...
4. Là “mỹ học vận động”, sao cứ tụt lại phía sau? V.G.Bielinski chia phê bình văn học thành hai loại. Một loại phê bình tác phẩm chỉ là để minh họa cho những lý thuyết có sẵn. Ông gọi đó là “phê bình bảo mạng”.
...
4. Là “mỹ học vận động”, sao cứ tụt lại phía sau? V.G.Bielinski chia phê bình văn học thành hai loại. Một loại phê bình tác phẩm chỉ là để minh họa cho những lý thuyết có sẵn. Ông gọi đó là “phê bình bảo mạng”.
Loại thứ hai là “chị em sinh đôi của sự hoài nghi”. Chức năng của nó là “giáng những đòn chí mạng vào cái cũ, giết chết cái cũ” để “chuẩn bị cho sự ra đời của một nền nghệ thuật mới”. Ông gọi đó là “mỹ học vận động”.
Phê bình văn học Việt Nam hiện nay đang đứng ở đâu theo bảng phân loại của Bielinski? Muốn tìm lời giải đáp cho câu hỏi ấy, dĩ nhiên, trước hết phải xác định xem, nền văn học của chúng ta đang vận động theo hướng nào?
Rất dễ nhận ra, trên phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là ở những nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước kia, ví như Nga, Trung Quốc hay Việt Nam, mấy chục năm trở lại đây, văn học đang mất dần vị trí trung tâm và bị đẩy ra khu vực ngoại vi của sân chơi văn hóa. Nó bị đẩy xa vị trí trung tâm ở cả 3 cấp sau đây:
+ Ở cấp thứ nhất: trong tương quan với đời sống xã hội, kinh tế chiếm giữ vị trí trung tâm, đẩy chính trị và đánh bật văn học ra khu vực ngoại vi. Đây là xu hướng phổ quát, bắt đầu diễn ra trên phạm vi toàn cầu từ những năm cuối của thế kỷ trước. Không phải ngẫu nhiên, từ năm 1928 đến 1972, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên Xô đã lần lượt ban bố rất nhiều “Quyết nghị”, “Nghị định” về văn hoá văn nghệ. Nhưng từ 1973 đến 1991, mọi cố gắng của họ chỉ tập trung vào lĩnh vực kinh tế nhằm cứu vãn sự sụp đổ của nhà nước Xô Viết. Tháng 10 năm 1979, Trung Quốc tổ chức Đại hội Văn nghệ toàn quốc với sự tham gia của 3200 đại biểu. Tại đây, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Kiên quyết giải phóng tư tưởng, mở cửa cải cách tiến theo thời đại, sáng tạo cái mới”. Một trong những “cái mới” mà họ Đặng chủ trương là đặt “xây dựng kinh tế” vào vị trí trung tâm của xã hội, đưa văn nghệ ra “biên duyên” (“ngoài rìa”), đồng thời “hủy bỏ mệnh đề văn học tùng thuộc chính trị, phục vụ chính trị” để văn nghệ tự do phát triển. Người ta nói, bây giờ ở các nước Âu - Mỹ, không phải Tổng thống, mà các Thống đốc Ngân hàng và Giám đốc Quỹ tiền tệ thế giới quyết định toàn bộ chính sách đối nội và đối ngoại của các quốc gia. Việt Nam chắc chắn không phải là ngoại lệ. Tôi sẽ không đi sâu vào vấn đề này, vì trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học (số 7.2009), tôi đã đưa ra nhiều số liệu cụ thể để làm nổi bật một thực trạng ở ta: “nhà nhà “làm hàng”, ngành ngành “làm hàng”, đâu đâu cũng hăm hở mở “hiệu”, ai ai cũng muốn treo “biển hiệu”, dựng “thương hiệu”; kinh tế lạnh lùng định hướng cho mọi hoạt động văn hóa, giáo dục, văn nghệ; đánh bật chúng ra khỏi vị trí trung tâm của đời sống xã hội”.
+ Ở cấp thứ hai: trong tương quan giữa các loại hình nghệ thuật, văn học cũng đánh mất vị thế trung tâm. Đã có nhiều bảng thống kê phản ánh thực trạng này. Văn học là nghệ thuật ngôn từ, sự phát triển của nó gắn liền với trình độ văn hóa đọc - viết, thế mà các bảng thống kê của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín lại cho thấy sự “hụt hẫng”, “xuống cấp” nghiêm trọng của văn hóa đọc. Trong khi đó, hơn nửa thế kỷ nay, khi điện ảnh phát triển rực rỡ, màn hình tivi có mặt trong từng gia đình, Internet trở thành phương tiện được phổ biến rộng rãi, nhất là khi mạng lưới truyền thông toàn cầu hoạt động mạnh mẽ, nhân loại bước vào kỉ nguyên tin học, nghệ thuật nghe - nhìn ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Người ta thích đọc hình ảnh, đọc chữ ảo trên đủ các loại màn hình hơn là đọc chữ viết trên giấy mực trong sách báo. Sự lên ngôi của văn hóa nghe - nhìn đã đẩy văn học ra khu vực ngoại vi của sân chơi nghệ thuật.
+ Ở cấp thứ ba: trong tương quan nội tại giữa các loại hình văn học, văn học cao cấp, hay văn học “tinh anh”, “cao nhã” bị đẩy ra khu vực ngoại vi. Chiếm giữ vị trí trung tâm của sân chơi văn học giờ đây là văn học đại chúng, với đủ các loại hình văn học trò chơi, giải trí và cận văn học… Có thể nhận ra điều đó qua tình hình phát hành sách văn học của các Nhà xuất bản và Trung tâm phát hành. Lãnh đạo của nhiều Nhà xuất bản và Trung tâm phát hành ở Việt Nam cho biết, sách văn học, nhất là kiệt tác của các tác gia cổ điển, đang lâm vào tình trạng “ế ẩm”, vì nó không còn là “lựa chọn hàng đầu” của người đọc, càng không phải là sách “gối đầu giường” của giới trẻ. Các ấn phẩm bán chạy hiện nay chủ yếu là sách “Bí quyết thành công trong công việc”, sách giải trí, như truyện tình, truyện vụ án, truyện phiêu lưu mạo hiểm, nhất là truyện tranh. Một phó giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng khẳng định, Đôrêmon là một trong số bộ sách được các bạn trẻ yêu thích nhất, nên hàng năm nó được xuất bản với số lượng rất lớn, từ 10.000 đến 15.000 bản.
Bị đẩy ra khu vực ngoại vi, nền văn học cũ dần dần bị “hóa thạch”, nhường chỗ cho một nền văn học mới không ngừng sinh sôi, nẩy nở. Văn học mọc lên, nẩy nở giữa chốn hỗn độn, đầy những bụi bặm, đất cát ngoài khu vực ngoại vi khác xa với thứ văn học “sạch sẽ”, “thơm tho” sinh trưởng ở nơi trung tâm của sân chơi văn hóa. Chúng là con đẻ của hai loại thiết chế kiến tạo văn bản hoàn toàn khác nhau. Theo Iu.Lotman, thiết chế kiến tạo văn bản được xác lập ở khu vực trung tâm là thiết chế sản sinh huyền thoại. Thiết chế sản sinh truyện kể là thiết chế tồn tại ở khu vực ngoại vi văn hóa. Nghĩa là toàn bộ sự khác biệt giữa văn học sinh ra giữa trung tâm của sân chơi văn hóa và văn học mọc lên ở khu vực ngoại vi, trên cấp độ cao nhất, có thể quy về cặp đối lập: huyền thoại và truyện kể. Huyền thoại là văn bản tuần hoàn, truyện kể là văn bản tuyến tính. Huyền thoại là văn bản của sự trường tồn, miên viễn. Truyện kể là văn bản của cái ngẫu nhiên, vô thường. Huyền thoại là văn bản của vũ trụ khuôn phép, mực thước. Truyện kể là văn bản của thế giới hỗn loạn. Trong văn học sau 1975, biểu hiện cao nhất của sự hỗn loạn có lẽ là sự xuất hiện ồ ạt của văn học mạng và văn học tự xuất bản để “Mở miệng”, thoát khỏi sự kiểm soát của hệ thống xuất bản nhà nước. Huyền thoại là văn bản của anh hùng khởi nghiệp. Truyện kể là văn bản của đám “tội đồ” với kết cục bi thảm. Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng hay Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là những truyện kể như thế. Huyền thoại là văn bản ngợi ca. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài lại chứng tỏ, truyện kể là văn bản giễu nhại. Huyền thoại là văn bản lễ nghi trang trọng. Truyện kể là văn bản trò chơi biệt vô tăm tích, chẳng nhằm mục đích thiết thực gì. Thơ chơi, kiểu thơ “con âm”, “con chữ” trong sáng tác của Trần Dần, Lê Đạt, kiểu “vẽ thơ” ví như Đàn của Dương Tường, hoặc mang thơ ra trình diễn trong các lễ hội để chơi thơ là những ví dụ tiêu biểu cho trường hợp này. Tôi cố ý nhấn mạnh một số bình diện đối lập giữa hai loại hình văn học như thế để những ai theo dõi hoạt động của khoa học ngữ văn đều có thể nhận ra, văn bản truyện kể sau 1975 từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu lặng lẽ của các luận văn, luận án, niên luận, khóa luận trong các trường đại học và viện nghiên cứu, nhưng ở những cuộc hội thảo cực kỳ rầm rộ do Hội Nhà văn và các cơ quan quản lý tư tưởng tổ chức, đó lại là đối tượng thường bị phê bình bỏ rơi, mặc nhiên như là không có sự tồn tại của nó.
Có một câu hỏi cần đặt ra ở đây: vì sao phê bình bỏ rơi bộ phận sáng tác cực kỳ quan trọng, mặc nhiên như là không có sự tồn tại của nó? Chỉ có hai lý do đơn giản. Thứ nhất: Giới cầm bút vẫn xuất phát từ quan niệm xưa cũ về bản chất và chức năng của phê bình, vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống giá trị của nền văn học huyền thoại đã “hóa thạch” để định giá nền văn học đang mọc lên cực kỳ sôi động ở khu vực ngoại vi sân chơi văn hóa. Thứ hai: Tình trạng thiếu dân chủ khiến nhiều nhà phê bình tuy có tư tưởng đổi mới, vẫn không dám đụng tới những tác phẩm “nhạy cảm”. Nhưng làm như thế là tụt lại phía sau, đi ngược lại quy luật vận động lịch sử và phê bình không còn xứng được gọi là “mỹ học vận động”.
5. Làm gì để phát triển phê bình? Mỗi ý trong mạch bài viết tự nó đã lộ ra lời giải đáp. Cải thiện chế độ nhuận bút có lẽ là chuyện đầu tiên các nhà quản lý cần tính tới. Người ta viết phê bình chắc không phải vì tiền, nhưng “có thực mới vực được đạo”, phải sống được bằng nghề thì người cầm bút mới yên tâm hành nghề. Tổ chức nhiều hội thảo thiết thực, tập trung giải quyết các vấn đề chuyên môn, bớt hội họp rầm rộ, đình đám, cốt “vui là chính” cũng là chuyện các nhà quản lý cần suy ngẫm. Chuyện nâng cao trình độ nghề nghiệp dĩ nhiên là công việc trực tiếp của các nhà phê bình. Cuối cùng, - và đây là điều quan trọng nhất liên quan tới tất cả mọi người, - cần đổi mới tận gốc quan niệm về chức năng của phê bình và hệ thống chuẩn mực định giá thẩm mỹ. Chẳng hạn, nếu cứ lấy “giá trị hiện thực”, “chất lãng mạn” hay “vẻ đẹp cổ điển” vốn là chuẩn mực của những nền văn học sinh trưởng ngay giữa trung tâm của các nền văn hóa đem áp vào loại văn học mọc lên ở khu vực ngoại vi, kiểu như sáng tác của Trần Dần, thì nhà phê bình nào rồi cũng bó tay, chẳng hiểu được gì, nhưng tôi thấy có nhà nghiên cứu dùng thuyết trò chơi để lý giải, thì mọi chuyện đều sáng tỏ. Hoặc ở ta, nhiều người cổ xúy cho lối “phê bình tri âm”. Hoài Thanh đề cao nguyên tắc “đem hồn ta” mà “hiểu hồn người”. Cho đến tận cuối những năm 80 của thế kỷ trước, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh còn lấy tiêu đề “Tiếng nói tri âm” để đặt tên cho một cuộc thi bình văn. Phê bình tri âm là quan niệm có nguồn cội từ thời trung đại. Nó xuất phát từ lý tưởng về sự gặp gỡ, trùng khuýp tuyệt đối của hai tâm hồn cá nhân. Nó có cơ sở ở quy luật tất yếu trong đời sống tinh thần: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Nhưng lý tưởng về sự đồng nhất tuyệt đối của hai tâm hồn cá nhân chỉ là ảo tưởng. Chuyện Bá Nha và Chung Tử Kỳ đã nói lên toàn bộ kết cục bi kịch của lý tưởng ấy. Vả lại, hành nghề đã ngoài 40 năm, tôi chưa thấy nhà văn nào mở lòng đón nhận sự “tri âm” của phê bình! Tôi chỉ gặp nhan nhản những nhà văn nghe khen thì cười ha hả, mang rượu ra đãi, say tít cung thang, nhưng thấy chê, lập tức mặt mũi tối sầm, tức đổ máu mắt, khí uất xung thiên, “tóc xiên qua mũ”. Có nhà phê bình bạo gan lên tiếng chê bai, nhà văn liền viết truyện, biến nhà phê bình thành nhân vật, đặt tên là “ỉn”, là “cún” để nhục mạ cho hả. Cho nên, ngày nay đề cao nguyên tắc “tri âm” tôi e chỉ là chuyện “chót lưỡi đầu môi” cốt giấu diếm thói tâng bốc lẫn nhau giữa nhà phê bình và người sáng tác.
Lại nữa, chuyển qua thời hiện đại, nhất là từ giữa thế kỷ XIX, phê bình văn học bỗng không còn là chuyện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Bielinski khởi xướng quan điểm, theo đó, cả văn học lẫn phê bình đều là sự “nhận thức xã hội”: văn học là sự “nhận thức xã hội trực tiếp”, phê bình là sự “nhận thức xã hội qua văn học”. Nhiều nhà phê bình lỗi lạc cùng thời Bielinski, như H. Taine và E. Renan ở Pháp, T. Carlyl và J. Ruskin ở Anh, Gervenus và Lassal ở Đức, De Sanctis ở Ý, D.I. Pisarev, N.G. Chernyshevski, G.V. Plekhanov ở Nga đều là những nhà tư tưởng. Họ sử dụng phê bình như là vũ khí đấu tranh xã hội. Được đặt nền móng từ thế kỷ XIX, đến những năm 30 của thế kỷ XX, khuynh hướng chính trị hóa phê bình văn học được chính thức hóa ở Liên Xô và sau đó phát triển mạnh mẽ trong các nước xã hội chủ nghĩa. Suốt một thời kỳ dài, phê bình được dùng làm công cụ khẳng định quyết liệt phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa ở cả lĩnh vực sáng tác lẫn thưởng thức văn nghệ. Tôi tin, việc phê bình cố tình bỏ rơi bộ phận văn học đang mọc lên ở khu vực ngoại vi sân chơi văn hóa, mặc nhiên xem như nó không tồn tại, còn có quan hệ với quan niệm nói trên về chức năng của phê bình văn học. Tôi đồ rằng ở ta, nhiều người vẫn nuôi hy vọng sẽ sử dụng phê bình như một phương tiện tổ chức sáng tác và định hướng dư luận trong thưởng thức nghệ thuật. Nhưng ở thời đại thông tin, mắt được thấy nhiều, tai được nghe lắm, người đã hóa “tinh”, nên hy vọng nói trên chắc chắn cũng chỉ là ảo tưởng. Vả lại, đừng quên thời bao cấp tư tưởng, thiếu vắng dân chủ, kiểu phê bình quyền uy, mang tính quan phương từng gây ra nhiều vụ án oan sai biết chừng nào!
Vậy chức năng của phê bình là gì? Lời giải đáp, tôi tin, những ai không cố ý phức tạp hóa vấn đề đều đã có sẵn. Về phương diện nhận thức luận, Bielinski cho biết, phê bình là sự “tự ý thức của văn học”. Ngày nay, chúng ta có thể bổ sung: văn học là hoạt động thẩm mỹ, phê bình là sự tự ý thức thẩm mỹ của văn chương. Về phương diện giá trị luận, chức năng của phê bình, từ thời cổ đại, Platon đã định rõ. Theo ông, một công dân Hy Lạp có giáo dục phải có năng lực phê bình, tức là “hiểu được những gì mà nhà thơ nói, phân định được cái hay và cái không hay trong trước tác của họ, biết phân tích cái đó và giải thích, nếu có ai hỏi”. Sau này, Pushkin gọi phê bình là “khoa học đánh giá cái đẹp, phân biệt cái đẹp với cái không đẹp”. Làm thế nào để đánh giá cái đẹp? Quan điểm hiện đại khẳng định, phải xem cái đẹp là hiện tượng lịch sử, cần dựa vào các mã ngôn ngữ văn hóa để “khảo cổ học tri thức”. Về phương diện tiếp nhận văn học, phê bình là hoạt động tạo nghĩa làm nên tính đa trị và số phận lịch sử của tác phẩm văn chương. Từ giác độ lý thuyết thông tin, phê bình là hoạt động giao tiếp thẩm mỹ mà bản chất của nó là sự va xiết của các ý kiến, sự đối thoại của các quan điểm nghệ thuật giữa nhà phê bình chuyên nghiệp với nhà văn và công chúng bạn đọc, giữa dân tộc này với dân tộc khác, thời đại này với thời đại khác về sáng tác văn chương. Chính cuộc đối thoại này làm nên đời sống văn học, biến các tác phẩm lớn thành những sự kiện nghệ thuật vang dội. Muốn đối thoại, cần có dân chủ. Thiếu dân chủ, không thể có đời sống văn học đích thực và mọi sự kiện nghệ thuật sẽ bị bóp méo, hoặc bị dập tắt ngay từ nguồn cội của nó.
2196
2384
22157
226141
122920
114558598