Những góc nhìn Văn hoá

Thế đứng của triết Việt *Kỳ 6)

6. Trình Sử Nhân Tộc

 


 

Muốn có một cặp danh xưng vắn gọn để chỉ bản chất Việt Nho thì đó là hai chữ “nhân thoại” cũng như khi theo dõi các động ứng của nhân thoại thì chính cũng là theo dõi dòng sử mệnh của nhân tộc, tức mẫu số chung lớn hơn cả trong việc thống nhất loài người.


Nhân thoại là danh xưng mới được dùng trong bộ triết lý An vi để nhấn mạnh sự phân biệt với thần thoại. Thần thoại cũng như nhân thoại cả hai đều là huyền thoại tức nói đây mà phải hiểu kia, nói “giao chỉ” thì phải vượt nghĩa đen là hai ngón chân hay ngón tay để vươn lên nghĩa siêu hình là trời đất giao hội. Điểm khác căn bản giữa thần thoại và nhân thoại là bên thần thoại thì con người chỉ sắm vai trò rất khiêm nhường, đã vậy thường còn là vật hy sinh như thấy rõ trong các thần thoại Hy Lạp, nơi Prométhée bị đóng đi trên núi Caucase; các nhân vật trong võ ca (epic) chỉ là những thằng phỗng do các thần giật dây, chứ không có gì tự quyết, tự định đoạt. Ngược lại, trong nhân thoại thì con người làm chủ, đóng vai chính trong chuyện: tự mình định đoạt và thường hiện thực những việc lớn lao có tầm vóc vũ trụ như bà Nữ Oa đội đá vá trời.


Xin nói ngay trong các nền văn hoá, duy Việt Nho mới có nhân thoại, các nơi khác chỉ có thần thoại, hoặc có nhưng mới nhú lên đã bị thần thoại cướp chỗ như vụ ông khổng lồ Aán Độ tên là Manusya tuy đã làm ra được sông núi, bốn mùa, nhưng sau bị thần Brahma đoạt chỗ. Vậy ta hãy trở lại nhân thoại Việt nho để quảng diễn nhân tộc. Sở dĩ phải đưa ra cặp danh xưng mới là vì cho tới nay vụ này không được khám phá, nên cần nhấn mạnh bằng một biệt ngữ mới.


Cũng phải nói như thế về chữ sử mệnh là hệ quả của nhân thoại, cũng như thuyết nhân chủ vậy. Phải là nhân thoại mới có nhân chủ và sử mệnh. Với thần thoại không có huyền sử và nhân chủ mà chỉ có vật chủ (chosism) tức con người bị bỏ quên, bị bán đoạn mại cho sự vật (alienation) với hậu quả là bị điều động sai sử do mê tín dị đoan. Nếu dị đoan quá đậm thì dẫn tới vụ giết người để tế thần như nơi các dân Phenicie hay Astec, nếu nhẹ hơn thì giết một cách tế vi mắt thường không thấy nhưng thực sự có giết: giết từng phần, triết gọi là trục vật, cộng sản là một thí dụ, tuy miệng xưng là khoa học mà thực ra là một thứ dị đoan, chấp nhất mê muội đầy chất giết người. Giết thực sự tuy đã nhiều (vài trăm triệu) nhưng chưa thấm vào đâu với sự giết một cách vô hình: giết tình cảm, giết ý chí, giết sáng kiến, giết tự do nhân phẩm không những của thường dân mà luôn đến cả cán bộ. Bởi vì bản chất của nó là do thần thoại theo lối chống thần thoại nhưng vì luật “mạnh chống mạnh chấp”: chống bạo tàn của thần thoại thì lại rơi vào bạo tàn của thần thoại mang tên mới là duy vật.


Trở lại với nhân thoại, ta có huyền sử tức là thứ sử lý tưởng diễn bằng những huyền số, những lược đồ tiên thiên với những nhân vật kiểu mẫu mà ngày nay khoa uyên tâm gọi là sơ nguyên tượng (archetypal image). Đó là một thứ mẫu mực siêu hình mà Nho gọi là mẫu mực lớn: Hồng phạm, tức là một thứ lược đồ vẽ ra đường lối tiến lui để những cá thể noi theo đó mà lẫn về hợp với Đại Ngã. Những nhân vật huyền sử vì vậy không là người thực sự mà chỉ hiện hình trong mấy nét chấm phá, đủ nói lên một hai động ứng cơ bản được tiềm thức cộng thông phác họa như kiểu bà Aâu Cơ đẻ trăm trứng, Hùng Vương có gậy thần, Phục Hy quấn với Nữ Oa, thánh Dóng siêu linh trên núi An Việt. Có thể nói đó là những làn sóng ngầm của một nền văn hóa nhất định. Bởi vậy muốn định tính một nền văn hóa nào thì việc sâu xa nhất phải là học về những sơ nguyên tượng với các số, các hình của nó. Đấy là lý do tại sao các “nhân vật” trong huyền sử sống rất lâu, chỉ có 18 đời Hùng mà sống hơn hai ngàn năm. Bởi vì đó là những mẫu người đầy chất nhân bản.


Ngược lại thần thoại không được như vậy, nếu người ta có khổ công gạn lọc ra đôi ba ý nghĩa thì cũng đã là việc gượng, vì thần thoại thuộc giai đoạn bái vật, lúc lý trí con người chưa phát triển đủ để có thể phê bình nên nghe sao tin vậy, đến khi nó bứơc lên giai đoạn lý trí mới nhận ra những giá trị thuộc giai đoạn thần thoại là giả tạo, nhiều ít đều có hại cho con người, nên nó tìm cách thải bỏ với kết quả là thần thoại chết. Thần của dân Maori nói rõ: “Ta chỉ sống bao lâu dân chúng còn tin ở ta”. Chính vì thiếu giá trị nhân bản nên thần thoại không có huyền sử theo đúng nghĩa sử là diễn trình các động ứng của con người. Dứơi bóng thần thoại, con người chưa có (chưa đạt) nhân chủ thì làm sao có huyền sử. Huyền sử đề cao chiều kích quan trọng nhất của con người là tác động. Thế mà trong thần thoại, việc của con người toàn là thụ động, theo đuổi, chưa có việc nào tự lực tự chủ, làm sao có được huyền sử. Cũng vì lẽ ấy mà khi phế bỏ huyền sử thì con người lâm vào cảnh tang thương, thí dụ phế bỏ Aâu Cơ tức thì văn hóa thiếu mất nguyên lý Mẹ, trở nên một chiều khập khiễng từ trong cơ cấu. Khi Carl Jung tuyên bố nền văn hóa Tây Aâu lâm trọng bệnh, động vào đâu cũng thấy toàn bệnh là bệnh… thì chính vì tại nó thiếu nguyên lý Mẹ vậy. Biết đại cương như thế rồi, bây giờ chúng ta có thể phác họa sơ qua dòng sử mệnh nhân thoại của văn hóa Việt nho, mà mở đầu là ông Bàn Cổ.

Hỗn mang chi sơ
Vị phân thiên địa,
Bàn Cổ thủ xuất,
Thủy phán âm dương.

Nhân thoại đến thế là cùng cực: xuất hiện đầu tiên trước cả sự phân ra trời đất, để sau không bị nghiêng sang trời kiểu duy tâm, hay nghiêng sang đất kiểu duy vật, đặng mà giữ mối quân bình siêu thặng “trong cõi người ta”.


Kế đến việc làm thì thực bao la như vũ trụ: thuỷ phán âm dương = khởi đầu phân ra âm dương, trong đó bao hàm việc rất quan trọng là xếp đặt trời đất. Điều này mới nghe coi như vu vơ vô tích sự, kỳ thực lại rất cần cho cõi nhân sinh được an vui hạnh phúc vì “thiên địa (có) vị yên, (thì) vạn vật mới tịnh dục nhi bất tương hại”. Đặt lầm đất lên trên trời, hoặc gảy trời ra như tụi duy vật, thì là lộn cứt lên đầu, giết nhau như ngoé. Đó là ý nghĩa sâu xa về mấy động ứng của ông Bàn Cổ.


Bàn Cổ là bản tóm lược các nhân thoại khác của Việt tộc từ Toại nhân “làm ra lửa”, qua Hữu sào “làm nhà” cho đến các ông khổng lồ khác của các chi nhánh Bách Việt. Chính Bàn Cổ là Bàn Hồ của người Dao được Từ Chỉnh đời Tam quốc chỉnh lý và đưa vào sách Tam ngũ lược ký để làm ra của Tàu, nhưng lúc thử máu thì rõ ràng cùng loại máu nhân thoại với các ông nén cát, tát bể, kể sao, trồng cây, xây rú của Lạc Việt, trong đó cao hơn cả là ông trụ trời. Oâng khổng lồ của Thái là Ai Lậc Cậc cũng đã dựng nên trời đất và người, vậy mà bị ông trụ trời Việt bắt bẻ giò cho vào giỏ! thì đủ biết nội lực nhân chủ của ông chống trời bên Lạc Việt thâm hậu biết bao! Nói vậy có nghĩa là Lạc Việt đã tiến vào nẻo tâm linh sâu hơn, bỏ khổng lồ thân xác để tiến vào khổng lồ nhân linh như Hùng Vương. Sinh ra từ cái bọc mẹ Aâu Cơ nghe nó nhân thoại hơn là sinh ra từ quả bầu trăm hột nơi người Mường Phủ Nội chẳng hạn.


Cặp nhân thoại thứ hai là Phục Hy Nữ Oa. Phục Hy chuyên về việc “thủy phán âm dương” diễn ra bằng hai vạch, một đứt một liền chồng lên nhau làm ra các quẻ Kinh Dịch. Còn Nữ Oa thì đẩy cho mạnh sự nối kết âm dương. Sách nói bà lập ra phép hôn phối thì chớ có tin theo nghĩa đen như vậy. Đó không là hôn phối mà là linh phối, là phối vài với ba cho ra năm là ngũ hành. Vì thiếu vài đất thì ba trời cũng sụt nên bà phải “nấu đã ngũ hành mà trét lại”.


Người ta quen gọi Phục Hy Nữ Oa là người Tàu là nói tầm bậy. Lúc ấy đã có Tàu đâu mà bảo là người Tàu. Chỉ cần liếc qua tờ khai sinh của ông bà thì đủ rõ: Phục Hy có mình rắn, rõ rệt dòng rồng gốc rắn nối liền với núi Thái Sơn, vì vậy ông cũng có tên là “Thanh tinh” tức là rồng xanh. Còn Nữ Oa vừa có mình rắn lại còn sinh ở Đồ Sơn. Đồ Sơn cũng có tên là Miêu Sơn, mà Miêu là tên của Bách Việt (Couvreur III, 642) nên có liên hệ với chim. Truyền thuyết nói sau Bà trở nên chim Tinh Vệ tha đá lấp biển Đông. Chữ Oa còn có nghĩa là con nhái, điều này giúp hiểu được những hình người có thân hình nhái trong những cái qua ở đời nhà Aân cũng như nơi Đông Sơn. Nên nhớ thời ấy nhà Aân và Đông Sơn không những cùng văn hóa mà cả đến dạng thức nghệ thuật cũng gần nhau, tức có họ tiên rồng là điều còn dễ nhận ra được.


Nhân vật thứ ba là Thần Nông nói lên một sáng tạo mới đưa loài người ra khỏi giai đoạn săn hái để đi vào nông nghiệp. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại kéo theo những việc nền tảng khác như làm nhà, dệt vải, làm đồ gốm v.v… Thần Nông cũng không phải ngừơi Tàu nữa. Vì Thần Nông đi với ruộng nước có gieo mạ (miêu). Sách nói “Thần Nông nhân miêu nhi giáo = Thần Nông dựa trên việc gieo mạ (ý nói toàn thể nông nghiệp) mà thiết lập nền giáo huấn. Vậy mà người Tàu biết về ruộng nước rất muộn. Oâng Bỉnh Thế Hà viết trong Cradle p.48: “The Chineses were the last to know irrigation”. The last đây là so sánh với các nền văn minh khác như Lưỡng Hà có trứơc đây lối 8000 năm. Tàu mới biết ruộng nước nhiều lắm là từ Long Sơn, nhưng văn hóa Hòa Bình đã có lúa ruộng nước trứơc, và ta thấy có những Thần Nông của người Chăm, Thần Nông miền Lâm Đồng v.v… đủ biết Thần Nông không là nhân vật lịch sử mà là sơ nguyên tượng chỉ thị tác động sáng kiến ra nghề gieo gặt thuộc lúa mễ của Việt.


Đến đây tạm chấm dứt huyền sử để đi vào một chút tiền sử mà mở đầu của Tàu là Hiên Viên xưng là Hoàng Đế. Với Hiên Viên ta thấy ló diện Hoa tộc (miền núi Hoa ở Tây Bắc) tức là sự pha giống giữa du mục với nông nghiệp để làm nên người Tàu. Mấy chữ nông du, cũng như Đông Tây ở đây chỉ nên hiểu một cách co dãn, cũng như “niên biểu” chỉ là sự trước sau, thí dụ Hoàng Đế xuất hiện năm 2697, so với Hồng Bàng kỷ năm 2879, muộn hơn 182 năm thì chỉ nên coi là huyền số: 182 có thể là vài ba con giáp: 2* (3*60) = 182. Việc Hiên Viên xưng là Hoàng Đế có lắm truyện không ổn. Hiên Viên thuộc đế kỷ, cớ sao lại lạm xưng là Hoàng được. Nên biết truyện Hoàng Đế là một huyền thoại đựơc sơ Hán phóng đại lúc bà Đẩu Thái Hậu còn rất uy quyền mà bà lại khoái Lão, Lão lại khoái Hiên Viên, nên mới vinh thăng Hiên Viên lên bậc Hoàng Đế chia xẻ chức thánh quan thầy của Pháp gia với Lão gọi là Hoàng Lão.


Hiên Viên đại diện cho du mục được biểu lộ trong số bốn con vật mãnh thú: hổ, báo, hùm, beo, với vật tổ là chim cú. Cú là giống chim xuất hiện ở độ chí (solstice) tức duy dương, phế bỏ nguyên lý mẹ, nên huyền sử nói vợ ông là Mô mẫu rất xấu. Xưa nay chỉ khen vợ đẹp chứ ai ghi vợ xấu làm chi. Đó chẳng qua là kiểu nói huyền sử để chỉ nguyên lý mẹ trong văn hóa Hoàng Đế bị lép vế. Còn vụ Hiên Viên có vợ tên Luy Tổ lập ra phép nuôi tằm là tầm bậy do sự lẫn lộn Lôi Tổ ra Luy Tổ cùng bộ Điền (cf. Danses 511). Tứơc của Hoàng Đế là Lôi Công nên vợ là Lôi Tổ chứ có Luy Tổ đâu, vì Tằm là con sâu miền nhiệt đới chỉ sinh nở ở miền Nam; các nhà khoa học cũng nhận thấy tằm tang phát triển ở miền Nam trước hết, làm chi có vụ vợ Hoàng Đế ở phía Tây Bắc phát minh tằm?


Ngoài ra còn nhiều truyện gán tầm bậy cho Hoàng Đế thí dụ sách Hoàng Đế nội kinh. Hiện nay học giả nhận ra văn từ sách đó rõ rệt thuộc đời Hán, nên nếu nói về nội dung thì nói Hoàng Việt nội kinh mới đúng. Cùng lắm thì những sự gán kia chỉ nói lên sự cố gắng hội nhập của Hiên Viên đối với văn hóa của Việt tộc, mà nhà lãnh đạo đối đầu với Hiên Viên là Si Vưu. Si Vưu là vị thống lãnh các bộ tộc Bách Việt, nên chữ Si Vưu hàm ngụ nhiều ý khi thì là lá cờ, lúc là hội hát, hội múa, khi thì là con rồng kỳ lạ. Những ý nghĩa kỳ thị Si Vưu là truyện về sau do phía du mục hạ nhục kẻ bại trận. Thay vì nói Hoàng Đế đắc Si Vưu thì Tư Mã Thiên viết sát Si Vưu. Tuy vậy cả hai chữ đều đúng: ban đầu thì Hoàng Đế giết Si Vưu theo nghĩa du mục thắng nông nghiệp, nhưng sau lại “học với” Si Vưu hay là hội nhập văn hóa nông nghiệp mà quan trọng hơn cả là đạo trời (Hoàng Đế đắc Si Vưu nhi minh ư thiên đạo).


Hãy tạm chấm dứt tiền sử phía du mục để trở về đọc lại trang huyền sử nước ta kể truyện Lạc Long Quân đóng đo xứ Nghệ với ba vĩ tích là trừ được Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh. Đóng đô xứ Nghệ làm liên tưởng Hậu Nghệ đời vua Nghiêu khi mười mặt trời cùng xuất hiện làm rối loạn trời đất gây ra mưa lụt, gió bão. Vua Nghiêu hứa nhường thiên hạ cho nhà hiền triết nào chế ngự được tai họa nọ và đó là Hậu Nghệ. Oâng này đã dùng tên mà trừ tai họa cho đời (trừ thiên hạ chi hại). Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời, nên đựơc trở nên tư mệnh nghĩa là người nắm được vận hệ của mình, tức là đạt nhânc hủ, đang khi Khoa Phụ đùa dỡn với mặt trời nên bị chết khác. Hậu Nghệ còn trị được thần Hà bá hay hãm hại loài ngừơi, bằng cách bắn vào mắt bên tả nó. Thần gió thổi đổ nhà, Hậu Nghệ cũng bắn vào đầu gối nó, lại còn trị được thần Cửu âm là giống hồ ly ăn thịt người, nên đựơc xưng là “Điền Tổ”. Đây có thể là phản ảnh lúc con người đi vào nông nghiệp, còn mang trong tâm thức là lúc từ bỏ bái vật để đi về con ngừơi với lối suy luận bằng lý trí thiết thực, nên ta còn thấy phảng phất trong lễ Na dùng để tống cựu nghinh tân. Có ba lễ Na mừng vào ba mùa Xuân, Thu, Đông, không có Hạ. Như vậy phần nào hợp với ba vĩ tích của Lạc Long Quân ở Đông, Tây, Bắc (Mộc tinh, Hồ tinh, Ngư tinh) còn trừ ra mạn Nam vì sách nói: “Lạc Long Quân vâng chỉ trời về núi Nam miên, lập đô ở phía Hoan Châu Nghê An xứ”.


Trở lên là ít trang huyền sử tuy xưa rày tưởng là của Tàu mà thực ra là của Việt. Tàu chỉ học lại nên chưa đạt nhân thoại cao bằng Việt: khi vua Tàu chết thì hằng trăm cung phi, tỳ nữ, nhiều khi cả quan đại thần bị chôn theo, bên Việt không có như vậy. Trái lại huyền sử Việt khác xa các thứ lịch sử đề cao thần thoại mà ấn tích là các điện đền mọc lên cùng nơi. Ở Việt chỉ có việc phụng sự con người như bà Nành, bà Đâu, bà Giàn, cùng một họ với “bà Đà trồng cây xây rú”, tức cùng một dòng máu nhân thoại như ông chống trời vậy.


Nhân tộc hiên lên trong huyền sử Việt tộc sau bị du mục Tây Bắc mà đại biểu huyền thoại là Hoàng Đế, còn đại biểu lịch sử là nhà Chu, một giống nửa Turc, đã làm sai lạc và lu mờ đạo Nho. Sau nhờ có Khổng Tử khôi phục lại được trong thuyết Tam tài theo đó con người cũng là một vua trong ba vua là Trời, Đất, Người, không đâu đưa ra được nền Nhân Chủ cân đối mạnh mẽ như vậy.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114595954

Hôm nay

2104

Hôm qua

2335

Tuần này

21415

Tháng này

222571

Tháng qua

131357

Tất cả

114595954