Đạo diễn ĐNM: Thú thực nếu không làm điện ảnh có lẽ tôi sẽ đi viết văn và tôi cũng đang có ý định sẽ viết một cuốn tiểu thuyết về một lớp người trí thức đi theo Cách mạng như cha tôi GS BS Đặng Văn Ngữ năm 1949 từ Tokyo tìm đường trở về Chiến khu Việt Bắc theo Kháng chiến rồi đến năm 1967 hy sinh trong một trận bom B52 ở chiến trường Trị Thiên Huế trong khi đang tìm cách cứu chưa bệnh sốt rét cho bộ đội. Lớp người trí thức này chưa ai nói tớí trong văn học. Trong văn học Việt Nam chỉ mới nói đến những tầng lớp nghèo khổ đi theo Cách mạng để được sung sướng đổi đời thôi. Có nhà văn nào đó đã từng nói: “Trong khi anh cảm thấy bất lực, không có cách gì khác, thì hãy cầm lấy bút”. Tôi đã nhiều lấn cảm thấy bất lực như vậy và đã cầm lấy bút viết ra một số truyên ngắn, bút ký đăng trên các tạp chí.... Có nhiều ngưòi khuyên tôi nên tiếp tục viết văn và tôi sẽ thực hiện điều đó.
NLC: Những câu chuyện trong các bộ phim của ông có phải được bắt nguồn từ những câu chuyện có thật trong cuộc sống hay là do ông hư cấu tưởng tượng ra?
Đạo diễn ĐNM: Có chuyện thật, có hư cấu nhưng tất cả phải dựa trên ký ức. Đạo diễn Fellini trong cuốn Tôi - Fellinicó viết: “Khi tôi quay một cái ghế hay một con chó, thì cái ghế và con chó đó cũng đều từ trong ký ức của tôi”.
NLC: Theo ông, để có được một nội dung phim sinh động và hấp dẫn cần phải được bắt nguồn từ thực tế cuộc sống hay từ trí tưởng tượng phong phú của nhà biên kịch?
Đạo diễn ĐNM: Thú thực khi sáng tác (lúc viết kịch bản cũng như khi ở hiện trường làm phim) tôi không có ý thức rõ rệt đâu là kinh nghiệm mà mình đã có trong cuộc sống và đâu là do mình tưởng tượng ra. Có thể cả hai cùng đến một lúc một cách rất vô thức. Trường phái Hiện thực Xã hội chủ nghĩa rất hay đề cao vai trò của thực tế cuộc sống. Nhưng nghệ thuật đâu phải làm việc sao chép hiện thực cuộc sống?
NLC: Điện ảnh Việt Nam hiện nay đang thiếu những đề tài gì? Lý do? Có phải do đầu óc sáng tác của các nhà biên kịch còn yếu kém hay là tại nền văn học Việt Nam không phát triển?
Đạo diễn ĐNM: Tôi nghĩ nếu có ai đó làm một luận văn nghiên cứu về đề tài này sẽ rất hay và bổ ích. Đó là ảnh hưởng của nền văn nghệ phục vụ công nông binh (mà tôi tạm gọi là nền văn nghệ Diên An) đối với văn nghệ Việt Nam bắt đầu những năm 50. Trước đó văn học nghệ thuật Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hoá Trung Hoa cổ đại trong một thời gian dài, rồi đến ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp. Những ảnh hưởng đó đã làm phong phú thêm cho sáng tác văn học ở Việt Nam rất nhiều. Rất nhiều trường phái nghệ thuật mới mẻ, tiên phong, ra đời (Thời kỳ Thơ Mới những năm 30-40 chẳng hạn). Nhưng rồi từ khi du nhập nền văn nghệ Diên An vào thì văn nghệ Việt Nam đi theo một con đường khác hẳn. Đó là một tai hoạ, tôi nói điều này không sợ các bạn Trung Quốc phật lòng vì chính họ là những người nhận ra cái tai hoạ đó đầu tiên. Những người làm văn nghệ Trung Quốc đã quyết tâm từ giã nó nên mới có những chuyển biến kỳ diệu trong văn học cũng như trong điện ảnh những năm gần đây. Tiếc rằng những điều đó chưa được nhận thức đầy đủ ở Việt Nam. Điện ảnh Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung đó.
NLC: Ông có bài trừ việc chuyển thể các tác phẩm văn học thành kịch bản điện ảnh không? Ông có cho rằng nếu chuyển thể kịch bản, các nhà biên kịch điện ảnh dễ bị ỷ lại vào nguyên tác văn học, khó có thể phát huy óc sáng tạo và trí tưởng tượng của mình?
Đạo diễn ĐNM: Đạo diễn Trương Nghệ Mưu không bao giờ tự viết kịch bản, mà phần lớn là làm phim chuyển thể theo truyện ngắn truyện vừa do người khác viết... và đã rất thành công. Nhưng tôi biết ông không bao giờ lệ thuộc hoàn toàn vào nguyên bản. Ông có sáng tạo riêng của ông.
NLC: Theo ông, đối với một đạo diễn, việc sử dụng kịch bản điện ảnh thuần tuý với kịch bản điện ảnh được chuyển thể từ tác phẩm văn học có gì khác biệt lắm không? Cái nào khó hơn? Nếu là ông, ông thích chọn bên nào?
Đạo diễn ĐNM: Tôi tự viết lấy kịch bản 8 phim và tự chuyển thể từ truyện ngắn của nhà văn một phim . Cả hai đều do tôi tự làm nên cũng chẳng thấy có gì khác biệt lắm. Cái chuyện ngắn mà tôi chuyển thể rất sơ sài, chỉ có 5 trang sách. Tôi thích nó vì trong đó có một không gian mà tôi cho là rất điện ảnh, có những tính cách nhân vật lạ. Nhưng nó chỉ như một cái bình rượu đẹp , còn đựng rượu gì trong bình tôi phải chế tạo lấy. Dù tự viết hay chuyển thể thì cái phần sáng tạo của mình vẫn là cái quyết định. Nếu có ai cho tôi được ước một điều, thì tôi ước rằng sau một đêm ngủ dậy, thấy nằm trên bàn mình một kịch bản phim thật hay, khi đọc xong chỉ muốn đem ra quay ngay không cần nghĩ ngợi gì cả. Nhưng tôi chắc điều ước đó không bao giờ thành.
NLC: Theo ông, một đạo diễn giỏi với một kịch bản dở và một đạo diễn dở với một kịch bản hay có tạo ra được một bộ phim hay không?
Đạo diễn ĐNM: Trong trường hợp này sẽ tạo ra được một bộ phim không hay mà cũng không dở.
Phần 3: Về công đoạn làm phim
NLC: Có người cho rằng, một bộ phim sau khi hoàn thành xong nếu bảo đảm được 80% ý đồ vốn có của đạo diễn đã được coi là thành công. Ông có nhất trí với quan điểm này không? Vì sao?
Đạo diễn ĐNM: Hoàn toàn nhất trí. Nếu được cả 100% thì là lý tưởng.
NLC: Ông thường mất bao nhiêu thời gian để chọn cảnh cho một bộ phim? Và trung bình mất bao nhiêu đúp phim cho một cảnh quay? Máy quay mà ông thường sử dụng là máy gì?
Đạo diễn ĐNM: Thời gian chọn cảnh tuỳ thuộc vào từng phim, có phim chọn lâu, có phim chọn mau. Tỷ lệ phim sống ở Việt Nam được quy định rất ngặt nghèo: 1/3. Có nghĩa là độ dài của phim 1000m thì được lĩnh 3000m phim sống để quay. Do vậy một cảnh tối đa tôi chỉ quay 5 đúp là cùng. Máy quay thường sử dụng ở Việt Nam trước đây là CONVAT cầm tay của Liên Xô. Hiện nay là ARIFLEX 4 của Tây Đức.
NLC: Một cảnh quay cần phải đảm bảo được những yếu tố nào thì được coi là OK?
Đạo diễn ĐNM: Phải đảm bảo cái hồn của cảnh quay. Khi tất cả đèn được bật sáng ,diễn viên diễn lần cuối cùng trước khi quay chính thức, tôi thường ngồi vào vị trí của ngườì quay phim. Nhìn qua viseur của máy quay, tôi chính là người khán giả đầu tiên của cảnh quay ấy (tôi thích nhìn qua viseur của máy quay hơn là qua màn hình nhỏ của moniteur). Nếu tôi thấy cảnh quay có hồn thì tôi sẽ cho quay. Ngược lại, tôi phải suy nghĩ bằng mọi cách để tổ chức lại hình ảnh đó cho có hồn rồi mới quay.
NLC: Một công đoạn làm phim cần phải đảm bảo được những yếu tố nào thì được coi là OK?
Đạo diễn ĐNM: Tất cả mọi yếu tố làm nên một bộ phim.
NLC: Bí quyết gì khiến ông tạo nên được những tác phẩm điện ảnh thành công đến vậy, mặc dù không hề được đào tạo chính thống về điện ảnh? Ông đã tự học cách làm phim từ đâu? Hãy đưa ra lời khuyên cho các đạo diễn trẻ mới vào nghề?
Đạo diễn ĐNM: Trước hết tôi không dám nhận rằng tất cả các phim mà tôi đã làm đều thành công. Tôi ít khi xem lại những phim của mình vì cái cảm giác tiếc nuối, ân hận về sự chưa hoàn chỉnh của nó (có phần do lỗi của tôi, có phần do những cộng sự của tôi đã không làm được như tôi yêu cầu). Ở Việt Nam có câu ngạn ngữ: Không thầy đố mầy làm nên. Thầy của tôi là tác giả của những bộ phim mà tôi yêu thích, là tác giả của những cuốn sách mà tôi say mê. Do vậy tôi có rất nhiều thầy không những chỉ ở trong mà cả ngoài nước (phần lớn là ở ngoài nước). Trong tôi không bao giờ có khái niệm đào tạo chính thống và không chính thống. Đào tạo nào cũng là đào tạo miễn nó mang lại hiệu quả. Nếu có lời khuyên cho các đạo diễn trẻ mới vào nghề ở Việt Nam, thì tôi khuyên họ nên tự mình chứng minh với mọi nguời rằng: điện ảnh còn là thế này nữa. Đừng bắt chước những người đi trước, dù là bắt chước cái hay của họ.
NLC: Nghe nói, ông đã từng cộng tác làm phim với một số đạo diễn quốc tế, gần đây nhất là lần làm phim Người Mỹ Trầm Lặng, vậy ông thấy công đoạn làm phim của Việt Nam có gì quá khác biệt với công đoạn làm phim của các nước khác? Làm thế nào để rút ngắn được khoảng cách và những khác biệt đó?
Đạo diễn ĐNM: Năm 2000 tôi được đạo diễn Philippe Noyce mời làm đạo diễn của đội quay thứ hai (Second unit director) trong phim Người Mỹ trầm lặng. Cái khác biệt quan trọng giữa một đoàn làm phim Mỹ và một đoàn làm phim Việt Nam là: một bên kinh phí làm phim là của tư nhân và một bên là của nhà nước. Ngoài ra còn một sự khác biệt nữa giữa một đạo diễn Việt Nam như tôi và một đạo diễn Hollywood như Philippe Noyce là ở chỗ: Ông ta nghĩ 10 thì thực hiện được 10 và tôi nghĩ 10 thì thực hiện được 5, 6 là cùng. Những ý tưởng ông ta phóng ra lập tức cả đoàn phim tìm mọicách thực hiện bằng được. Ở đây yếu tố kinh phí, tiền của, phương tiện vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trọng. Nhưng không phải chỉ có thế. Nó còn là trách nhiệm sống còn của những người tham gia làm phim. Nếu họ làm không tròn sẽ không ai mời họ đi làm phim tiếp theo nữa, họ sẽ bị thất nghiệp. Còn trong một đoàn làm phim Việt Nam thì khác. Không có ai bị đuổi việc vì vô trách nhiêm. Một khi họ đã được hãng phim nhận vào biên chế chính thức rồi thì đến 60 tuổi họ mới về hưu. Do vậy, ở Việt Nam người đạo diễn phải thuyết phục, dỗ dành những thành phần làm phim khác, đặc biệt với chủ nhiệm phim là người cầm tiền của nhà nước nhưng luôn nghĩ cách chi thật ít mà làm sao phim vẫn hoàn thành trong một thời gian ngắn nhất. Phim hay hay dở đối với họ không quan trọng. Chỉ khi nào tư nhân hoá việc làm phim thì mới xoá bỏ được tình trạng tệ hại đó. Chính phủ Việt Nam hiện đang có chủ trương cổ phần hoá các Hãng phim Nhà nước.
Phần 4: Về vai trò của người đạo diễn
NLC: Ở Việt Nam, người đạo diễn có vai trò như thế nào trong xã hội? Nghe nói, một đạo diễn phim (kể cả phim truyện nhựa, phim tài liệu hay phim truyền hình) đều phải kiêm rất nhiều nghề? Ông có ở trường hợp ngoại lệ không?
Đạo diễn ĐNM: Nền điện ảnh Việt Nam là một nền điện ảnh công chức. Đại diện cho nền điện ảnh công chức đó là người có cương vị hành chính cao nhất (Cục truởng, Cục phó Cục Điện ảnh chẳng hạn). Người đạo diễn trong xã hội chẳng qua cũng như một anh công chức ăn lương nhà nước như bao công chức nhà nước trong các cơ quan khác .Những công chức này cũng xoay xở đủ kiểu để tăng thu nhập. Ngày nay ở Việt Nam không ai nói đạo diễn điện ảnh và truyền hình là nghèo. Rất nhiều người có xe hơi riêng, nhà vila, biệt thự. Đó là những biên kịch, đạo diễn, quay phim làm phim thương mại, phim truyền hình nhiều tập, làm video clip ca nhạc hay làm phim phục vụ những ngày lễ lớn với những kinh phí có khi lên tới 1 triệu USD . Ngoài điện ảnh tôi còn có một công việc say mê khác là làm báo. Tôi cộng tác với nhiều báo trong nước và hiện là Tổng biên tập của tờ tạp chí của Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài.
NLC: Theo ông, một đạo diễn đa chức năng, cùng một lúc làm được rất nhiều nghề là điều đáng mừng hay đáng lo? Vì sao?
Đạo diễn ĐNM: Ngạn ngữ Việt Nam có câu: Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Nếu có làm một lúc nhiều nghề thì những nghề đó nên là những nghề gần gũi nhau để có thể bổ sung cho nhau.
NLC: Nếu xếp thứ tự vị trí và vai trò cho các thành viên trong đoàn làm phim, ông sẽ đặt đạo diễn vào vị trí thứ mấy? Tiếp đó là ai?
Đạo diễn ĐNM: Đạo diễn như người chỉ huy toàn bộ dàn nhạc. Các thành phần khác trong dàn nhạc, từ người chơi vĩ cầm số 1 cho đến anh đánh trống đều quan trọng như nhau, một người chơi sai đều ảnh hưởng đến cả dàn nhạc Mặc dầu vậy có những thành phần trong đoàn phim, người đạo diễn phải dành thì giờ làm việc với họ nhiều hơn như quay phim, hoạ sỹ thiết kế, hoặc các diễn viên chính.
NLC: Với tư cách là một đạo diễn, điều kiện tuyển chọn quay phim và diễn viên chính của ông là gì?
Đạo diễn ĐNM: Thú thực các quay phim ở Việt Nam rất yếu, lạc hậu rất nhiều so với thế giới nhất là về phần bố trí ánh sáng. Do vậy khi tôi chọn quay phim điều kiện đầu tiên phải là người biết nghe lời đạo diễn. Còn khi chọn diễn viên thì trước hết họ phải đúng như tôi đã hình dung trong đầu từ khi đặt bút viết kịch bản trên giấy.
NLC: Theo ông, quan hệ giữa đạo diễn với các thành viên khác trong đoàn làm phim nên là mối quan hệ phục tùng khắt khe giữa ông chủ với người làm hay là mối quan hệ phụ thuộc, hoà nhã, không mất lòng nhau?
Đạo diễn ĐNM: Tôi thích cái quan hệ phục tùng hơn là cái quan hệ phụ thuộc. Dĩ nhiên muốn có cái quan hệ phục tùng thì người đạo diễn phải là người có uy tín đối với những người cộng sự, được họ kính nể, tin tưởng. Nếu không được như vậy thì tốt nhất là áp dụng mối quan hệ phụ thuộc .
NLC: Hãy kể về cách chỉ đạo thông thường giữa ông với nhà quay phim? với diễn viên?
Đạo diễn ĐNM: Trong tất cả các phim mà tôi đã làm, các góc độ máy, kích cỡ khuôn hình , sử dụng ống kính rộng hay hẹp ,sự di chuyển của máy quay đều do tôi quyết định. Riêng phần bố trí ánh sáng thì tôi không trực tiếp làm mà chỉ bàn bạc, đề ra yêu cầu dối với ngườiquay phim. Tôi ước ao có ngày nào đó vừa làm đạo diễn vừa tự quay cho bộ phim của mình. Tôi chưa bao giờ hài lòng về công tác quay phim trong các phim mà tôi đã làm. Còn đối vối các diễn viên tôi luôn tìm cách đưa họ vào cái trạng thái tâm hồn của nhân vật. Khi đã đặt họ vào đúng cái trạng thái đó rồi thì họ khắc diễn một cách thoải mái và chính xác.
NLC: Nguyên tắc của ông khi đạo diễn một bộ phim?
Đạo diễn ĐNM: Là những hình ảnh chủ yếu của bộ phim tương lai phải có sẵn ở trong đầu rõ mồn một như bộ phim đang được chiếu trong đầu mình vậy.
NLC: Có người cho rằng “Đạo diễn là linh hồn của một bộ phim” nhưng có người lại cho rằng “Biên kịch mới là linh hồn của một bộ phim”. Theo ông, ý kiến nào chính xác hơn? Giữa đạo diễn và biên kịch, ai quan trọng hơn ai?
Đạo diễn ĐNM: Bởi vì tôi là người tự viết lấy kịch bản cho mình , nên đối với tôi linh hồn của bộ phim là cả hai: người biên kịch và người đạo diễn.
NLC: Mọi người thường nói “Qua một tác phẩm điện ảnh có thể thấy rõ người sáng tạo ra nó là người như thế nào, hoặc chí ít cũng thấy được tâm trạng và suy nghĩ của đạo diễn lúc đó ra sao”. Ông có nhất trí với quan điểm này không? Vì sao?
Đạo diễn ĐNM: Ở Việt Nam có câu ngạn ngữ “Văn là người”. Câu này hoàn toàn có thể áp dụng cho điện ảnh: “Phim là người”.
NLC: Trong thực tế, có nhiều bộ phim lại trái ngược hẳn với tư chất của người đạo diễn ở ngoài đời, khiến không ít người phải ngạc nhiên vì bất ngờ. Chẳng hạn: phim mạnh mẽ còn đạo diễn thì yếu ớt, phim sôi nổi còn đạo diễn lại lạnh lùng, phim nồng nàn còn đạo diễn lại cô đơn…Ông nhìn nhận điều này ra sao?
Đạo diễn ĐNM: Cái sự khác nhau giữa phim và con người làm ra nó ở ngoài đời chỉ là sự khác nhau nhìn từ bên ngoài. Cái toát ra từ bộ phim mới là cái tư chất đích thực của người đạo diễn .
NLC: Ông thấy giữa phim của ông và con người thực của ông có điểm đồng nhất với nhau không?
Đạo diễn ĐNM: Phim của tôi chính là con người tôi, cho dù có phim hay phim dở, cũng như con người tôi, có lúc hay và cũng có lúc dở.
NLC: Có bao giờ ông đã ân hận vì làm đạo diễn không? Nếu có cơ hội được chọn lại, ông sẽ chọn nghề gì?
Đạo diễn ĐNM: Cha tôi là một bác sỹ y khoa chuyên nghiên cứu về ký sinh trùng và côn trùng. Ông đã từng du học sau đại học ở Nhật bản trong 7 năm để nghiên cứu về nấm và là người đầu tiên đã tìm ra trong phòng thí nghiệm ở Nhật một thứ nấm có khả năng tiết ra chất Peniciline. Năm 1949 ông trở về Việt Nam, tham gia Kháng chiến chống Pháp và đã sản xuất thành công trong rừng rậm Việt bắc một thứ nước lọc Peniciline cứu chữa các vết thương cho bộ đội rất có hiệu quả. Cha tôi mong tôi nối nghiệp ông, nhưng do hoàn cảnh khách quan mà nguyện vọng đó của cha tôi đã không thành.. Tôi không ân hận vì đã làm đạo diễn, nhưng nếu được chọn lại tôi sẽ chọn nghề Y để nối nghiệp cha tôi . Có một điều làm tôi được an ủi phần nào đó là nghề Y và nghề đạo diễn đều có chung một mối quan tâm: đó là những con ngưòi bất hạnh.
Phần 5: Về đạo diễn độc lập và hãng phim tư nhân
NLC: Theo ông, những yếu tố cần và đủ nào để tạo nên một đạo diễn độc lập?
Đạo diễn ĐNM: Khái niệm đạo diễn độc lập được xuất hiện đầu tiên là ở Mỹ, để chỉ những đạo diễn không lệ thuộc vào guồng máy của Holywood. Phần đông các đạo diễn này tập trung ở New York, nên còn được gọi là trường phái New York. Đó là những đạo diễn thoát ra khỏi sự lệ thuộc của phim thương mại, lấy chủ đích là những tìm tòi về hình thức biểu hiện của điện ảnh, làm phong phú thêm ngôn ngữ điện ảnh. Kinh phí của những phim đó rất nhỏ, phần lớn do những người làm phim tự bỏ ra nên họ không bị lệ thuộc vào nhà sản xuất Nội dung của những phim đó không đóng vai trò quan trọng, cũng không phản ánh hiện thực xã hội nào, dĩ nhiên có phản ánh thì đó là cuộc sống đời thường.
NLC: Ở Việt Nam có đạo diễn độc lập không? Vì sao?
Đạo diễn ĐNM: Ở Việt Nam đương nhiên không có đạo diễn độc lập đúng với nghĩa đó và ngay ở Trung Quốc tôi nghĩ cũng không có, kể cả Trương Nghệ Mưu lẫn Trần Khải Ca cũng không phải là những người làm phim độc lập. Họ vẫn phải lệ thuộc vào nhà sản xuất.
NLC: Đạo diễn độc lập có phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay không? Có nên khuyến khích sự ra đời và phát triển các đạo diễn độc lập như một trào lưu không?
Đạo diễn ĐNM: Rất nên khuyến khích nhất là với máy quay kỹ thuật số tiện lợi như ngày nay. Đã có người nói đó là nghệ thuật thứ 8.
NLC: Việc ra đời và tồn tại của các đạo diễn độc lập có tác động gì tới thị trường sản xuất và tiêu thụ phim không? Nếu có, tác động ra sao?
Đạo diễn ĐNM: Các đạo diẽn độc lập làm phim với kinh phí ít ỏi của mình. Làm xong phần nhiều đem giới thiệu tại các Liên hoan phim là chính. Nếu có nhà phát hành phim nào mua thì cũng mua vói giá rẻ như bèo. Do đó sự tồn tại của các đạo diễn độc lập chẳng có tác động gì tới thị trường tiêu thụ phim ảnh cả. Thị trường này nằm trong tay của Hollywood là chính (90%).
NLC: Khái niệm về đạo diễn độc lập có mối quan hệ gì với khái niệm về hãng phim tư nhân không?
Đạo diễn ĐNM: Bản thân mỗi một đạo diễn độc lập là một hãng phim tư nhân.
NLC: Ở Việt Nam hiện có bao nhiêu hãng phim tư nhân? Tình hình về những hãng đó ra sao?
Đạo diễn ĐNM: Nghe đâu từ khi Chính phủ Việt Nam cho phép thành lập các hãng phim tư nhân đến nay đã có 40 hãng ra đời trên danh nghĩa.
NLC: Nếu tư nhân trong nước hoặc nước ngoài đầu tư làm phim ở Việt Nam, ông nghĩ có lãi không?
Đạo diễn ĐNM: Cũng tuỳ phim. Nếu định lấy lãi ở trong nước thì phải làm kiểu khác, mà muốn lấy lãi ở ngoài nước thì phải làm kiểu khác, vì cái mà khán giả trong nước thích thì ở nước ngoài lại không thích.
NLC: Nếu được một hãng phim tư nhân mời làm phim nhưng kịch bản không phải do ông viết, ông có nhận lời không? Điều kiện để nhận lời làm phim của ông là gì?
Đạo diễn ĐNM: Bất kể tư nhân trong nước hay ngoài nước mời, nếu có kịch bản hay thì tôi nhận lời.
NLC: Để các hãng phim tư nhân được thuận lợi phát triển, theo ông, ngành điện ảnh cần có những chính sách mở cửa gì?
Đạo diễn ĐNM: Có lần tôi hỏi ông thứ trưởng phụ trách điện ảnh của Iran rằng “Tại sao điện ảnh Iran lại phát triển nhanh như vậy, trở thành một nền điện ảnh được thế giới kính nể? Ông thứ trưởng đã trả lời như sau: “Vì điện ảnh Iran càng ngày càng ít lệ thuộc vào nhà nước”.
Nguồn: viet-studies ngày 31-10-11)