Những góc nhìn Văn hoá

Sự nghiệp văn học Đinh Hùng (VII)

 2.1.4. Cảm hứng lịch sử trong thơ Đinh Hùng

Ở đây, có thể nói, cảm hứng lịch sử là cảm hứng được khơi gợi từ những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, địa danh lịch sử,… Cảm hứng ấy đi vào trong các thi phẩm, được nhào nặn, hoà trộn với tình cảm của tác giả dưới một nhãn quan độc đáo, bộc lộ được quan niệm, tư tưởng, cá tính sáng tạo…của người đã sinh thành ra mình. Và cũng không thể bỏ qua trường hợp “lịch sử” chỉ là một cái cớ, ấy là khi thi sĩ mượn chuyện “lịch sử” để nói về một chuyện khác.

 

Ít ai ngờ chàng thi sĩ họ Đinh, kẻ say tình hát khúc “mê hồn ca trên đường vào tình sử”, lại viết những câu thơ như thế này:

            Có ai nghe tiếng thơ huyền diệu :

            Hơi thở rung lòng đá tiết trinh ?

            Ý thép sáng ngời tay hiệp nữ,

            Lửa hồng soi má phấn Mê Linh.

                        Hỡi mây tráng khí, trang hào kiệt !

                        Sóng nước còn sôi máu bất bình ?

                        Lãng bạc hoa trôi ngầu lệ đỏ,

                        Hát Giang trầm khoé mắt u minh…

                                    (Hương phấn Mê Linh)

Những câu thơ nhịp nhàng như những con sóng của dòng Hát Giang đang kể lại câu chuyện xưa về hai người phụ nữ “Trỏ làn thư kiếm an thiên hạ,/ Áo chiến mây choàng vóc liễu xinh/ Tay ngọc vờn cao, giông bão nổi,/Sáu nhăm thành quách hết điêu linh”. Hai người phụ nữ ấy là ai chúng ta đều rõ dù tác giả không nhắc đến tên họ. Điều đó đã phần nào thể hiện được cái tài cũng như cái góc nhìn nghệ thuật của ông. Khách quan mà nói, bài thơ này không có nhiều giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, xét ở mặt tích cực, Đinh Hùng cũng đã giúp chúng ta ôn lại những trang sử vẻ vang của dân tộc, đã làm ta nhớ về những người phụ nữ kiên cường, bất khuất đã vùng lên khởi nghĩa để “đền nợ nước, trả thù nhà”:

             Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán

            Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương…

Tiếp đến là bài thơ Chiến sĩ áo chàm, bài thơ mà tác giả dành tặng cho những người anh hùng vô danh đã hy sinh máu thịt để thắm tô màu cờ đại nghĩa:

            Đây

            Những chiến sĩ Ngàn Thiêng xuất hiện.

            Những người con từng bộ lạc kiêu hùng:

            Những họ Đinh, họ Quách, họ Bế, họ Cung

            Và họ Nguyễn, họ Trần từ nghìn năm huyền sử

            Giã biệt hải tần, nối đường tuần thú,

            Chia tay nhau, chào biển lớn, về ngàn.

            Những người con chung dòng máu hiên ngang

            Xuyên rừng thẳm

                                    vượt đèo cao

                                                tìm lên núi Cấm.

Những con người có xuất thân khác hẳn nhau nhưng lại chung nhau một chí hướng, chung một “dòng máu hiên ngang”, chung một lời nguyền “Sát Đát” in hằn trên da thịt, chung một ngọn cờ “Kháng Nguyên”…và được gọi bằng một cái tên chung: “chiến sĩ áo chàm Châu Ma Lục”.

Khảo sát toàn bộ các sáng tác của Đinh Hùng, chúng tôi nhận thấy thi sĩ đã dành sự quan tâm đặc biệt cho những người chiến sĩ áo chàm này khi mấy mươi năm sau ông lại hướng ngòi bút của mình về phía họ trong quyển tiểu thuyết Kỳ nữ Gò Ôn Khâu. Điều này thể hiện cái nhãn quan nghệ thuật của Đinh Hùng: luôn hướng vào những con người nhỏ bé, những cá nhân bình thường trong một tập thể. Và ở đây, những con người nhỏ bé ấy, họ là những người dân tộc thiểu số sống ở trung du và miền núi phía Bắc, họ không có cái tên nào cụ thể, họ không dị biệt, họ không phải là những vị anh hùng có công trạng lẫy lừng, nhưng liệu ai có thể phủ nhận được tất cả những gì họ đã làm cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên vĩ đại, cho đất nước này? Phải chăng nói như Nguyễn Khoa Điềm thì họ là những người “không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”?

Saint John Perse, nhà thơ Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1960, đã viết: “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào cuộc biến chuyển của lịch sử”. Và Đinh Hùng, người đã trải qua nhiều biến thiên của lịch sử cũng không thoát khỏi sự “ràng buộc” ấy. Cho nên, trong thơ Đinh Hùng, dấu ấn lịch sử của cái thời đại mà thi sĩ đang sống vẫn hằn rõ trong các trước tác của ông.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Đó là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, là niềm hạnh phúc lớn lao của cả dân tộc. Trước sự kiện trọng đại ấy, Đinh Hùng đã viết bài thơ “Phượng lại tìm Hoàng”.

            Ngày nào trở lại Cố Đô

            Ôi Thăng Long! Phượng vẫn mơ tìm Hoàng

            Hẹn nhau ý thiếp, lòng chàng,

            Xuân mười phương hội tuổi vàng muôn năm.

            Sông về gặp bến đồng tâm,

            Mây đoàn viên, gió tri âm đợi chờ

            Miệng cười châu ngọc gieo thơ,

            Mừng kia gợi sóng Tây Hồ dâng cao

            Mê Linh này, cỏ hoa nào?

            Trăng Ba Đình vẫn đẹp bao thệ nguyền?

            Chi Lăng vườn đó vẹn tuyền?

            Mộng bao nhiêu nhịp Long Biên – hỡi lòng!

            Ta cười lên gọi Thăng Long!

            Lửa thiêu tâm sự, máu hồng chiêm bao.

            Ngày về chuyển bước trăng sao,

            Đã nghe mạch đất rạt rào nguồn sông.

            Chúng ta nghìn dặm thương mong,

            Lãng du hẹn buổi tao phùng gió đưa.

            Thăng Long ơi! Gạt lệ mờ,

            Đợi xem nở ngát bài thơ chung tình.

Vốn dĩ câu thứ hai trong bài là “Ôi Thăng Long! Rợp bóng cờ vinh quang” nhưng sau đó bị sửa thành như trên vì lí do kiểm duyệt. Câu thơ cũ quả thật đã thể hiện được cái không khí hào hùng của một ngày mùa Thu lịch sử; tuy nhiên, câu thơ được sửa lại cũng không phải là một sự chắp vá vụng tay. “Phượng vẫn mơ tìm Hoàng”, phải chăng thể hiện khát vọng của cả một dân tộc về một đất nước thống nhất, toàn vẹn như “chim liền cánh”, kiêu hãnh bay lên như phượng hoàng? Một điểm đáng chú ý trong bài thơ trên là tác giả đã sử dụng “Thăng Long” chứ không là “Hà Nội”. Trước là để tạo nên một hình ảnh, một biểu tượng đối sánh với “Phượng Hoàng”; sau là để góp phần tạo nên cái không khí lịch sử cho tác phẩm, để nhắc nhớ một “dáng rồng bay lên”, để nhắc nhớ một truyền thống vẻ vang anh hùng của đất nước mà ngày Quốc khánh hôm ấy chỉ là một trang sử tiếp nối những trang sử vẻ vang, hào hùng trước đó. Người đọc dễ dàng nhận ra cái tâm thế của tác giả, tâm thế của một người trở về với những kỉ niệm, tâm thế của một người con của thủ đô chứng kiến những thời khắc quan trọng của đất nước mà trong lòng dậy lên niềm tự hào, hạnh phúc và tin tưởng vào một ngày mai xán lạn: “Thăng Long ơi! Gạt lệ mờ,/ Đợi xem nở ngát bài thơ chung tình”. Tuy nhiên, cách viết như thế này về lịch sử vẫn còn là một cách viết quá lạ, quá riêng, quá “Đinh Hùng”.

Không dừng lại ở đó, trong nhiều năm sau, cảm hứng lịch sử vẫn là cảm hứng chủ đạo trong nhiều trước tác của ông.

            Các anh nhóm lửa từ Vô Biên

            Truyền máu trung kiên hồng mạch đất,

            Anh ngủ không say, nằm chưa yên

            Luỹ tre bỗng dưng chuyển mình sắt.

            Từng xóm, từng thôn vùng đứng lên

            Giữa trận cuồng phong anh có mặt.

            Anh đi dẹp hết niềm oan khiên

            Nước non bừng sáng – anh cười ngất.  (Các anh lớp lớp)

Thêm nữa:

            Ý chí chúng tôi

            Hoà vào hào khí các anh

            Là sung, là gươm, là tên, là đạn,

            Là ngọn lửa thiêng Huyền diệu

            Đưa đường chiến xa đại bác diệt thù

            Các anh đã ra tay

            Níu lại linh hồn núi sông bên bờ vô định.

            Những mái nhà cao bỡ ngỡ vươn vai thốt nhiên bừng tỉnh.

            Những hàng cây sầu trút áo hôn mê,

            Những con đường huyết mạch giao nhau tay nắm vai kề.

            Đường phố kinh đô không còn ngăn rào then khoá.

            Như những tấm lòng ngỏ cửa, hết đa nghi.

                                    (Những dòng chữ lửa)

Những câu thơ trên được Đinh Hùng viết để ca ngợi những chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Rất tiếc là chúng tôi đến giờ vẫn chưa xác định chính xác được tác giả đã sáng tác vào thời gian nào, nhân sự kiện lịch sử cụ thể nào, nhưng nhiều khả năng là vào năm 1950, năm xảy ra Chiến dịch Biên giới, và cũng là năm nhà thơ trở về Hà Nội sau khi tản cư theo kháng chiến. Một điều đặc biệt không thể không nói khi nhắc đến hai bài thơ trên chính là việc chúng được chính tay Đinh Hùng sửa lại (không đáng kể) sau này để ca ngợi những người tham gia vào cuộc đảo chỉnh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm vào năm 1963. Đây quả là điều hy hữu! Tất nhiên, không phải vô cớ mà hai tác phẩm trên lại có thể được “tái sử dụng” ở một chế độ khác mà nó ra đời. Bởi lẽ, Đinh Hùng đã thấy được sự giống nhau giữa bọn thực dân Pháp và cái chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm: giả dối, tàn bạo, bóp nghẹt tự do…và là mối nguy hại cho dân tộc:

Núp bóng đêm sâu, bầy thú mặt người

            Từng biến giang sơn này thành nghĩa địa.

Miệng chúng hát bài ca “nhân vị”

            Côn trùng, thảo mộc cũng im hơi,

            Chúng nghênh ngang xâm chiếm những mùa xuân, hung hăng tàn phá mọi nụ cười,

            Ánh nắng chúng tôi say,

            Khí trời chúng tôi thở,

            Lý tưởng chúng tôi tôn thờ…

                                    (Những dòng chữ lửa)

Và bởi vì, Đinh Hùng đã nhận ra được điểm chung giữa những chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp và những người tham gia vào cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm: đều có phẩm chất của người anh hùng. Điều này cho thấy quan niệm mới lạ, tiến bộ của Đinh Hùng: chỉ cần là một người dũng cảm đứng lên để “dẹp hết nỗi oan khiên”, đem lại lợi ích cho dân tộc, cho đất nước thì đó là người anh hùng, bất kể ở thời đại nào, chế độ nào. Và cho đến nay, quan niệm đó vẫn còn nhiều giá trị.

Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng, việc tìm hiểu cảm hứng lịch sử trong thơ Đinh Hùng với chúng tôi là không hề dễ dàng. Vì trong nhiều trường hợp, sợi chỉ đỏ của nàng Ariane lại nằm ở hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Như bài Nhân duyên cõi Việt là một ví dụ. Hãy cùng đọc những câu thơ sau:

Năm xưa, gạch đá còn lưu huyết

Chùa cũ sầu vương mái đạm thanh.

Trần cấu ngăn đôi bờ tuệ giác,

Thương hoa, ai chữa vết thương lành?

Hoa ấy không quen gió bạo cuồng,

Vẻ hồng u hiển nét tang thương.

Duyên hoa có ngát hồn linh tự,

Còn biếc toà sen áng diệu hương?

Có mấy ai biết được rằng những câu thơ ấy là Đinh Hùng viết nhân sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gòn để chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp Phật giáo dã man vào năm 1963?

Đây là một trong số những bài thơ hiếm hoi có một giọng điệu khác lạ của Đinh Hùng. Cái hay của Đinh Hùng là ông đã tìm được một điểm nhìn và một cách thể hiện rất hợp lí. Đọc bài thơ, ta ngỡ rằng chỉ tồn tại mỗi cảm hứng tâm linh, nhưng không. Đằng sau những con chữ là một nỗi đau, một niềm tự hào; đằng sau con chữ là cả một sự kiện lịch sử, một nhân vật lịch sử mà sự nổi tiếng, mà phạm vi ảnh hưởng đã lan rộng đến nhiều nước khác trên thế giới. Cũng cần nói thêm là đã có nhiều nhà thơ đã viết về Bồ tát Thích Quảng Đức, tiêu biểu trong số đó là Vũ Hoàng Chương với bài Lửa từ bi:

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,

NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày

Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây

Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ

PHẬT – PHÁP chẳng rời tay…

Sáu ngả luân hồi đâu đó

Mang mang cùng nín thở

Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.

Không khí vặn mình theo

khóc oà lên nổi gió

NGƯỜI siêu thăng…

giông bão lắng từ đây…

Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây

Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ- Đề…

Chỉ là một đoạn thơ ngắn nhưng chừng ấy cũng đủ để cho ta thấy được cái phong cách nghệ thuật của nhà thơ say Vũ Hoàng Chương. Đem so với những câu thơ của Đinh Hùng thì ta thấy rõ ràng là cách thể hiện của ông rất khác em rể của mình dù cả hai có chịu ảnh hưởng qua lại lẫn nhau về quan niệm nghệ thuật. Sử dụng những câu dài ngắn không đều với ngôn từ chắc nịch, Vũ Hoàng Chương đã biến những câu thơ thành những mảnh vỡ của tấm gương để mà soi chiếu lại hiện thực, tạo nên một cái nhìn đa diện và bộc lộ được tình cảm xót thương, trân quí của mình. Nhìn chung thì đây là một bài thơ hay. Tuy nhiên, trong việc cố gắng đưa vào tác phẩm những kiến thức Phật học mà chưa thấm, chưa hiểu thấu đáo và đôi chỗ xử lí còn non tay, Vũ Hoàng Chương đã làm cho nhiều câu thơ của mình thiếu đi sự tự nhiên và có phần gượng gạo. Đinh Hùng thì khác. Trong tác phẩm của thi sĩ họ Đinh này, ta dễ nhận ra cảm hứng lịch sử và cảm hứng tâm linh đã bện chặt vào nhau, hoà quyện cùng nhau để hình thành nên những câu thơ diễm ảo:

Cỏ nội hoa đồng thoắt điểm trang

Ai đi, tà áo tụ mây vàng?

Hồi chuông phảng phất thơm kinh điển,

Thuyền vượt mê hà sắp quá giang.

            Xin gót Từ-Bi dạo lối trần,

            Nhiệm mầu tay ngọc xoá tinh vân.

            Linh quang chuyển dáng đời mê ảo,

            Đổi áo phù sinh, hiện pháp thân.

Bài Nhân duyên cõi Việt gồm có 6 khổ thơ, mỗi khổ mang dáng dấp của một bài kệ và có thể tồn tại độc lập với tư cách là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Và ở bất kì khổ thơ nào, những điển tích, những quan niệm của nhà Phật cũng được thể hiện một cách khéo léo, tinh tế nhằm làm bật lên được hình ảnh của vị Bồ tát Thích Quảng Đức. Chẳng phải Đinh Hùng đã ví Ngài là hoa hay sao? Chẳng phải Đinh Hùng đã ví Ngài là trăng trong câu “Ôi bóng trăng xưa sáng cõi nào?” hay sao? Chẳng phải Đinh Hùng xem việc tự thiêu để chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm của Ngài cũng như con thuyền sắp “đáo bỉ ngạn” hay sao?... Và chẳng phải qua câu thơ “Linh quang chuyển dáng đời mê ảo/ Đổi áo phù sinh, hiện pháp thân” Đinh Hùng đã thể hiện cái “dĩ huyễn độ chân” của nhà Phật hay sao?... Hoà thượng Thích Quảng Đức đã không còn trên thế gian. Nhưng còn đó một nhân vật làm hồng thêm trang sử dân tộc. Còn đó một tấm lòng, một cái tâm như vầng trăng vằng vặc giữa trời. Còn đó một con thuyền “đáo bỉ ngạn” ban phát từ bi cho thế gian. Còn đó “một cơn mưa hoa” rơi xuống cõi ta bà. Còn đó một trái tim kim cang bất hoại cho những người ở lại…

Có lẽ chưa bao giờ hình ảnh của vị chân sư tự thiêu đó lại được khắc hoạ đẹp đẽ đến nhường ấy như trong thi phẩm của Đinh Hùng.

            Ở phần này, chúng tôi đã cố gắng xác định, làm nổi rõ cảm hứng lịch sử trong thơ Đinh Hùng, một vấn đề mà chưa có nhà nghiên cứu nào đề cập đến trước đó vì thiếu tư liệu.  Nhìn chung, những bài thơ trong dòng cảm hứng lịch sử này của ông có số lượng không nhiều, có giá trị nghệ thuật không cao và chất tượng trưng cũng  khá mờ nhạt. Tuy thế,  chúng vẫn rất đáng để chúng ta tìm đọc để hiểu thêm về nhà thơ tài hoa này.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114572716

Hôm nay

2262

Hôm qua

2301

Tuần này

2262

Tháng này

219773

Tháng qua

130677

Tất cả

114572716