Những góc nhìn Văn hoá

Trần Nhân Tông trong Viễn cảnh Nhân học Phật giáo (Kỳ 2)

IV. Đạo đức học Trần Nhân Tông

Tạm thất bại với tư cách là một trường phái Kinh tế học “đạo đức”, Kinh tế học Phật giáo hiện đại đã phát triển một nhánh phái sinh là Sinh thái Chiều sâu – nên được gọi chính xác là Nhân học Sinh thái Phật giáo.

Trường phái này lấy tuyển tập Dharma Rain, Pháp Vũ, do chính họ biên soạn, dưới ảnh hưởng của Phật giáo, làm nền tảng lý thuyết của mình. Vấn đề mà Dharma Rain quan tâm không phải là chuyên môn sinh thái học, mà là đạo đức học sinh thái. Nhưng ngọn cờ đạo đức học nào có thể dương lên để đối mặt với những hiểm hoạ sinh thái hiện thời do chính sự suy thoái đạo đức của con người gây ra? Người ta đã tiếp tục một phép thử mới sau phép thử của Schumacher bằng đạo đức học Phật giáo.

Tuyển tập được đánh giá như sau: “Đối với Phật giáo, Pháp có nghĩa là Kinh và Tạng. Nhưng còn có một Pháp mà những biểu hiện văn hoá của nó lại hoàn toàn khác biệt. Đó là cuốn sách với hơn 70 bài tiểu luận đề cập đến những đề tài của chính các bộ Phật Pháp truyền thống, đến những lý giải đương đại về các Pháp đó, các tiểu luận nói về Phật giáo trần thế, thuyết hành động Môi tr­ường như­ một bộ phận tu hành, những thử thách trong chính bản thân Phật Pháp và tu hành…vv. Những ngư­ời ủng hộ Sinh thái Chiều sâu nh­ư John Seed, Bill Devall, Gary Snyder, Andrew McLaughlin và Joanna Macy đều bị ảnh hư­ởng bởi Phật giáo” [David Orton 2002].

Các Phật tử nhận thức rõ vấn đề sinh thái đang cố gắng phác thảo ra một “Phật giáo nhập thế” hoặc một eco-karma, nghiệp sinh thái. Trong tr­ường hợp này, một trong những đồng biên tập Dharma Rain nói: “Vì những thuật ngữ mới đư­ợc đưa ra và định nghĩa, nên một trong những phép thử chắc sẽ t­ương hợp với truyền thống Phật giáo đã có. Khởi đầu, sự phát triển của nghiệp theo hư­ớng sinh thái không có vẻ thích hợp với quá khứ của Phật giáo…Những phẩm chất chủ yếu chẳng hạn nh­ư phi bạo lực và lòng từ bi đ­ược áp dụng vào cá nhân những con vật như­ng không phải vào loài hoặc các hệ thống sinh thái. Đồng thời những đặc điểm khác của Phật giáo cũng đư­ợc viện dẫn để xem xét khái niệm nghiệp sinh thái. Các con vật chẳng hạn, được coi là nghiệp báo. So sánh với lịch sử tri thức và tôn giáo ph­ương Tây, thì chỉ riêng niềm tin đó thôi cũng đã là một b­ước tiến dài v­ượt xa Nhân trung tâm luận” (Kraft, pp. 398-399).

Lập trường mà Dharma Rain và Hội đồng Toàn sinh, Council of All Beings, dựa vào để phê phán đạo đức cá nhân tư sản chính là đạo đức học Phật giáo. Tuy nhiên Sinh thái học Chiều sâu dù tự nhận là một trường phái Phật giáo, nhưng họ cũng có khuynh hướng phê phán để vượt lên chính đạo đức học Phật giáo. David Orton cho rằng đạo đức học Phật giáo vẫn lấy con người làm trung tâm, vì vậy nó không khác gì Nhân trung tâm luận phương Tây. Đó chính là lý do Hội đồng Toàn sinh, mà không phải là Hội đồng Chúng sinh, hoặc Sattva, Hữu tình đã được sáng lập. Họ chiến đấu cho một thế giới xanh, vì vậy đối tượng lòng từ bi của họ không chỉ là giống Hữu tình mà còn cả cây cỏ là các giống vô tình. Vì vậy tuy công nhận đạo đức học Phật giáo, nhưng họ vẫn cho rằng đạo đức đó có thể dẫn tới khuynh hướng Narcissist, tự yêu mình [David Orton 2000].

Nhầm lẫn ấy của David Orton không phải không có lý do. Bản thân ông là một người được hấp thụ một nền giáo dục thanh giáo thuần thành và lại không hiểu biết nhiều về Phật giáo. Hơn nữa, một số Phật tử tham gia biên soạn Dharma Rain và là thành viên của Hội đồng Toàn sinh lại là những người Hinayana Thái Lan nên có thể họ không quan tâm đến Bồ tát nguyện của những người Mahayana. Nếu những người Hinayana có thể là những người Narcissist thì những người Mahayana không thể nào như vậy được. Và nói chung Phật tử không thể là Narcissist, vì họ không còn tự ngã. Đạo đức học Phật giáo không mang và không thể mang bóng dáng cá nhân, vì vô ngã tính của nó thể hiện mối tương quan của các cá nhân, các nhóm xã hội, các cộng đồng người với nhau và với toàn thể vũ trụ, mà không lấy cái gì làm trung tâm cả, ngoài Tâm từ bi. Vì vậy nó là một viễn cảnh thuần tuý tinh thành, phi xã hội tính, phi cá nhân tính, bởi vì nó là đạo đức của tình thương với mọi chúng sinh. Chính tính chất lý tưởng ấy của Đạo đức học Phật giáo làm cho những giá trị của nó luôn luôn thuộc về tương lai.

Vậy thì có thể nói đến một đạo đức học Trần Nhân Tông không? Chúng tôi cho rằng từ góc độ nhân học nhận thức là hoàn toàn có thể. Đạo đức nhân sinh hiểu theo nghĩa thông thường nhất là sự đối lập của cái thiện đối với cái ác. Trong phạm vi này Trần Nhân Tông là một thiện nhân, dù xét ở trách nhiệm cá nhân ông với những cá nhân khác, cá nhân ông với gia đình, dòng họ, với quốc gia. Nhưng đó chỉ là những phẩm chất đạo đức của con người ông, chứ không phải là đạo đức học của ông với tư cách là một hệ thống quan niệm, hành xử nhất quán và tác động đến xã hội. Nói đến đạo đức học của Trần Nhân Tông trước hết phải nói đến việc lựa chọn lẽ sống của ông. Về phương diện này có thể nói ngay rằng con đường mà ông lựa chọn là Đạo chứ không phải là Đời. Nhưng cũng phải nói cho chính xác rằng: giống như ông nội Trần Thái Tông, dù lựa chọn Đạo, nhưng Đời lại lựa chọn ông. Vậy thì ông làm gì giữa chọn lựa và bị/được chọn lựa đó? Nhưng có lẽ đó chỉ là câu hỏi của những con người bình thường như tôi, như anh, như nhiều người trong số chúng ta. Còn với ông, một con người “bất dị” thì không hề có cái gọi là sự phân biệt giữa ta và khác ta. Với Bát bất, bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ, ông đã đồng nhất với không tính để trở thành vô tâm, con người ông đã không còn mâu thuẫn.

Đối với đạo đức học Phật giáo thì cái ác đồng nghĩa với dục, hoặc nhu cầu. Các nhà kinh tế học Phật giáo phê phán cái ác của chủ nghĩa tư bản trước hết là phê phán nhu cầu vô cùng tận mà xã hội này tạo ra cho con người. Schumacher cho rằng: “Chức năng của nhà kinh tế học hiện đại là đo lường “mức sống” bằng khối lượng tiêu thụ hàng năm khi cho rằng trong toàn bộ cuộc đời mình, một người tiêu thụ được càng nhiều thì càng “khá giả” hơn một người tiêu thụ ít. Một nhà kinh tế học Phật giáo sẽ coi lối tiếp cận này là đặc biệt phi lý: vì tiêu thụ chỉ là một phương tiện cho sự an lạc của con người, còn cái đích cần nhắm tới là đạt được sự an lạc tối đa bằng một lượng tiêu thụ tối thiểu…Tính chất giản dị và phi bạo lực rõ ràng gắn chặt với nhau. Mô hình tiêu thụ tối ưu, bằng việc tạo ra một mức độ thoả mãn cao của con người bằng tỷ lệ tiêu dùng tương đối thấp đã cho phép người ta sống mà không phải chịu sức ép và tình trạng căng thẳng và cho phép hoàn thiện những giáo huấn nguyên khởi của Đức Phật: “Khuyến thiện, lìa ác”. Vì các nguồn của cải vật chất ở mọi nơi đều hữu hạn, thì thà là người ta thoả mãn các nhu cầu bằng cách sử dụng tối thiểu các nguồn còn hơn là phải phụ thuộc vào một mức độ tiêu dùng cao” [Schumacher 1966].

Vậy là cái ác có nguồn gốc từ dục, hoặc nói theo ngôn ngữ kinh tế học hiện đại là nhu cầu. Nhu cầu càng giản dị thì lối sống càng thiện lành. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đạo đức học Trần Nhân Tông. Là hoàng tử, là thái tử rồi trở thành vua, sau đó trở thành Thái thượng hoàng, nhưng Trần Nhân Tông bao giờ cũng sống với những nhu cầu vật chất tối thiểu. Không chỉ có vật chất mà ngay cả quyền lực đối với hầu hết phàm nhân đều là nỗi khát khao không dứt. Nhưng với Nhân Tông thì quyền lực tối cao cũng không làm ông động lòng. “ Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu… Ngài thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?” Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu cho Ngài. Sống trong cảnh vui hoà hạnh phúc ấy mà tâm ngài vẫn thích đi tu. Một hôm vào lúc nửa đêm Ngài trèo thành trốn đi. Vua cha hay tin, sai các quan tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về. Năm 21 tuổi Ngài lên ngôi Hoàng đế. Tuy ở địa vị cửu trùng mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. [Thích Thanh Từ 1995: 288]. Lĩnh hội được đạo Thiền, vua bèn quyết chí đi tu, lấy pháp danh là Điều Ngự Đầu Đà, người đời gọi là Điều Ngự Giác Hoàng, người theo hạnh đầu đà điều hoà và chế ngự được tâm. Như chúng ta đã biết Điều Ngự Sư hay Điều Ngự Trượng Phu; Giác Hoàng hay Giác Vương đều là những tên gọi khác của Đức Phật; Đầu Đà: Dhuta: rũ sạch, là một phép tu rũ bỏ ba loại tham trước về quần áo, thức ăn, nơi ở.

Người tu đầu đà hạnh phải khất thực, vì vậy còn gọi là Hành giả. Họ phải giữ đúng 12 điều, Thập nhị đầu đà hạnh sau: 1) Mặc áo nạp y hay còn gọi là phần tảo y – là thứ vải người ta đã vứt đi nay nhặt lấy, giặt sạch khâu thành áo; 2) Mặc loại áo Tam y là ba loại áo Tăng già lê, áo kép khâu bằng nhiều mảnh vải, Uất đa la, áo mặc giữa, và An đà hội, áo mặc trong cùng; 3) Khất thực tự đi xin ăn chứ không nhận đồ ăn của người khác mời, đãi; không ăn đồ ăn của nhà sư khác; 4) Chỉ ăn bữa chính một lần trước hay chính ngọ, ăn bữa chính lần hai gọi là Dư thực, ăn nhẹ gọi là Tiểu thực, cháo, bánh trái, hoa quả; 5) Nhất thực: chỉ ăn một lần mà không ăn bữa Tiểu thực; 6) Chỉ ăn cơm đựng trong bát của mình, hết thì thôi; 7) Viễn ly xứ: ở nơi đồng không mông quạnh, xa dân cư; 8) Ở nơi mồ mả, nghĩa địa; 9) Ở dưới gốc cây; 10) Ở nơi trống trải, không có bóng cây che; 11) Chỗ nào có cỏ mọc thì ở, không cứ phải dưới bóng cây; 12) Thường ngồi kiết già mà không nằm.

Tam tổ hành trạng còn ghi: “Vua thường đi vân du mọi nơi, bài trừ những đền miếu thờ dâm thần, và bố thí pháp dược cho nhân dân”. Đền miếu thờ dâm thần trong quan niệm dân gian chính là những đền miếu thờ thần phồn thực lấy biểu tượng sinh thực khí hoặc quan hệ nam nữ, đực cái làm linh vật để cầu mong cho mùa màng tươi tốt, muôn vật sinh sôi, nảy nở. Dâm thần là một khái niệm Nho giáo. Đối với Phật giáo, những tín ngưỡng như vậy được coi là ngoại đạo. Pháp dược là diệu pháp có thể chữa khỏi khổ não cho chúng sinh. Có ba loại pháp dược: 1) Thế gian pháp dược như ngũ hành, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, chỉ quán- Samatha: định; tam qui: qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng; ngũ giới: giới sát sinh, giới trộm cắp, giới tà dâm, giới vọng ngữ, giới uống rượu …vv; 2) Xuất thế gian Pháp dược như Tam dược, Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược thảo dụ: Tiểu, Trung, Thượng dược thảo; Tứ niệm xứ: quán thân là bất tịnh, quán thụ là khổ, quán tâm là vô thường, quán pháp là vô ngã; Bát chính đạo: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định…vv; 3) Xuất thế gian thượng thượng pháp dược như Chỉ quán. Lấy chỉ quán cộng thêm với các pháp xuất thế gian thì có xuất thế gian thượng thượng pháp dược. Cuối cùng Trần Nhân Tông đã hoàn thành được tâm nguyện của mình, hoàn thiện Đạo đức học của mình khi ông xuất gia và hiến trọn cuộc đời cho Phật Pháp. Vì vậy ông đã được người đời tôn là Thích Ca Tái thế, còn đệ tử Pháp Loa là Ca Diếp, Tổ thiền, và Tam tổ Huyền Quang là At Nan [Quốc Sử Quán Triều Nguyễn 1998: 575, (phần chú thích ghi tổ thứ nhất Trúc Lâm là Trần Thái Tông, không biết ghi nhầm hay đó là quan điểm của người chú?)].

Với người dân Việt ngày nay những giá trị tri thức và đạo đức học của Trần Nhân Tông cần phải được nghiên cứu thấu đáo. Người phương Tây phải tìm đến ngày một nhiều với các giá trị văn hoá, đạo đức và tri thức phương Đông, trong đó có chúng ta. Vậy thì lẽ gì chúng ta lại quên mất tiên khải của Đức Điều Ngự Giác Hoàng: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mích”! Trong nhà có của quí cần gì phải tìm kiếm. Không biết gia bảo ấy của dân tộc Việt còn phải đợi chúng ta đến bao giờ?

____________________________________________

Ghi chú:

 
1. Bài tham dựHội thảo Khoa học Quốc gia Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258 - 1308)”, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, TP. Huế, tháng 12-2003.
 
Tài liệu Tham khảo
 
David Orton 2002: Reflections on Buddhism and Deep Ecology, in Comments on Dharma Rain: Sources of Buddhist Environmentalism, edited by Stephanie
Kaza and Kenneth Kraft, Shambala, Boston & London, 2000.
 
Hà Văn Tấn 1981: Nghĩ về Thiền và Thiền Trúc Lâm, trong Yên Tử Non thiêng, Sở Văn hoá Quảng Ninh Xuất bản (năm1984).
 
Kraft K. 2000: Dharma Rain: Sources of Buddhist Environmentalism, edited by Stephanie Kaza and Kenneth Kraft, Shambala, Boston & London, 2000.
 
Kripalani J.B. 1969: Gandhi His Life and Thought, Publications Division Mimistry of Information and Broadcasting Government of India.
 
Lê Tắc 1961: An Nam Chí lược, bản dịch tiếng Việt của Viện Đại học Huế xuất bản.
 
Ngô Sỹ Liên 1985: Đại Việt sử ký Toàn thư, Tập II, Bản dịch tiếng Việt, NXb. KHXH Hà Nội.
 
Ngô Thì Nhậm 1978: Hành trạng ba vị tổ, trong Thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập I, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh; NXb. KHXH Hà Nội.
 
Ngô Thì Sỹ 1960: Việt sử tiêu án – từ Hồng Bàng đến ngoại thuộc nhà Minh. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hoá á Châu. Văn hoá á Châu xuất bản.
 
Payutto P.A. 1994: Buddhist Economics A Middle Way for the Market place. Published by Buddhadhamma Foundation.
 
Phân Viện nghiên cứu Phật học,1994: Từ điển Phật học Hán Việt, Hà Nội.
 
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn 1998: Khâm định Việt Sử Thông giám Cương mục, (Bản dịch tiếng Việt của Viện Sử học), Tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1998.
 
Schumacher E.F. 1966 Buddhist Economics inAsia: A Handbook, edited by Guy Wint, published by Anthony Blond Ltd., London.
 
Suzuki D.T. 1998: Thiền luận, NXb Thành phố Hồ Chí Minh.
 
Suzuki D.T. 1999: Nghiên cứu Kinh Lăng già, NXb. Thuận Hoá.
 
Thích Thanh Từ 1995: Thiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.
 
Thích Thiện Hoa 1992: Duy thức học, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.
 
Trần Thái Tông 1992: Khoá hư lục, Bản tiếng Việt của Sa môn Thích Thanh Kiểm, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh xuất bản.
 
Tyler, Stephen A., editor. 1969. Cognitive Anthropology. New York: Holt, Rinehart, and Winston.
 
Weber T. 1999: Gandhi and Buddhist Economics in Journal of PeaceResearch; Vol-36, Number-3, May.
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114569315

Hôm nay

299

Hôm qua

2432

Tuần này

21698

Tháng này

227839

Tháng qua

129483

Tất cả

114569315