2. Cho rằng học giả sớm đề xuất ra khái niệm Tân Nho học là Hạ Lân (kiến Trịnh Gia Đống: “Khái niệm Tân Nho học hiện đại”).
3. Cho rằng người rất sớm sử dụng thuật ngữ Tân Nho học là một học giả người Nhật tên là Cương Hạng, năm 1904 đã xuất bản cuốn sách Nhật Bản đích giác tỉnh (Sự thức tỉnh của Nhật Bản) ở New York nước Mỹ, đã sử dụng thuật ngữ này. Người có công đầu trong việc phổ biến thuật ngữ Tân Nho học ở Trung Quốc là học giả Phùng Hữu Lan, nhưng đối với định nghĩa của thuật ngữ Tân Nho học giới học thuật vẫn chưa có sự thống nhất. Theo từng giai đoạn hoặc từng thời kì lịch sử có thể phân chia như sau: coi Đổng Trọng Thư làm đại biểu cho Tân Nho học đời Hán; Trình, Chu, Lục Vương làm đại biểu cho Tân Nho học đời Tống Minh; Ngũ Tứ trở về sau làm đại biểu cho Tân Nho học hiện đại. Tân Nho học hiện đại, nhân vật đại biểu rất đông, theo tuổi tác địa vị, các trước tác học thuật có ảnh hưởng đến thời đại, có thể phân chia làm mấy giai đoạn và thời đại khác nhau. Do đó giới học thuật vẫn chưa có cách nhìn thống nhất. Nói chung đều cho rằng Lương Thấu Minh, Trương Quân Lệ và Hùng Thập Lực là Tân nho gia hiện đại (thời kì ngũ tứ) giai đoạn thứ nhất của đời thứ nhất; Phùng Hữu Lan, Hạ Lân và Tiền Mục là Tân nho gia hiện đại (thời kì kháng chiến) giai đoạn thứ hai của đời thứ nhất; Đông Phương Mĩ, Mâu Tông Tam, Đường Quân Nghị và Từ Phục Quan là Tân nho gia hiện đại đời thứ hai; Dư Anh Thời, Lưu Thuật Tiên, Thành Trung Anh và Đỗ Duy Minh là Tân nho gia đời thứ ba tức đương đại.
Trước đây giới học thuật đối với việc nghiên cứu tư tưởng thời Lưỡng Hán chưa được coi trọng lắm. Ở trong Tân nho gia hiện đại tiên sinh Từ Phục Quan là học giả hàng đầu nghiên cứu về tư tưởng thời kì Lưỡng Hán, đến cuối đời ông đã hoàn thành xong một bộ trước tác đồ sộ với nhan đề Lịch sử tư tưởng Lưỡng Hán. Tiên sinh Từ cho rằng, tư tưởng thời kì Lưỡng Hán đối với tư tưởng Tiên Tần mà nói, thực sự là diễn biến to lớn. Từ sau đời Hán hơn một nghìn năm đến nay không những kết cấu chính trị xã hội đều tuân định theo thời Lưỡng Hán, ngay cả tư tưởng học thuật mà nói cũng là do tư tưởng thời kì Lưỡng Hán làm nòng cốt, tức là "lấy kinh học, sử học là trung tâm, thêm vào nữa là lấy văn học làm phụ dị", các học giả đời sau chỉ là kế thừa nối tiếp và phát triển. Trong đó, địa vị của Đổng Trọng Thư trên lịch sử tư tưởng thời kì Lưỡng Hán, tiên sinh Từ đã không câu nệ đánh giá rất cao:" có thể nói trước Đổng Trọng Thư, tư tưởng đầu thời Hán đại khái chỉ là truyền thừa kết cấu tư tưởng thời Tiên Tần, khó có thể đưa ra làm đặc tính của "tư tưởng đời Hán". Đặc tính của tư tưởng đời Hán là do sự nhào nặn của Đổng Trọng Thư".
Đối với đặc trưng của hệ thống tư tưởng Tân Nho học Đổng Trọng Thư, học giả đại lục là tiên sinh Chu Quế Điện ở trong sách Đổng học thám vi, đã đưa ra một số khái quát như sau:" Đổng Trọng Thư lấy thiên hạ làm chủ đạo, lấy quan hệ thiên nhân làm trục tâm, lấy âm dương ngũ hành làm tài liệu, viết ra một loạt lấy Nho học làm hạt nhân, dung hợp tư tưởng chư tử Tiên Tần, hệ thống triết học của trời". Vả lại, tiên sinh Chu còn từ trên góc độ lịch sử phát triển Nho học, đối với Đổng Trọng Thư và Tân Nho học đã đánh giá một cách khách quan:"Khổng tử là người đầu tiên sáng lập ra Nho học, Đổng Trọng Thư là đại sư Kinh học, Chu Hy là đại sư Lý học. Kinh học là Nho học của đời Hán, Lý học là Nho học của đời Tống Minh. Hệ thống ba tư tưởng lớn này là đại biểu Nho học không cùng thời kì, là ba con đường phát triển của Nho học".
Lý học Tống Minh tức là Nho học của thời kì Tống Minh và cũng là Kinh học của thời kì Tống Minh. So sánh mà nói, ở trên phương pháp phương thức kế thừa và phát triển Nho học Tiên Tần, Lý học Tống Minh chú trọng đến việc mở rộng nghĩa lí kinh điển của Nho gia. Đại nho Tống Minh lấy tư tưởng nho gia Khổng Mạnh thời Tiên Tần làm hạt nhân, đã phê phán tư tưởng Phật gia, tư tưởng Đạo gia của Lão Trang, so với thời kì Tiên Tần và Lưỡng Hán thì tinh tế hơn.
Ở trong nước, đối với Tân Nho học thời kì Tống Minh, trước đây có rất nhiều thái độ chê trách, cho rằng nó là biểu hiện của hình thái ý thức giai cấp thống trị dưới thời kì xã hội phong kiến. Mà Tân nho gia đương đại là tiên sinh Đỗ Duy Minh thì cho rằng, Tân Nho học thời kì Tống Minh là thể hiện cộng đồng của văn minh Đông Á, nó khiến cho nho học truyền thống từ dòng chính của văn hóa Trung Quốc biến thành một bộ phận không thể tách rời trong văn hóa Đông Á, đặc biệt là ở phương diện giáo dục và chính trị. Do đó tiên sinh Đỗ còn chỉ ra:" Ở trên lịch sử phát triển của văn minh nhân loại, sự phát triển của nho học thời kì Tống Minh đã sản sinh ảnh hưởng đối với văn minh Đông Á. Cho nên Tân Nho học thời kì Tống Minh là một thời kì rực rỡ huy hoàng trong lịch sử văn minh nhân loại, là một mắt xích không thể tách dời trong dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc Trung Hoa.
Thời kì Ngũ Tứ là thời kì trọng yếu của văn hóa Trung Quốc, nó phơi bày ra cục diện cực kì phức tạp, nhưng trên đại thể vẫn được chia ra làm ba loại trào lưu tư tưởng khác nhau. Thời kì này đối với cuộc tranh luận văn hóa của cổ kim trung tây, có sự cường điệu tính chất đối lập của văn hóa trung tây, lại đem loại tính chất đối lập này chủ yếu quy kết là sự khác biệt của tính thời đại, lại đem văn hóa phương Tây làm mô thức tiêu chuẩn duy nhất của văn hóa hiện đại, do đó khẩu hiệu "đánh đổ Khổng gia" và "tây hóa toàn diện" chiếm ưu thế áp đảo mà trở thành dòng tư tưởng của trào lưu xã hội đương thời. Nhưng nối tiếp thời kì Ngũ Tứ sau này là thời kì kháng chiến, đặc điểm chủ yếu của trào lưu xã hội là nhấn mạnh sự dung hợp của văn hóa trung tây, phục hưng văn hóa dân tộc (biểu hiện là văn hóa Nho gia truyền thống) trở thành phương diện chủ đạo của trào lưu xã hội.
Sự khác biệt trong giai đoạn này còn biểu hiện trên kết cấu ý thức của họ. Tiên sinh Lương Thấu Minh chủ yếu thông qua Phật học đặc biệt là phương pháp duy thức học để tăng cường và phát triển Nho học. Còn tiên sinh Phùng Hữu Lan chủ yếu thông qua phương pháp triết học Phương Tây đem cải tạo và xây dựng cơ cấu hệ thống triết học Trung Quốc.
Để làm Tân nho gia đời thứ nhất trên ý nghĩa hiện đại, cộng đồng các ông ấy phải đối mặt với nguy cơ văn hóa và nguy cơ dân tộc vốn trước đây không có, đều lấy việc hoằng dương Nho học làm nhiệm vụ của mình. Tin tưởng lấy Tân Nho học thời Tống Minh của Trình, Chu, Lục vương làm đại biểu, biểu hiện ra ý thức lịch sử và ý thức dân tộc một cách mãnh liệt. "Tân nho gia dùng tư tưởng tinh hoa của nho gia để bồi dưỡng học vấn và nhân cách của mình, lại đem học vấn và cái nhân cách đó gánh vác trách nhiệm kế thừa và phát triển văn hóa.
Năm mươi năm sau Tân nho gia đời thứ nhất tuy đại đa số vẫn sống ở Đại lục, mà do bối cảnh xã hội của thời kì đó, Tân Nho học chưa thể ở Đại lục phát triển thêm một bước.
Nhưng Tân nho gia đời thứ hai cũng tồn tại không đầy đủ và hạn chế. Tiên sinh Thành Trung Anh cho rằng: Tân nho gia đời thứ hai chỉ là đối với lịch sử triết học phương Tây trên mỗi một trường phái triết học thì đi sâu vào tìm tòi nghiên cứu mà đối với ý nghĩa chỉnh thể của triết học phương Tây và tinh thần triết học phương Tây hiện đại thì thiếu hụt sâu sắc, từ đó mà Tân nho gia đời thứ hai chưa thể chân chính đứng ở trên cơ sở bình đẳng, cùng với các nhà tư tưởng nổi tiếng của phương Tây hiện đại tiến hành đối thoại trong bầu không khí cởi mở. Ngoài ra Tân nho gia đời thứ hai nhận thức và phản tỉnh đối với cuộc vận động văn hóa tân Ngũ Tứ cũng biểu hiện ra sự phê bình.
Chính là ở phương diện này Tân nho gia đời thứ ba đã thể hiện ra tính ưu việt rất lớn: Dư Anh Thời, Lưu Thuật Tiên, Thành Trung Anh và Đỗ Duy Minh học thuật của các ông ấy đã đạt đến mức tương đồng, tức là đầu tiên đều ở Cảng Đài học đại học và sau đại học, sau đó đều đến nước Mỹ nhận học vị Tiến sĩ. Sau khi tốt nghiệp thì ở lại nước Mỹ giảng dạy nghiên cứu. Có thời gian lại trở về cố quốc công tác, trong số họ có người đã nhập quốc tịch Mỹ (như Đỗ Duy Minh), có người ở lại nước Mỹ công tác trong một thời gian dài sau mới quay về định cư ở cố quốc (như Lưu Thuật Tiên). Tân nho gia đời thứ ba trong lúc tiếp thu nền giáo dục ở Cảng Đài trực tiếp từ thày Phương Đông Mỹ, Từ Phục Quan, Đường Quân Nghị và Mâu Tông Tam đã đặt được nền móng cơ sở cho học thuật truyền thống Trung Quốc, sau khi đến nước Mỹ lại tiếp thu hệ thống giáo dục của văn hóa phương Tây và huấn luyện tư duy triết học phương Tây nghiêm ngặt. Do các ông ấy có một thời gian dài sống, công tác và học tập ở nước Mỹ, đủ dùng phương pháp và ngôn ngữ triết học phương Tây hiện đại để trình bày văn hóa truyền thống Trung Quốc và các giá trị hiện đại khác.
Tổng kết những điều đã được trình bày ở trên, một bộ sử phát triển Tân nho học, ở thời kì Đổng Trọng Thư ở đời Hán, khóa đề chủ yếu để giải quyết sự phát triển của Nho học là dung hợp phương pháp và tư tưởng của đạo gia, Pháp gia và Âm Dương gia, để xây dựng "tư tưởng đại thống nhất" làm triết học chính trị đặc trưng, cũng tức là "ngoại vương chi học". Thời kì Tống Minh, khóa đề chủ yếu để phát triển Nho học là phê phán sự hấp thu tư tưởng Đạo gia và phương pháp, đã xây dựng lấy "cách vật trí tri", và "phát minh bản tâm" là đặc trưng của đạo đức, cũng tức là "học nội thánh". Thời kì Ngũ Tứ trở về sau, Tân nho gia hiện đại có truyền nhân và nhân tài lớp lớp xuất hiện, đối mặt khiêu chiến với triết học phương Tây và văn minh phương Tây, Tân nho gia hiện đại đã tiến hành phấn đấu, nỗ lực xúc tiến chuyển hóa hiện đại của truyền thống Nho gia. Triển vọng tiền cảnh của phát triển văn minh nhân loại và phát triển thời kì thứ ba của Nho học, các nhà Tân nho gia hiện đại đã lạc quan tự tin, lại ý thức được rất nhiều khó khăn. Tân nho gia hiện đại ở trong chặng đường sinh mệnh học thuật của mình đã luôn luôn tự cường không nghỉ, thể hiện ra truyền thống Nho gia "vi vãng thánh kế tuyệt học, vi vạn thế khai thái bình"./.
PHẠM LAN (Dịch theo sách Trung Quốc nho học. Nhà xuất bản Đông Phương, 1997).
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.296-301)