Tôi muốn nói tới năm người bậc thầy: Nguyễn Trãi, Ngô Thì Sĩ, Hồ Chí Minh và hai nhà triết học Ăng Ghen, Các Mác.
Nguyễn Trãi, ngôi sao sáng trên bầu trời văn hóa Việt, sống ở thế kỷ XV, cách chúng ta hơn năm thế kỷ, trong một bài thơ ở mục Bảo kính cảnh giới (1)đã viết:
Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày
Lộc là lộc dân, lộc nước, lộc của xã hội. Tất cả những người ăn lộc ấy đều chịu ơn họ, cho nên phải biết ơn, không những thế mà còn phải thể hiện lòng biết ơn ấy bằng thái độ báo đền, cho nên “ưu quốc” (lo cho nước) bao giờ cũng đi liền với “ái dân” (yêu dân). Ngày nay công ơn của nhân dân, của cách mạng, của anh hùng chí sĩ, liệt sĩ ... nhiều người chẳng những không biết, lại còn quên đi, còn phân biệt công người này kẻ khác. Kẻ cấy cày ngày xưa là lực lượng chủ yếu làm ra vật phẩm tiêu dùng, của cải của dân tộc và toàn xã hội. Kẻ cấy cày ngày nay vẫn còn là 60 – 70% dân số của cả nước. Biết ơn và đền ơn họ là thế nào. Chứ không phải là ban ơn cho họ. Đền ơn cho nông dân để họ phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, giữ gìn cảnh quan môi trường, thuần phong mỹ tục ... là thái độ đạo đức và văn hóa của nhà cầm quyền, thể hiện trong một hệ thống chính sách tam nông đúng và đẹp.Bậc thầy thứ hai là Ngô Thì Sĩ. Ông sống trọn trong thế kỷ XVIII (1726-1780), thi đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp Tiến sĩ), làm quan có nhiều chính tích tốt, là nhà văn hóa lớn trong lịch sử nước ta, là thân phụ của Ngô Thì Nhậm. Trong tác phẩm Ngọ Phong văn tập(2) ông có bài Đối đáp với nhà nông (Nông đáp), cực hay. Ông viết: “Đại để đạo của nghề nông rộng và xa lắm. Nghề nông sinh ra cùng với trời đất, hàm dưỡng tinh anh mà nuôi chúng ta. Đất nước dựa vào đấy mà nâng đỡ cương thường, làm đẹp phong tục, trị bình thiên hạ, tất cả chẳng việc gì không có công của nghề nông. Lục phủ(3) hoàn thành ở đó, bát chính(4) bắt đầu ở đó. Hành mộc hành kim sinh thành có thể lấy làm căn cứ để xem tiết trời, lúa mạ cao thấp có thể dựa vào để xem tính đất. Phân khoảnh đắp bờ, chia sào chia mẫu, chỗ bằng chỗ nghiêng, chỗ cong chỗ thẳng, chỗ bằng như đá mài, chỗ đứt như vạch cắt, xem vào đó có thể hiểu được việc trị nước. Ghét cỏ như giặc, yêu lúa như con, tưới tắm đúng thời, bắt diệt sâu bọ, xem vào đó có thể hiểu được việc chính sự. Vì thế suốt ngày gắng gỏi, đến tối mới nghỉ, cố gắng theo được đạo của trời. An ủi dân, khuyến khích tướng, nuôi người hiền, dân sẽ được sự nuôi dưỡng vô cùng. Trời cho, đất sinh, lợi ích không bị một hạn định nào; nếu theo trời mà thực hành đúng thời thì sẽ được lợi ích lớn.”
Lời lẽ không có gì khó hiểu, ý tứ thì rất sâu xa. Lẽ nào con cháu không theo mạch suy tư cua ông cha xưa, cộng vào cái hiểu biết khoa học kỹ thuật ngày nay đặng làm cho vấn đề tam nông trở thành hiện thực, một cảnh quan, một đời sống ấm no, hạnh phúc. Cớ sao còn để trong thôn cùng xóm vắng vẫn còn nhiều sai trái, oán giận?
Bậc thầy thứ ba là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nói và viết nhiều vấn đề về nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên điều mà tôi cho là vấn đề then chốt, có tính nguyên tắc, đạo lý, biện chứng và chiến lược đối với tam nông hiện nay hàng đầu vẫn là quyền sở hữu đất đai của nông dân. (Mà không chỉ nông dân, còn là của toàn xã hội Việt). Một lần sau cải cách ruộng đất, tại một lớp chỉnh huấn Người đề cập đến nông dân và nói: ”Trước kia ruộng đất (ở một xã) thuộc về chín tư hữu, bây giờ là của tám nghìn tư hữu. Thế thì có phải là cộng sản không? (Hồ Chí Minh toàn tập, Sự thật, T.7, Tr.497). Cần chú ý đến hai khái niệm ruộng đất và tư hữu. Tư hữu là quyền then chốt và là cái nội dung cơ bản của quyền công dân, quyền con người. Trong một dân tộc, một xã hội (hiện đại) mà con người, người nông dân không có sở hữu, xã hội ấy, dân tộc ấy chắc là không thể tiến lên thuận chèo mát mái, đoàn kết, nhân ái ... được. Tham nhũng, lạm quyền, tước đoạt (cướp) đất đai và giá trị đất đai sẽ diễn ra. Sự vô trách nhiệm về đất đai sẽ tiếp diễn. Nhìn ra thế giới, những mô hình tam nông đẹp và ưu việt ở nhiều nước văn minh đạt được thành tựu là vì họ đã giải quyết đúng, do đó đã đạt được cái thiện và mỹ trong vấn đề tam nông. Tại sao lại nhân danh những thuyết giáo điều và lạc hậu để tước đoạt đi một quyền cơ bản của người nông dân. Hãy trở lại với tư tưởng và đạo đức Hò Chí Minh.
Ông thầy thứ tư là ông F. Ăng Ghen. Ăng Ghen cũng viết nhiều về tam nông, đặc biệt ở loạt bài Tình cảnh nước Anh, nhưng tôi xin chú ý nhất là luận điểm này: “Sản lượng thu hoạch của ruộng đất có thể tăng lên vô hạn bằng cách ứng dụng tư bản, lao động và khoa học”. Điều này như là để trả lời vấn đề mà Ngô Thì Sĩ nêu ra: “Trời cho, đất sinh, lợi ích không bị một hạn định nào”, nghĩa là vô hạn. Như thế phải giải quyết rõ ba chính sách đầu tư, mà hàng đầu là tư bản. Nhiều người nghĩ đơn giản rằng Ăng Ghen quan niệm ứng dụng tư bản vào ruộng đất chỉ là vấn đề tiền tệ. Quan sát lịch sử đầu tư cho nông nghiệp của thế giới hiện đại, khẳng định rằng phải ứng dụng tư bản với tư cách ruộng đất cũng là tư bản, đã được thừa nhận như tư bản. Có thế bản thân ruộng đất mới trở thành giá trị, mà là một giá trị biến hóa, chu chuyển (trên phạm vi thị trường, ruộng đất nằm một nơi nhưng giá trị của nó như phép mầu được chu chuyển toàn quốc gia và quốc tế). Vì không hiểu được quan niệm ứng dụng tư bản của Ăng Ghen nên nhiều vấn đề ruộng đất của nông dân ở nước ta vừa lạc hậu (y như tư duy “phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ” – đất đai khắp nơi dưới vòm trời đều là của vua, nhà vua!). Thời đại mới đã phủ định phổ biến cái quan niệm lạc hậu này. Do giữ cái quan niệm lạc hậu ấy, những người cầm quyền đã ứng xử tùy tiện, vô tráh nhiệm với tâm địa đen tối về quyền có ruộng cày của người nông dân.
Điều thú vị là ông thày thứ năm – Các Mác không nói sát sàn sạt về ứng dụng tư bản vào ruộng đát như Ăng Ghen nhưng lại rất đồng tình với Ăng Ghen khi ông đặt ra một nguyên lý trong phán đoán tài tình sau. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gô tha, Các Mác viết: “Khi cùng với sự phát triển về mọi mặt của các cá nhân, sức sản xuất cứ ngày càng tăng lên, và tất cả nguồn của cải công cộng đều tuôn ra dồi dào – thì chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi cái giới hạn chật hẹp của pháp quyển tư sản”. Theo quan niệm của Mác thì phải có hai điều kiện có thể coi là cần và đủ để tính tới một thứ pháp quyền khác. Đó là cá nhân phát triển toàn diện và trình độ kinh tế - kỹ thuật có thể sản xuất của cải dồi dào. Ở trình độ nhân loại thế kỷ XXI này có mấy người được coi là cá nhân phát triển toàn diện? Và sức sản xuất đẫ có high – tech (kỹ thuật cao) vẫn còn lâu mà chưa biết bao giờ mới có sủa cải tuôn ra dồi dào. Trong khuôn khổ pháp quyền tư sản như Mác quan niệm thì phải giải quyết việc ứng dụng tư bản vào ruộng đất như Ăng Ghen nói. Cho nên cách suy nghĩ dẫn tới tước đoạt khỏi nông dân cái quyền mặc nhiên được tư bản hóa ruộng đất trở nên rất phi – mác. Gần đây dọc thêm về Mác, tôi phát hiện ra một nhận thức vào cuối đời của Mác về quyền sở hữu rất hay: “Chỉ khi nào người sản xuất có quyền sở hữu: đất đai, nhà xưởng, tàu thuyền, ngân hàng, tín dụng ... thì họ mới thật là người tự do”. (Dẫn theo Marx sa vie et son oeuvre, Nxb. Fayard).
Hãy nghe theo các bậc thầy, sớm trả lại cho nông dân cái quyền mặc nhiên, cái quyền của đạo lý hợp với cả thiên thời (thời đại), địa lợi (tình cảm dân tộc) nhân hòa (thuận lòng người). Hãy nghe theo Hồ Chí Minh “làm cho nông dân có tư hữu ruộng đất mới là cộng sản”.
Bản tác giả gửi cho VHNA
(1) Bảo kính cảnh giới: Tấm gương quý để cảnh tỉnh và khuyên răn
(2) Ngọ Phong là tên hiệu của Ngô Thì Sĩ. Bài Nông đáp do Tiến sĩ trần Thị Băng Thanh dịch
(3) Lục phủ: theo Kinh Thư là sáu thứ: nước, lửa, cây, đất, lúa, kim loại
(4) Bát chính:cũng theo thiên Hồng phạm trong Kinh thư là tám chính sách về lương thực, của cải hàng hóa, giáo dục, đất đai, hình phạt, tế lễ, quân đội, tiếp khách.