Đập Tiểu Loan có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4,200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn và Cảnh Hồng]. [Hình 1]
Tiểu Loan đã là một trong hai con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, là con “đập cao nhất thế giới” 292 mét bằng chiều cao của tháp Eiffel. Hồ chứa đập Tiểu Loan như “Con Đập Mẹ / Mother Dam” có chiều dài tới 169 km, diện tích mặt hồ rộng tới 190 km2, dung lượng lên tới 15 tỉ m3 nước lấy từ con sông Mekong. Tổn phí để xây đập Tiểu Loan lên tới trên 4 tỉ $US. Đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ năm 2010. Tiểu Loan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc, hiện nay đã dư dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và nay đã có thể chuyển điện sang các tỉnh cận duyên miền Đông, nối xa tới Thượng Hải.

THÊM CON ĐẬP KHỔNG LỒ LỚN NHẤT NỌA TRÁC ĐỘ
Khủng khiếp hơn cả “Con Đập Mẹ” Tiểu Loan, con đập Nọa Trắc Độ / Nuozhadu được khởi công từ 2006, phải giải tỏa 24,000 cư dân ra khỏi khu xây đập. Hồ chứa của con đập Nọa Trác Độ, có chiều dài 226 km, dung lượng hồ chứa lên tới 22 tỉ m3, [Tiểu Loan 15 tỉ m3]; 30 lần lớn hơn hồ chứa con đập Tokuyama là đập thủy điện lớn nhất của Nhật Bản, với 9 đơn vị phát điện dự trù hoàn tất vào năm 2014, với tổng công xuất lên tới 5,850 MW, tương đương với hơn 5 lò máy hạt nhân lớn / 5 large nuclear reactors. [Chinese dam projects raise alarm in Asia_ theo Asahi Shimbun, 16/08/2010]
Nọa Trác Độ tuy không cao [261.5 m] như đập Tiểu Loan [293 m] nhưng lại là “con đập lớn nhất” trên dòng chính sông Mekong. Theo Fred Pearce, sau đập Tiểu Loan, và con đập Nọa Trác Độ hoàn tất, sông Mekong sẽ trở thành tháp nước và nhà máy điện của Trung Quốc. [Damming the Mekong: Major blow to an Epic River, Yale Environment 360, 22 June 2009]
Theo Hirsch, giám đốc trung tâm nghiên cứu sông Mekong thuộc Đại học Sydney thì: “Hai con đập khổng lồ Tiểu Loan và Nọa Trác Độ sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.”
NHỮNG TỔN THẤT KHÁC TỪ PHƯƠNG BẮC
Không chỉ ngăn sông xây đập, chuyển dòng lấy nước, nhưng ai cũng biết là Lưu Vực Trên Sông là vùng động đất. Vào năm 1990, một trận động đất M6 đã xảy ra gần nơi xây đập Tiểu Loan.
Hiroshi Hori là một chuyên gia Nhật Bản, từng làm việc cho Liên Hiệp Quốc trong Ủy Ban Sông Mekong, là tác giả cuốn sách The Mekong: Environment and Development [United Nations University Press, Tokyo 2000], đã nhận định: “Lưu Vực Trên của sông Mekong là vùng động đất, với những chuyển động địa chấn đáng kể khiến người ta có lý do để sợ rằng động đất sẽ xảy ra khi xây những con đập.” (6) Chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc cũng đã lên tiếng báo động về nguy cơ vỡ đập này. (10)
Thêm nữa, để cho những con tàu trọng tải từ 500 tới 700 tấn chở đầy hàng hóa của Trung Quốc có thể di chuyển từ giang cảng Tư Mao / Simao Vân Nam xuống tới Chiang Khong, Chiang Sean Thái Lan và xa hơn nữa tới tận Luang Prabang và Vạn Tượng của Lào, và trên đường về sẽ chở những khoáng sản và nguyên liệu đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ nghệ của Trung Quốc. Đã có một kế hoạch có tên là “Dự Án Cải Thiện Thủy Lộ Thượng Nguồn Sông Mekong / Navigation Channel Improvement Project on the Upper Mekong River” được ký kết vào tháng 04 năm 2001 giữa 4 nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan và Lào (không có Cam Bốt và Việt Nam).
Đó là kế hoạch dùng chất nổ / dynamite phá đá trên 21 đoạn ghềnh thác để mở rộng lòng sông Mekong từ Vân Nam xuống tới Lào. Hàng trăm ngàn tấn đá bị chất nổ phá vỡ, được các đoàn tàu vét [backhoe] dồn xuống những hố sâu dưới lòng sông – vốn là nơi trú ẩn có tầm quan trọng “sống còn” đối với vô số loài cá và cũng là nơi lưới cá của cư dân địa phương trong mùa khô.
Dự án phá ghềnh thác ngay bước đầu đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, khiến dòng nước chảy nhanh và siết hơn, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, gây tác hại tức thời trên sinh cảnh và đời sống cư dân các nước Miến Điện, Thái Lan và Lào, chưa kể tới ảnh hưởng dây chuyền trên đời sống cư dân hai nước ở xa dưới nguồn là Cam Bốt và Việt Nam.
LƯU VỰC DƯỚI – THÁI LAN CHUYỂN DÒNG
Rất sớm từ đầu thập niên 90, Thái Lan đã có hai kế hoạch táo bạo nhằm chuyển dòng lấy nước từ con Sông Mẹ / Mae Nam Khong [tên Lào Thái của con sông Mekong] .
_ Dự án KONG-CHI-MUN:
Từ 1992, Thái đã có một kế hoạch dẫn thủy lớn lao với tổn phí lên tới 4 tỉ Mỹ kim nhằm lấy nguồn nước từ khúc sông Mekong gần Nong Khai để chuyển về các con đập trên hai con sông Chi và sông Mun qua một hệ thống ống dẫn / aqueduct khổng lồ dài 200 km. Nước sông Mekong sẽ được dùng cho việc “cứu hạn” những cánh đồng lúa nằm trong lưu vực hai con sông này.(6)
Dự án KCM, hiển nhiên đe dọa nghiêm trọng trên dòng chảy sông Mekong, nên Việt Nam đã lên tiếng phản kháng. Lào cũng bày tỏ mối quan ngại, vì kế hoạch chuyển nước sẽ khiến con sông cạn dòng gây trở ngại giao thông. Bộ trưởng Môi sinh Cam Bốt, tiến sĩ Mak Moreth đã báo động về hậu quả nghiêm trọng do dự án chuyển nước của Thái Lan càng làm suy giảm dòng chảy sông Mekong nơi hạ nguồn. (6)
_ Dự án KOK-ING-NAN:
Chỉ hai năm sau, từ 1994, Thái Lan có thêm một kế hoạch lớn thứ hai: Dự án Kok-Ing-Nan, lấy nước từ hai phụ lưu lớn của sông Mekong là sông Kok và sông Ing vùng Chiang Rai bắc Thái. (7) Đây là một dự án táo bạo, tổn phí lên tới 1.5 tỉ Mỹ kim, nhằm chuyển nước từ hai phụ lưu cho chảy qua những đường hầm / tunnels khổng lồ dài hơn 100 km vào con sông Nan [sông Nan là một phụ lưu của sông Chao Phraya]. Lượng nước từ hai con sông Kok và sông Ing còn được tiếp cho con đập lớn Sirikit, quanh năm thiếu nước. Nước từ hồ chứa Sirikit không chỉ hoạt động phát điện mà còn cung cấp nước tưới cho những cánh đồng bao la vùng châu thổ Sông Chao Phraya đang bị khô hạn, và cả cung ứng nước cho các khu kỹ nghệ và 10 triệu cư dân sống ở thủ đô Bangkok.
Nhưng cho dù ba nước lân bang có lên tiếng phản đối, thì Thái Lan cũng vẫn từng bước thực hiện kế hoạch của mình.
LƯU VỰC DƯỚI – THÊM 12 CON ĐẬP MEKONG
Các dự án đập thủy điện chắn ngang sông Mekong vùng Hạ lưu đã có từ thời Ủy Ban Sông Mekong. Cũng vị trí những con đập ấy đã được các cơ quan tham vấn Canada và Pháp tái đề xuất và Ban Thư Ký Sông Mekong ấn hành năm 1994. Nhưng rồi các dự án ấy bị tạm gác lại vì quá tốn kém và cả do mối e ngại về tác hại rộng rãi trên môi sinh.
Kể từ đầu năm 2006, các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc, được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi của 6 con đập sau đó tăng lên tới 11 rồi 12 con “đập dòng chảy / run-of-river” thuộc Lưu Vực Dưới; thứ tự 11 dự án đập từ bắc xuống nam:
1/ Đập Pak Beng, Lào 1,320 MW; bảo trợ dự án: công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co. và chánh phủ Lào.
2/ Đập Luang Prabang, Lào 1,410 MW; bảo trợ bởi Petrovietnam Power Co. và chánh phủ Lào.
3/ Đập Xayabouri, Lào, 1.260 MW, tỉnh Xayabouri, Lào; bảo trợ bởi công ty Thái Lan Karnchang và chánh phủ Lào.
4/ Đập Pak Lay, Lào, 1,320 MW tỉnh Xayaburi; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Sinohydro Co. tháng 6, 2007 để khảo sát của dự án.
5/ Đập Xanakham, Lào, 1,000MW; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co.
6/ Đập Pak Chom, biên giới Lào Thái, 1,079 MW
7/ Đập Ban Koum, biên giới Lào Thái, 2,230 MW, tỉnh Ubon Ratchathani; bảo trợ bởi Italian-Thai Development Co., Ltd và Asia Corp Holdings Ltd. và chánh phủ Lào.
8/ Đập Lat Sua, Lào, 800 MW; bảo trợ bởi Charoen Energy and Water Asia Co. Ltd. /Thái Lan và chánh phủ Lào.
9/ Đập Don Sahong 360 MW, tỉnh Champasak, Lào: được bảo trợ bởi công ty Mã Lai Mega First Berhad Co.
10/ Đập Stung Treng, Cam Bốt, 980 MW; bảo trợ bởi chánh phủ Nga
11/ Đập Sambor, Cam Bốt; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc”/ China Southern Power Grid Co./ CSGP.
Bắc Kinh đã sở hữu 14 con đập bậc thềm Vân Nam thuộc Lưu Vực Trên, nay lại có mặt thêm nơi trong 4 dự án thuộc khu vực Hạ Lưu. Riêng Việt Nam do chỉ thấy lợi lộc ngắn hạn, cũng bảo trợ cho dự án đập Luang Prabang 1,410 MW. Với chọn lựa theo “tiêu chuẩn nước đôi ấy / double standard”, Hà Nội sẽ chẳng thể còn kêu ca được gì trước Liên Hiệp Quốc khi nói về tác hại của chuỗi đập Mekong đối với Việt Nam.