Những góc nhìn Văn hoá

Thi pháp thơ Thanh Tâm Tuyền qua hai tập Tôi Không Còn Cô Độc và Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy [II]

 Chương 2

CON NGƯỜI - THỰC TẠI TRONG TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC LIÊN, ĐÊM, MẶT TRỜI TÌM THẤY

 2.1. Quan niệm văn học, quan niệm thơ của Thanh Tâm Tuyền

2.1.1. Quan niệm về sáng tác văn học nói chung của Thanh Tâm Tuyền

2.1.1.1. Quan niệm văn học là sản phẩm mang tính lịch đại

Mỗi thời đại có những chuẩn mực về văn hoá, đạo đức, triết học... khác nhau ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo của nhà văn và quá trình tiếp nhận của công chúng. Thời đại quy định sự hình thành của các thể loại, mỗi thời kì có những thể loại đặc trưng, ở một góc độ nào đó thể loại phản ánh quan niệm nghệ thuật của thời đại. Quan niệm văn học là nguyên tắc cắt nghĩa đời sống của một nghệ sĩ, một thế hệ nghệ sĩ, nó xác định kết cấu tác phẩm, thế giới quan, nhân sinh quan người nghệ sĩ về con người và vũ trụ. Mặt khác, Từ điển thuật ngữ văn học viết: "điều chủ yếu trong sự tiến hoá của nghệ thuật và của xã hội nói chung, là đổi mới cách tiếp cận và chiếm lĩnh thế giới và con người. Và do đổi mới quan niệm mà thế giới cũng được chiếm lĩnh sâu hơn, rộng hơn với những phạm vi, giới hạn, chất lượng mới" [16; 230].

Nói vậy có nghĩa lịch sử của văn học là lịch sử của sự đổi mới. Những cách tân sáng tạo của những tác giả Xuân Thu nhã tập, Dạ đài... và giờ đây là Sáng tạo không nằm ngoài quy luật đó. Khi thời đại đã thay đổi, văn học không thể đứng yên bởi: "Quan niệm nghệ thuật của văn học có quan hệ mật thiết với quan niệm về thế giới và con người về mặt triết học, khoa học, tôn giáo, đạo đức chính trị vốn có của thời đại mình. Nhưng do đặc thù mà quan niệm nghệ thuật có những thể hiện bộc lộ riêng" [16; 230].

Thời kì Thơ mới, xã hội Việt Nam vẫn đang là xã hội thực dân nửa phong kiến. Sự ảnh hưởng của phong hoá Âu châu là rất đáng kể, so với những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế hỉ XX. Đội ngũ trí thức Tây học hết sức đông đảo, tầng lớp thị dân, dân buôn, khoa học kĩ thuật phát triển, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật cũng khác. Đặc biệt là nhiều dòng ý thức hệ tân tiến Tây phương, bằng nhiều con đường khác nhau, đã đến Việt Nam. Như vậy cách cảm, cách nghĩ của người Việt lúc này đã khác cha ông mình cách đó chỉ một vài thế hệ. Không thể nói như người xưa, cũng không thể nghĩ như người xưa... Vì vậy Thơ mới ra đời phản ánh sự biến động của lịch sử xã hội chứ không phải chỉ riêng văn học.

Những năm 1950 - 1960, tuy đất nước đang bị chia cắt làm hai miền, nhưng chế độ thực dân kiểu cũ đã chấm dứt. Cuộc chiến tranh chống Mĩ ngày càng căng thẳng, quyết liệt. Miền Nam Việt Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hoà, được sự viện trợ hàng tỉ đô la của Mĩ mỗi năm, xuất hiện nhiều đô thị theo mô hình phương Tây. Sài Gòn là một trung tâm kinh tế chính trị văn hóa xa hoa tráng lệ trong khu vực. Với sự xuất hiện của binh lính và cố vấn Mĩ, lối sống Mĩ, văn hoá Mĩ... xâm nhập vào các đô thị  miền Nam Việt Nam. Sách báo ngoại viện, văn hoá phẩm, xa xỉ phẩm và tư tưởng Mĩ... ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hoá - xã hội đương thời. Nói cách khác cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã  thay đổi rất nhiều so với những năm 1932 - 1945, đó chính là những cơ sở quan trọng cho một cuộc cách tân mới trong thi ca sớm muộn cũng sẽ xẩy ra

2.1.1.2. Quan niệm về sáng tác văn học của Thanh Tâm Tuyền

Cùng với những bạn viết tham gia sáng lập và đóng góp cho tạp chí Sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền chủ trương làm mới cho "văn nghệ hôm nay”. Trong những cuộc thảo luận cùng các thành viên tạp chí Sáng tạo Thanh Tâm Tuyền đã thể hiện quan điểm của mình về sáng tác văn học nói chung, về thơ ca nói riêng.

Đánh giá về nghệ thuật tiền chiến, Thanh Tuyền và các đồng chí của ông cho rằng, tuy có một số tác động tới sự đổi mới thơ ca nhưng không đáng kể, theo cách nói của Thanh Tâm Tuyền, "nghệ thuật tiền chiến chỉ có giá trị của một thời kì tập sự làm quen với kĩ thuật mới du nhập từ Tây phương. Trong địa hạt văn chương thì sự trau dồi từ ngữ và cú pháp mới. Nghĩa là hoàn toàn ngôn ngữ. Còn tất cả những gì thật là nghệ thuật thì là ấu trĩ" [67; 4].

Thanh Tâm Tuyền cho rằng sáng tác của Tự Lực văn đoàn không phản ánh được bản chất đời sống. Họ chọn những vấn đề chạy theo thị hiếu tầm thường của thời đại hơn nữa những vấn đề như tình yêu - hôn nhân, lễ giáo... chỉ là những đề tài vụn vặt, nhà văn đã không có gan tìm cho mình một con đường riêng cho dù con đường ấy vắng người qua lại thậm chí thiệt thòi bởi độc giả có thể quay lưng. Văn chương nghệ thuật nói chung, tiểu thuyết nói riêng cần sâu sắc, kị sự dễ dãi nông cạn. Cũng như thơ, tiểu thuyết cần sự bí ẩn, cần những khoảng trống để người đọc khám phá. Cái mà người ta gọi là tiểu thuyết luận đề thực chất đã giết chết tiểu thuyết bởi nó là những sáng tác "nông cạn". Nghệ thuật không cho phép nhà văn xuất đầu lộ diện để phát ngôn như một nhà tư tưởng, mặc dầu tất cả những nhà văn chân chính, đích thực đều là những nhà tư tưởng. Thanh Tâm Tuyền "muốn công kích ngay cái loại mà người ta gọi là tiểu thuyết luận đề - kể cả những luận đề cao nhất - là của một quan niệm ấu trĩ về tiểu thuyết. Bởi tính cách luận đề phản nghệ thuật. Tác giả đặt ra những bài toán mà tác giả đã biết trước lời giải rồi dùng những xảo thuật máy móc đưa độc giả tới giải pháp của mình"[67; 5].

Một trong những hạn chế khác của tiểu thuyết tiền chiến, và cũng là của nghệ thuật tiền chiến nói chung, là sự giản đơn, máy móc của nó. Thanh Tâm Tuyền cho rằng tiểu thuyết tiền chiến không nhiều sáng tạo, chung quy lại nó chỉ có chừng ấy vấn đề, một số hình thức biểu hiện, thậm chí có thể quy thành công thức. Mà nói đến công thức là nói đến sự đơn điệu trong sáng tạo, nói cách khác đó là sự phi sáng tạo, phản sáng tạo: "có thể gọi chung tiểu thuyết tiền chiến là một thứ tiểu thuyết đơn giản. Trước hết, đề tài là một sự giản lược của đời sống. Cốt truyện cũng hết sức giản lược, có thể quy thành công thức sau này: một đàn ông + một đàn bà = một chuyện tình. Chuyện tình có thể chia rẽ hay hoà hợp, bởi trở ngại cũ, mới, luân lý, lý tưởng v.v. Bố cục tiểu thuyết tiền chiến thì mạch lạc, đơn giản. Tâm lý hời hợt, bởi chỉ ngưng lại cái vỏ con người là tình cảm" [67; 7].

Ngoài ra, Thanh Tâm Tuyền đòi hỏi nhà văn phải thể hiện được tư tưởng chủ quan của mình về đời sống. Mà đời sống thì luôn diễn ra với những biến cố phức tạp sống động, con người cũng cần được đặt trong những mối quan hệ phức tạp của đời sống. Nhà văn không thể nhìn nhận cuốc sống một cách dễ dãi. Những yếu tố vốn được xem là trung tâm của tiểu thuyết truyền thống như nhân vật, cốt truyện... thì Thanh Tâm Tuyền không đánh giá cao, nghĩa là về mặt chủ trương ông đã xác định những phương diện cần cách tân.

Chính vì vậy trong truyện Bếp lửa tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, nhiều từ đơn âm ít từ kép, lại càng ít từ Hán - Việt. Lối đặt câu ngắn có khi cụt ngủn, giản lược các từ, câu văn cô lại khó hiểu như một sự dồn nén trong nội tâm, cảm xúc nhân vật, có sự tương giao với chất thơ, chất nhạc: "Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh"; "ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội"; "Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ"; "Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã"... [dẫn theo: 96; 7]. Không khí chung trong truyện Bếp lửa là không khí tiểu thuyết mới. Chính Thanh Tâm Tuyền đã xác định: "Điều chúng ta nhận thấy trong một số tiểu thuyết mới là tác giả chú trọng tạo cái không khí cho toàn thể tác phẩm. Không khí là chính. Nhân vật là phụ" [67; 11].

Về mặt kết cấu Thanh Tâm Tuyền chủ trương sử dụng lối kêt cấu mở, nhà văn không có chủ đích hướng độc giả vào một đề tài, chủ đề cụ thể như luân lí, đạo đức, triết học, chính trị... tác phẩm cũng không cần kết luận mà trình bày một sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những tiếp nối về sau. Trong tác phẩm, tác giả trở thành chứng nhân không thể loại trừ, chứng nhân nằm trong diễn biến, va chạm với hoàn cảnh. Thanh Tâm Tuyền chủ trương khai thác đời sống tâm linh, cái chiều sâu thẳm trong con người. Muốn vậy công cụ khai thác nó là thuyết phân tâm học của Freud: "Bây giờ, con người là một đồng nhất. Trong mỗi hành động đều gồm cả một đời sống tâm linh. Phải kể ở đây tâm lý học của Freud chú trọng khai triển con người ở bí mật tiềm thức hiện lên" [67; 15].

Những truyện về sau, như tập truyện ngắn Dọc đường, tiểu thuyết Cát lầy là hai tác phẩm nổi bật, Thanh Tâm Tuyền càng đi sâu vào những bí ẩn siêu hình, truy lùng nhận thức, mô tả hiện tượng, đi vào chiều sâu cái thế giới đen tối, phức hợp của những khắc khoải nội tâm. Văn phong độc đáo, cách tạo hình của hội họa lập thể... gây cho người đọc những vật vã, những căng thẳng khó chịu...

Người đọc, theo Thanh Tâm Tuyền, có một vị trí rất quan trọng trong quá trình lĩnh hội tác phẩm. Những con chữ trong tác phẩm chỉ là công cụ để người đọc theo đó mà vui buồn, mà suy tư và tự tìm thấy vấn đề. Trong quá trình đó, người đọc là một chủ thể sáng tạo, ít nhất họ làm chủ suy nghĩ của chính mình, không phụ thuộc vào suy nghĩ của người khác...''Đọc là chìm mắt. Mặc cho chữ nổi hiện, tiếng lời làm chủ. Đọc là buông thả và chăm chú. Như đứa trẻ chưa biết nói lắng nghe tiếng trò chuyện bông đùa của người lớn (người lớn đang quên mình là người lớn). Những chữ vô tội, những tiếng vô tội, không chỉ thị, không phát hiện, biểu diễn những bỗng - những chênh chao vang động của lúc, của thoáng'' [104; 7].

Thanh Tâm Tuyền rất đề cao sáng tác văn học, đòi hỏi sự nghiêm túc, cẩn trọng nhưng đó vẫn là một "trò": "Văn chương không phải là trò đùa hồn nhiên, giản dị, ngây thơ. Văn chương là một trò dành cho “người lớn”, giữa một thế giới “người lớn”. Đó là niềm hạnh phúc và mối bất hạnh của “người lớn” viết. Văn chương không phải là chuyện “trẻ con”, không phải chuyện “rỡn”. Đó là một trò hết sức nghiêm trọng [104; 3].

Thanh Tâm Tuyền và những người cùng chung chí hướng mong muốn "kết liễu" một cách nhanh chóng nhất số phận của kiểu sáng tác Thơ mới, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn... cho dù để chiến thắng, đôi lúc họ đã phũ phàng với các bậc tiền nhân, những người mà chính họ đã một thời ngưỡng mộ. Quan điểm của Thanh Tâm Tuyền về nghệ thuật tiền chiến là khá toàn diện và sâu sắc nhưng thiển nghĩ cần loại trừ những phát ngôn có phần cực đoan trong khi phủ định. Dầu sao quan niệm vẫn chỉ là cái chủ quan cho dù đó có là quan niệm của một nhóm người, một tập thể. Quan niệm văn học cũng mang tính chất lịch đại nên mỗi thời mỗi khác.

2.1.2. Quan niệm về thơ của Thanh Tâm Tuyền

2.1.2.1. Quan niệm về chất thơ

          Quan niệm về thơ là những gì mà người thi sĩ ấp ủ, nó thể hiện cái nhìn của chủ thể sáng tác về thế giới. Quan niệm về thơ cũng chi phối việc lựa chọn hình thức ngôn ngữ nghệ thuật, chi phối nội dung, cách xây dựng hình tượng... của quá trình sáng tác. Quan niệm về thơ của  người Việt đã có từ thời trung đại. Về bản chất thơ ca, người xưa cho rằng thơ ca "ý tại ngôn ngoại", "quý hồ tinh, bất quý hồ đa''. Theo Trúc Đường thut c thi tp: “Thơ là tâm của vũ trụ” (Thi thị thiên địa tâm), “Thơ là nguyên âm của vũ trụ” (Thi thị thiên địa chi nguyên thanh). Thơ gồm ba yếu tố: tâm (đạo tâm - cái biết của tự nhiên và nhân tâm - cái biết của con người), tính (nhân, nghĩa, lễ, trí), tình (yêu, ghét, vui, mừng….). Tâm, tính, tình bao giờ cũng phải có khuynh hướng rõ ràng, đó chính là cái chí, ở trong tâm là chí, biểu hiện ra thành lời là thơ . Những đặc điểm của thơ cũng được người xưa chú ý  với những tính chất như 'thi trung hữư hoạ",' 'thi trung hữu nhạc''... Đến thời hiện đại, Hồ Chí Minh từng nói trong Cảm tưởng đọc thiên gia thi: "Nay ở trong thơ nên có thép - nhà thơ cũng phải biết xung phong" Mỗi trường phái, mỗi nhóm sáng tác, mỗi tác giả có những phát ngôn riêng về thơ.  

Là một nhà thơ mà sáng tác rất kén độc giả, nhưng Thanh Tâm Tuyền lại rất chú ý đến mối quan hệ giữa thi sĩ và độc giả. Nhà thơ cho rằng: "Thơ là cái gì người thơ làm ra và người đọc thơ cảm nhận được. Còn không nhận được thì có bao nhiêu định nghĩa cũng thừa" [67; 38]. Người xưa cho rằng đã là thơ thì phải hiểu được, không hiểu nhiều thì hiểu ít và họ cứ cố gắng đi tìm cho được điểm gặp gỡ tri kỉ, kiểu như Bá Nha - Tử Kì. Thanh Tâm Tuyền thì khác, ông quan niệm thơ không cần hiểu mà chỉ có thể cảm. Ngôn từ, cấu trúc thơ chỉ là cái cớ để người đọc tiếp tục tự do sáng tạo, họ có thể thoả sức mà tiếp nối những gì nhà thơ gợi ra, mở ra. Nhà thơ không đóng khung tác phẩm của mình vào những khuôn khổ nhất định, cũng không trói buộc độc giả vào một phạm vi cụ thể.

Thanh Tâm Tuyền cũng xác định thơ phải xuất phát từ đời sống, gắn với đời sống. Nếu không gắn với đời sống thì thơ không còn là thơ nữa, chí ít thơ không còn có được chức năng đặc biệt như nó vốn có. Có điều chất liệu đời sống cũng mỗi thời mỗi khác, thơ ca không thể sao chép cóp nhặt những cái xa lạ, những cái của hôm qua để làm chất liệu sáng tác cho hôm nay. Thanh Tâm Tuyền phê phán những kiểu ngôn ngữ sáo rỗng kiểu tầm chương trích cú. Ông quan niệm ngôn ngữ thơ hôm nay cần chân thành, giản dị như đời sống vốn có, không cần những xác chữ tuy đẹp mà vô hồn, xa lạ với thực tiễn cuộc sống và tâm hồn con người hôm nay. Thơ phải gợi cái gì xa xôi tưởng như ai cũng có thể chạm tới, nhưng càng vươn tới những hình ảnh thơ lại càng lùi xa, quá trình tiếp nhận thi ca là quá trình tìm kiếm không ngừng không nghỉ. Ngôn ngữ thơ phải tiềm ẩn trong nó những âm thanh sâu lắng không phải ai cũng có thể nghe và hiểu. Thơ khác với các loại hình văn bản phi nghệ thuật khác ở chỗ thơ là văn bản tiềm ẩn ý nghĩa, các loại hình khác lại bộc lộ toàn bộ ý nghĩa: "Bây giờ ta không còn tìm thấy bến Tầm Dương, người kỹ nữ, những âm dương nhật nguyệt v.v. Cho nên không có đời sống nâng đỡ, những xác chữ đẹp đến mấy cũng không làm rung động người ta được nữa. Từ đó, tôi đi đến kết luận: Thơ đi đến chỗ tiêu diệt khi nó phô hết ra phần hình thức" [67; 44].

Văn chương gợi nên cho độc giả tinh thần, không khí của thời đại, ghi chép những tín hiệu đời sống, biến những tín hiệu ấy thành nghệ thuật, độc giả sẽ tiếp nhận những tín hiệu ấy theo những cảm xúc riêng, tâm trạng riêng... "Thơ nẩy ra, làm ra những nhịp thở, những phút sống ngay chính trong lúc đó. Văn chương không “làm” ra cái gì hết. Văn chương chỉ là sự ghi chép. Có chăng chỉ là những tín hiệu của một đời sống ở đâu ngoài những câu kệ tan nát" [104; 4].

Lí luận truyền thống thường nói đến sự sâu sắc của tác phẩm văn học, một tác giả xuất sắc phải nói lên được những vấn đề lớn lao to tát của xã hội: nhà văn phê phán cái gì?, yêu ghét cái gì?, tư tưởng triết học hoặc chính trị, tôn giáo ra sao?... và người đọc đi tìm những giá trị đó như những hằng số xác định. Văn chương ngày nay có thể  nói lên những gì không thể nói, nói cái sâu thẳm trong tâm thức, trong cõi lòng con người, nói bằng lối vu vơ, nói bằng cách xa xôi... "Ngày trước văn chương phải “nói lên được một cái gì”. Ngày nay văn chương chán “nói lên cái gì”, bèn nói cái - không - là - cái - gì, nói - cái không - thể - nói, cái - không - thể - nghĩ. Nhưng trước hay nay, văn chương vẫn phải nói" [104; 6].

Thơ tạo cho người đọc những cảm xúc, những rung động chân thành, nó chiếm lĩnh tâm hồn con người trong khoảnh khắc bằng từng dòng, từng ý thơ... không nên chú ý nhiều đến những yếu tố ngoại văn bản, có thể nó sẽ giết chết chất thơ bằng các tiểu sử, các vấn đề chính trị... "Một bài thơ tự đầy đủ, không khi nào cần kêu gọi đến những gì ở ngoài nó. Mỗi câu thơ cũng vậy. Rất thường là anh chỉ thuộc và đọc vài ba câu thơ trong một bài, chẳng cần nhớ đến câu trên câu dưới. Như anh ngắm một góc của bức họa hay nghe một hồi hay một đoạn nhạc" [104; 5].

Thơ đem đến cho người đọc những phút giây thanh lọc tâm hồn, ta soi rọi tâm hồn mình vào thơ mà hiểu mình, hiểu đời, hiểu người... Qua thơ ta thấy được những nét đẹp của cuộc đời lâu nay bị khuất lấp bởi tự tâm hồn ta khép kín nên không thấy được vẻ đẹp cuộc đời: "Và thơ là gì? Nếu không phải là sự khám phá mầu nhiệm bằng ngôn ngữ một thế giới vẫn trốn mặt ở quanh. Sự phơi mở ở thơ cho anh cảm giác tràn đầy hạnh phúc, tâm hồn đã nhập được một phần của sự sống bí ẩn còn thiếu sót. Những phút xâu dài như một đời'' [106; 2]. Thơ đem đến cho con người sự thanh thản, "Ở thơ không thể có không khí của một thế giới bất trắc". Thơ gột rửa cho tâm hồn con người nhưng con người cũng cần có một niềm tin ở chính mình và ở chính ngay thơ.

2.1.2.2. Quan niệm về thi sĩ

Xưa nay người ta đã nói nhiều về thi sĩ. Mỗi thời mỗi khác nhưng thời đại nào cũng xem thi sĩ là một "loại người" đặc biệt. Từ quan niệm đặc biệt về loại người này mà người ta quan niệm về chức năng, nhiệm vụ người thi sĩ. Con người thi sĩ được biểu hiện chủ yếu qua thơ ca, sáng tác. Mỗi người có một phong cách, một bút pháp riêng không trộn lẫn vào đâu. Con người thơ phản ánh con người đời thường.

Đã là thi nhân, chưa ai nhận mình là người bình thường cả. Chỉ có điều họ khác nhau ở cách thể hiện quan niệm đó mà thôi. Nếu Tản Đà tự cho mình là một ''trích tiên'' bị ''Đày xuống hạ giới vì tội ngông'' thì Xuân Diệu tự nhận mình là: ''con chim đến từ núi lạ / Ngứa cổ hót chơi''. Nếu Thế Lữ xem mình là ''người bộ hành phiêu lãng'' thì Huy Cận lại thấy mình là ''một chiếc linh hồn nhỏ:/ Mang mang thiên cổ sầu’’...  Tuy có điểm khác nhau nhưng quan niệm về thi sĩ xưa nay  vẫn có điểm tương đồng họ đều cho rằng nhà thơ là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Bởi lẽ, nếu không có ''con mắt thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời'' (Mộng Liên Đường chủ nhân), không có sự linh cảm, không có thiên nhãn, không có sự thăng hoa trong sáng tạo thì làm sao trở thành thi sĩ được.

Quan niệm về nhà thơ của các nhà Thơ mới đã mở ra cái nhìn ''dân chủ hoá'' về vai trò của nhà thơ và quá trình sáng tạo thi ca, phá vỡ tính qui phạm trong quan niệm về nhà thơ của văn học trung đại. Đến lượt Thanh Tâm Tuyền, cũng như các bậc tiền nhân khác, ông quan niệm thi sĩ là người có quyền lực đặc biệt. Thi sĩ như một vị Hoàng đế có quyền uy tối thượng. Nhưng có điều khác với với Hoàng đế của một vương quốc, Hoàng đế thi ca chỉ có những "luật lệ tinh thần". Hoàng đế thi ca không cai trị loài người bằng sự chuyên quyền, bạo ngược mà "người hoàn toàn tự do". Trong quan hệ giữa thi sĩ - độc giả Thanh Tâm Tuyền vẫn xác định vị thế trung tâm của chủ thể sáng tạo nhưng ông cũng đề cao vai trò của độc giả, nhà thơ không gò ép độc giả phải đi tìm mình, tức đi tìm những ý tưởng mà nhà thơ gởi gắm trong tác phẩm. Bài thơ mở đầu tập Tôi không còn cô độc được xem như một tuyên ngôn thơ của Thanh Tâm Tuyền. Chúng ta thấy ấn tượng đầu tiên về Thanh Tâm Tuyền là một thi sĩ kiêu căng, ngạo mạn. Con người thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã khác rất xa cái thời Thơ mới, thời mà Hoài Thanh - Hoài Chân nói: "thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước" [80; 46]. Xác định vị thế của mình, một thi sĩ, Thanh Tâm Tuyền cao giọng:

Ở đây tôi là vị Hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất  

đai của tôi.

người hoàn toàn tự do.

để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người

muốn nhập lãnh thổ.

người hoàn toàn tự do.

Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ

''Người hoàn toàn tự do'' nghĩa là người không phải vướng bận, luỵ thuộc vào quyền lực của tôi. Người cũng không bị tôi gò bó trói buộc vào những khuôn khổ tù túng, chật hẹp. Người cũng tự do nếu không còn phục tôi nữa, không muốn làm thần dân của vương quốc tôi, tôi sẵn sàng giải phóng. Hình ảnh Thi nhân - Hoàng đế là một cái nhìn mới mẻ, đặc sắc của Thanh Tâm Tuyền.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói rằng thi sĩ là "kẻ say'', ''kẻ điên''... Nhưng cái say, cái điên của thi sĩ chính là cái khác biệt với người thường. Thi sĩ, khi đến với nàng thơ là đến với tất cả lòng đam mê không vụ lợi, đến và hiến dâng trọn đời mình. Sáng tác văn chương nói chung, thơ ca nói riêng là một quá trình trăn trở, lột xác, quá trình nhào nặn. Theo Thanh Tâm Tuyền, người nghệ sĩ chân chính phải biết xem thơ là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự cứu rỗi cuối cùng của cuộc đời. Người nghệ sĩ phải có động lực sáng tạo, phải tự tạo ra động lực sáng tạo. Tâm huyết người nghệ sĩ như ngọn triều dâng có thể cuốn trôi mọi chướng ngại trên đời đem thi sĩ đến với vương quốc thơ ca. Trong vương quốc ấy người thi sĩ không thể nản lòng lùi bước: "khi nói thơ ngày nay đau yếu là tôi nghĩ những người làm thơ đã phải cố gắng để làm thơ. Làm giống như dân lao động bị đày ải. Không có sức xô của đời sống quanh mình, không có ngọn trào ập qua mình, mọi thiên tài đều hụt hơi trơ trẽn, tiếng nói ngắn ngủn như tiếng nấc cụt'' [106; 2].

Hành trình sáng tạo thi ca vừa là một hành trình đầy sóng gió, vừa là một hành trình nhiệm mầu. Thi sĩ đến với thơ tự nhiên như tìm đến với bản ngã, không cầu kì, không cao sang nhưng có cái gì đó rất thần bí. Nàng thơ có thể tìm đến thi nhân bất cứ lúc nào không hẹn ước. Thi sĩ không phải ai xa xôi, cũng không phải thánh thần nhưng có diễm phúc được sống trong những giây phút thánh thần do thơ đem lại. Nàng thơ cũng không đòi hỏi xa hoa nhưng thi sĩ phải là người phát hiện nàng thơ đang ở đâu và có khả năng thuyết phục để nàng ở lại.

Thanh Tâm Tuyền cũng quan niệm người thi sĩ khác những nghệ sĩ khác như nhà tiểu thuyết, kịch tác gia... không chỉ ở thiên chức mà còn ở cách thể hiện, những con người bình thường nhất, giản dị nhất nhưng thật đặc biệt. Ngay cả với thi sĩ không phải lúc nào muốn là có thể làm thơ, chỉ có thể làm thơ khi nàng thơ ghé thăm, làm được nhiều hay ít cốt ở cái "duyên" của người nghệ sĩ: "Một bài thơ được hoàn thành như thế nào? Khi không (tạm coi là khi không đi), anh đang đi, anh đang chơi, anh đang làm việc, anh bỗng nghe vang đâu đó (tuốt sâu trong, xa lắc ngoài) một hình tượng, một ngâm nga, một rung chuyển, một lượn lờ, một gì gì vô ngôn quái quỷ hay thánh thần (nói theo điệu Bùi Giáng), gì gì cũng được và anh bị đẩy bật, chới với, đuổi theo chụp bắt, nhốt vào trong lời, trong điệu, trong cách'' [104; 1]. Con người đặc biệt này, thi sĩ, kẻ có thể "ru với gió, mơ theo trăng"... ấy, giữa cuộc đời, giờ đây, họ rất thật. Xưa kẻ sĩ, và cùng là thi sĩ, "ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch" (Nguyễn Công Trứ) thì nay trong tâm tưởng Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ vẫn còn đó cái phong lưu, tiếu ngạo: "Người làm thơ là kẻ lêu bêu" [104; 3].

''Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu"... (Chế Lan Viên), nói vậy có nghĩa họ là một ''loài'' riêng, không bình thường so với hết thảy chúng ta. Thanh Tâm Tuyền không phủ nhận cái năng lực đặc biệt ấy của thi sĩ, nhưng người thấy ở thi sĩ sự gần gũi, thậm chí họ là những kẻ ''khờ khạo'' trên đời. Nhưng thi sĩ cũng là người đem đến cho cuộc đời niềm vui và lấy bớt đi sầu muộn. Người thi sĩ vẫn ở giữa cuộc đời này, vẫn sống bên cạnh chúng ta và họ cũng là những con người "không điên" nhưng dại, chỉ dại thôi: "Thi sĩ. Đó là một loài mắc cỡ dễ thương nhất trên đời. Hắn lẫn trong đời, giữa mọi người, cùng sống với mọi người như một tên dại (anh nhớ là hắn dại, chứ không điên. Tôi bảo đảm với anh. Anh hãy đọc thơ của những người mà người ta bảo là điên xem. Tất nhiên, đừng đọc văn chương của họ)'' [104; 3].

Quan niệm về thi sĩ, kẻ lãng du suốt đời cùng nhân loại, xưa nay đã rất nhiều. Nhân loại còn tốn thêm nhiều giấy mực để nói về họ. Mỗi thời mỗi cách nói, mỗi quan điểm hay điểm nhìn khác nhau nhưng nhìn chung thời đại nào cũng thấy rằng thi sĩ là những người đặc biệt với năng lực đặc biệt, tâm hồn đặc biệt... Thanh Tâm Tuyền chưa thể nói thay tiếng nói của thời đại về người thi sĩ, xét cho cùng không ai có thể nói thay tiếng nói thời đại về người thi sĩ, nhưng những gì ông nói về thi sĩ là một phần của thời đại. Cái nhìn của ông về thi sĩ thể hiện nhận thức của nhà thơ về chính mình, về sứ mệnh của mình và cái nhìn đó phần nào chi phối cách viết của ông.

2.2. Cái tôi trữ tình trong Tôi không còn cô độc Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy

2.2.1. Tính đa ngã

Trong văn học ta vẫn thường nói đến tính đa diện, đa thanh, đặc biệt trong tiểu thuyết hiện đại. Đa diện, cũng có thể hiểu là đa tính cách, đặc điểm này có nhiều ở các nhân vật tiểu thuyết, một người mà trong bản thân họ mang những tính cách trái ngược nhau, tốt xấu lẫn lộn, vừa cao thượng vừa thấp hèn, vừa dũng cảm vừa nhát sợ. Tính đa thanh lại xét ở góc độ ngôn ngữ tác phẩm, phát ngôn trong tác phẩm thực chất là của ai, nhân vật, nhà văn, hay độc giả nói... khó mà phân biệt. Có lúc nhà văn để cho nhân vật nói lên quan điểm của mình, có lúc nhân vật xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau mà phát ngôn nên lời nói của họ mang nhiều tư cách, đại diện cho nhiều người, nhiều loại người...

Chúng tôi xét tính đa ngã trong thơ Thanh Tâm Tuyền ở  góc độ cái tôi tác giả, ở hình tượng nhân vật trữ tình. Trong thơ Thanh Tâm Tuyền ta bắt gặp một cái tôi đa ngã luôn bị phân thân, bị giằng xé mãnh liệt. Thơ truyền thống xưa nay thường chỉ có một nhân vật trữ tình, tác giả, bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp, hoặc nhập thân vào hình tượng khác (con hổ trong vườn bách thú - Nhớ rừng của Thế Lữ). Loại nhân vật trữ tình phân thân để tự đối thoại với chính mình quả thực hiếm có thế nhưng trong thơ Thanh Tâm Tuyền lại là một hiện tượng phổ biến.

Vì sao lại có hiện tượng độc đáo này? Trong thơ, Thanh Tâm Tuyền thường xuyên đối diện với chính mình, đối diện với sự cô đơn, cô độc khủng khiếp. Một mặt do ông chịu ảnh hưởng chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu văn học xuất hiện ở châu Âu sau thế chiến II, khi mà con người phải đối diện với những đảo lộn, những mất thăng bằng do chiến tranh đem lại. Mặt khác, Thanh Tâm Tuyền, phải sống trong một thời kì mà đất nước có nhiều biến động, là một sĩ quan trong quân đội ông không lạ gì những tổn thất, những mất mát do chiến tranh đem lại. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: "Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh cho rằng trong thế giới ngày nay mọi giá trị tinh thần đang mất hết ý nghĩa mà không thể bù đắp lại được. Điều dó sẽ dẫn tới tấm thảm kịch truyền kiếp "thân phận con người" mà nhà triết học Đan Mạch Kiếckêga từ thế kỉ XIX, đã có nói đến các thuyết về tội lỗi con người ở một thời đại mất chúa" (thực chất là sự quan niệm về sự mất ý nghĩa của cuộc sống). Theo họ thì con người đang bị bỏ rơi trong nỗi cô đơn giữa cái hiện hữu thù nghịch, cho nên cuộc đời chỉ là một sự vô nghĩa" [16; 64].

Thanh Tâm Tuyền luôn đối thoại, luôn phân thân để đối thoại. Bài Phục sinh có thể coi như một bức thông điệp của Thanh Tâm Tuyền về nghệ thuật và cuộc sống. Ở đó nhà thơ đối diện với chính mình từ thực tại ngán ngẩm, "tôi buồn khóc như buồn nôn", đến giải pháp "tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ". Lúc này mới chỉ có sự tách biệt giữa ''tên" và "tôi", tôi chưa hoàn toàn đối lập với chính mình. Trạng thái cảm xúc càng về sau càng tăng cao, "tôi" như một đối tượng biệt lập, kẻ thù, kẻ mà tôi đang giận:

    tôi hét tên tôi cho nguôi giận

    thanh tâm tuyền

    đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi

Có một "tôi" và một "Thanh Tâm Tuyền", kẻ mà "tôi" hướng đến, đang đối thoại nhau, "tôi gọi tên tôi", "tôi hét tên tôi" trong tột cùng thất vọng. "Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi", ai tội lỗi? "Tôi", Thanh Tâm Tuyền hay cái bản ngã trong "tôi"?.. không thể nào biết được. Nhà Nghiên cứu Đỗ Lai Thuý viết: “Cái mới ở thơ Thanh Tâm Tuyền, trước hết, là sự chủ thể hóa thực tại. Bởi thế, thơ ông trình hiện một cái tôi đa ngã. Không phải cái tôi nhất nguyên rã ra thành những bộ phận độc lập. Hay một kiểu sinh sản bằng cách tự sao lại bản mình. Càng không phải sự phân thân. Đa ngã là do đa thể. Bởi, con người vốn đa nguyên. Không chỉ ngoài con người có con người, mà, quan trọng hơn, trong con người có con người. Tôi là người là một người khác (Đừng bắt tôi từ biệt). Cái người khác ấy nhiều khi xa lạ với chính tôi, với chính sự hiểu biết của tôi. Nó đến từ những cơ tầng khác”[91; 2].

Và rồi mối quan hệ giữa con người Thanh Tâm Tuyền và cái bản ngã trong ông càng lúc càng căng thẳng, đó là cuộc đấu tranh tới cùng, không khoan nhượng để được phục sinh trong tính NGƯỜI toàn vẹn :

                                 tôi gào tên tôi thảm thiết

                                thanh tâm tuyền

                               bóp cổ tôi chết gục

                    để tôi được phục sinh

Xét cho cùng, sự mâu thẫn trong tôi ấy chính là sự mâu thuẫn, giằng xé của những con người trong một con người... Đó là sự tự giải thoát cho chính mình bởi những bi kịch nội tại. Nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê viết: "Trong khoảng tối nội tại, phóng ra những hình ảnh hỗn loạn, ghê gớm mà con người dấu kỹ trong tiềm thức và quên đi trong vô thức: Những tội ác, giết người, lang sói... của cái tôi được phanh phui, trần trụi trước ánh nắng thủy tinh, trước tia mắt băng trinh của em bé quàng khăn đỏ. (...) Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ: có một cái tôi hiện hữu (tôi gọi tên tôi) và một tôi vắng mặt (cho đỡ nhớ). Sự phân thân và phân tâm này vừa chứng minh sự xé đôi, sự đổ vỡ không cứu vãn được trong con người, vừa là nhận thức sâu xa về những mất mát, tứ tán của chính mình" [33; 72].

Trong thơ Thanh Tâm Tuyền luôn có sự đối kháng giữa một cái tôi tội lỗi, một con chó sói, loài sát nhân và cái tôi trong sáng, thánh thiện, như em bé quàng khăn đỏ. Chúng tìm kiếm nhau, thù hận nhau như hai thế lực bóng tối và ánh sáng, thánh thiện và và tàn nhẫn, nhân ái và tội ác... Đó là phần con và phần người trong chính tác giả, cuộc đấu tranh trong chính bản thân mình, trong tính đa ngã nhiều đau đớn và vô cùng quyết liệt. Hình ảnh thơ mang đậm tính siêu thực, thể hiện quan niệm về con người hiện đại, cái nhìn về bản thân:

                                em bé quàng khăn đỏ ơi

                                này một con chó sói

                                thứ chó sói lang thang

                                tôi thèm giết tôi

                                loài sát nhân muôn đời

          Có khi cái tôi cô đơn, cô độc Thanh Tâm Tuyền tự tách mình khỏi thân thể, hồn một nơi xác một nơi, người tự quan sát mình. Bao giờ cho thấy một cái tôi luôn khát vọng về ngày mai, về những giây phút bình yên trong cuộc sống. Thanh Tâm Tuyền bao giờ cũng thế, day dứt, dằn vặt trước hết là với chính mình, Đỗ Lai Thuý viết tiếp: “Hồn là khởi nguyên tinh thần, xác là khởi nguyên sinh học. Hồn, xác hòa hợp thì con người trùng khít với bản thân, có sự khỏe mạnh của cái cây, tảng đá. Ở Thanh Tâm Tuyền thường thì hồn và xác lìa nhau, tạo ra những cái tôi khác nhau. Tôi luôn nhìn, và nhìn thấy, thể xác tôi bị đau đớn, chảy máu, bị đâm chém với một thái độ dửng dưng”[91; 2]:

            Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông

  Mà lòng mình phơi trên kè đá

  Con thuyền xuôi

  Chiều không xanh không tím không hồng những ống khói tàu mệt lả

Thanh Tâm Tuyền đã cố gắng đi vào cõi sâu thẳm của tâm hồn mình, nói tiếng nói của mình bằng chính cổ họng mình:

                                 đêm qua ai thét giữa đêm dài

tỉnh dậy ôi nao nức

ấy là tiếng thét trong hồn ta

                                    (Phiên khúc 20)

''Ta'' tách khỏi chính mình, rồi giờ đây tiếng thét của ta tách khỏi cổ họng ta. Hai con người khác nhau trong một con người đang tồn tại. Một Thanh Tâm Tuyền của thực tại đang buồn đau thất vọng, một hình bóng Thanh Tâm Tuyền, hay chính là cái phần bản ngã sâu thẳm kia đang trỗi dậy. Nói cách khác có một Thanh Tâm Tuyền đang bị ám ảnh bởi những mất mát, thất bại. tuyệt vọng... trong cuộc sống sẵn sàng sẻ chia, tranh luận, đối thoại, thậm chí đối chọi, đấu tranh...

Có khi cái tôi đa ngã Thanh Tâm Tuyền tự xét mình qua một hình tượng khác, sự hoá thân. Nhân vật thi sĩ trong bài Tôi không còn cô độc là một sự hoá thân như vậy. Tiếng nói của thi sĩ chính là tiếng nói của Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tâm Tuyền lại đối thoại với chính mình, với mọi người (qua các nhân vật khác như ông già, em gái, người yêu, những người hợp xướng...) mà thực chất chỉ là sự phân thân của "nhiều mảnh" Thanh Tâm Tuyền.

Trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tác giả vừa là chủ thể sáng tạo vừa là đối tượng phản ánh. Thi nhân tự quan sát mình bằng chính đôi mắt của mình. Có ai hiểu mình hơn chính mình? Có ai hiểu hết cõi sâu thẳm không cùng của  con người mình? - chỉ có mình, ấy thế mà chưa chắc. Mình có thể hiểu mình nhất nhưng không phải là hiểu hết, những cái mà ta sợ hãi, những lỗi lầm, tội ác, cái đê hèn trần tục trong mỗi con người... ai mà không có và nó luôn bị che phủ bởi vẻ bề ngoài trái ngược, ít ai thấu thị. Cái tôi đa ngã trong thơ Thanh Tâm Tuyền thể hiện một con người cô đơn tột độ, người không biết bày tỏ cùng ai đành nói chuyện với chính mình có thể ngôn từ ấy không phải không gay gắt. Đó phải chăng còn là quá trình đấu tranh để con người vươn lên, hoàn thiện mình, dẹp bỏ những gì hạn chế, cái phần bản năng mà ai cũng có. Cái tôi đa ngã Thanh Tâm Tuyền chính là sự giằng xé, sự mâu thuẫn trong cõi sâu nhất linh hồn ông, đặc điểm này làm nên nét mới mẻ, đặc sắc của thơ Thanh Tâm Tuyền.

2.2.2. Tính bi kịch

2.2.2.1. Có thể nói thơ Thanh Tâm Tuyền đậm tính bi kịch, có bi kịch cá nhân, bi kịch thời đại, một thời đại loạn li nhiều biến động. Bi kịch thơ Thanh Tâm Tuyền phải chăng xuất phát từ bi kịch cuộc đời của ông. Sinh ra tại thành phố Vinh - Nghệ An, sống và học tập ở Hà Nội rồi di cư vào Nam năm 1954, cuộc đời Thanh Tâm Tuyền là một chuỗi dài li hương, như con thuyền không bến đỗ. Hiệp định Gienève phân chia đất nước làm hai miền, thực chất là hai quốc gia đối kháng, hình ảnh Hà Nội, vẻ đẹp đất kinh kì ngàn năm văn hiến luôn đau đáu trong ông. Cuộc đời Thanh Tâm Tuyền có quê mà mấy lần được về quê, phương Nam, xét theo góc độ con người, dẫu sao cũng chỉ là quê hương thứ hai.

Đi theo lí tưởng cộng hoà, làm việc trong quân đội, Thanh Tâm Tuyền cũng phải chứng kiến những tổn thất của chiến tranh. Những hi sinh mất mát của chiến hữu, của đối phương, của cả những người dân bình thường vô tội... một người có lương tâm ai không đau xót. Chính cuộc đời, tính mạng ông cũng không có gì đảm bảo. Hơn thế nữa những thất bại của quân đội Việt Nam Cộng hoà, cũng tạo nên những ảm ảnh, ám ảnh về những thất bại, không rõ lắm nhưng đeo đuổi cuộc đời ông. Bên cạnh đó những xáo trộn của xã hội miền Nam Việt Nam với đôla Mỹ, văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ... dù nhiều, dù sang nhưng cũng không thể đem lại cái bình yên tự tại cho lòng người. Tiếng súng, tiếng bom, những cái chết, những cuộc hành quân, những trận đánh... là những đe doạ thường trực không của riêng ai. Trong nước bất an, thế giới rối ren... khiến cuộc sống con người luôn thấp thỏm với những dự cảm chẳng lành, thế nên thơ Thanh Tâm Tuyền không mấy bài vui, cả khi thi sĩ nói Tôi không còn cô độc thì đấy chính là lúc người muôn phần cô độc, cái cô độc rất con người.

Tính bi kịch trong thơ Thanh Tâm Tuyền thể hiện ở hai góc độ chính: Bi kịch "sứ mệnh anh hùng" (chữ của Thụy Khuê), khát vọng thay đổi thực tại và bi kịch con người đời thường.

2.2.2.2. Bi kịch sứ mệnh anh hùng, khát vọng thay đổi thực tại

Thanh Tâm Tuyền luôn ấp ủ một khát vọng thay đổi thực tại (chúng tôi xin phép không xét kĩ ở góc độ chính trị, ý thức hệ, bởi đây là vấn đề phức tạp. Quy mô luận văn không cho phép thực hiện vì không dễ dàng làm rõ trong một đôi lời). Một mặt Thanh Tâm Tuyền mong đợi chiến thắng để có sự thay đổi đáng kể như ông và các chiến hữu Việt Nam Cộng hòa kì vọng. Một mặt thực tế cuộc sống thời đại ông, dưới chế độ Cộng hoà, không được như người ta trông đợi. Không khí chiến tranh ngột ngạt, những chết chóc, thất bại, và tội ác chiến tranh... không cho phép con người lạc quan. Hình tượng trong thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện nhiều con người mang khẩu khí anh hùng (Định nghĩa một bài thơ hay; Ôi anh em cộng hoà; Trưởng thành; Phiên khúc 20; Nhịp ba; Tên người yêu dấu; Bài ca ngợi tình yêu; Bằng hữu...).

Trong cái khẩu khí anh hùng, ông không thể nào che dấu được nỗi thất vọng hay dự cảm thất bại. Lúc này bi kịch Thanh Tâm Tuyền là khát vọng tự do, khát vọng vươn lên, hoàn thiện chính mình và cuộc đời, rộng hơn là khát vọng về những gì tốt đẹp... nhưng tất cả đều không như ý muốn. Trong bi kịch này, tiếng nói Thanh Tâm Tuyền có thể là tiếng nói của riêng mình nhưng ông thường nhân danh số đông, nhân danh khát vọng đổi mới.

Ám ảnh thứ nhất của Thanh Tâm Tuyền là nỗi buồn đau day dứt của một công dân nước nhược tiểu. Không như những nhà chính trị, Thanh Tâm Tuyền ý thức rõ nỗi tủi hờn của một con người nhược tiểu, đất nước mình vẫn là một quốc gia nhược tiểu. Ý thức để thay đổi, để chống lại cái nhược tiểu chứ không hoàn toàn bi quan, buông xuôi. Nhưng đối diện với những thân phận nhược tiểu thi nhân như thấy mình trong đó. Mang sứ mệnh anh hùng mà không thể đổi thay ngay lập tức, Thanh Tâm Tuyền bất lực trước nỗi đau đồng loại, nỗi đau chính mình:

 Andalousie đói quên khiêu vũ

Việt Nam ốm yếu quên ca dao

                                     (Ôi anh em cộng hoà)

Một "Việt Nam ốm yếu", nhiều người cho rằng phải chăng đó là sự phản trắc của kẻ nói xấu quê hương, sỉ nhục quốc thể. Nhưng không, hãy nhìn vào sự thật, hãy công bằng với lịch sử, nhân dân Việt Nam anh hùng, điều đó không ai phủ nhận. Lịch sử Việt Nam đáng tự hào, không ai có thể bác bỏ, chắc chắn Thanh Tâm Tuyền cũng nghĩ vậy. Nhưng từ xưa tới nay cái nghèo cái đói đeo đuổi, một quốc gia nhỏ bé như chúng ta luôn phải chống đỡ biết bao kẻ thù xâm lăng, nếu hùng cường chắc ít kẻ thù dám lăm le dòm ngó. Trong tập Tôi không còn cô độc Thanh Tâm Tuyền nhiều lần nhắc đến từ "cuộc đời nhược tiểu":

                      cuộc đời nhược tiểu cuộc đời nhược tiểu

nói thầm với nhau

                                     (Vĩ tuyến)

chắc các anh chưa đọc bài thơ nào

đời nhược tiểu

                                     (Ôi anh em cộng hoà)

''Cuộc đời nhược tiểu'' là một ám ảnh trong thế giới quan của Thanh Tâm Tuyền. Từ cái nhược tiểu của một kiếp người đến nhược tiểu của một đất nước luôn làm ông day dứt. ''Cuộc đời nhược tiểu'' chỉ có thể nói thầm với nhau, nói với nhau bằng niềm đau, "tim rách nát’’, bằng sự rụt rè, bằng sự "giận dữ’' chua chát, bằng "yêu thương’’, "đằm thắm’’...

Sứ mệnh anh hùng khiến Thanh Tâm Tuyền không thể không đau xót cùng nỗi đau của người da đen - những kiếp nhân sinh luôn bị hắt hủi, bị đồng loại xem thường và đối xử bất công. Vì màu da anh đen nên cuộc sống anh tăm tối, không gian đen bao phủ cuộc đời anh:

                              Một người da đen một khúc hát đen

                   Bầu trời đen sâu khôn cùng

                   Những dòng nước mắt

                   Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng

                   Bằng giọng của máu của tuỷ của hồn bắt đầu ngày tháng

                                                                   (Đen)

Nhà phê bình Thụy Khuê đã đánh giá cao tư tưởng nhân văn của Thanh Tâm Tuyền như sau: ''Nhà thơ không đứng ngoài để tả chân về một người nghệ sĩ da đen, ông đã nằm trong da, trong thịt, trong máu, trong nước mắt, trong tiếng kèn của người nghệ sĩ để phóng ra những âm thanh, những hình ảnh khốc liệt của một khúc hát đen, trong bầu trời đen, với những giòng nước mắt xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng, trên mầu da nức nở. Ở ngoài không thể làm được như thế, phải ở trong, sâu mới đi đến kiệt cùng, đến thế. (...) toát ra tính chất bất kỳ, phi lý của mầu da, của người dân nhược tiểu không có quyền lựa chọn'' [33; 75].

Đó không chỉ là nỗi đau của người nghệ sĩ da đen thổi kèn, mà là nỗi đau nhân loại, nỗi đau không của riêng ai. Bi kịch của người da đen kia có gì khác bi kịch của những thân phận nhược tiểu Á châu? Không khác gì! Bởi đó là nỗi đau chung của những người bị kì thị. Vậy nên không thể, không cho phép ai có nhìn miệt thị đồng loại dù họ màu da gì, đẳng cấp nào... nhưng than ôi cuộc đời vẫn hắt hủi những con người vô tội, màu da, dân tộc... có ai được lựa chọn bao giờ.

Đối diện với thực tại nhiều trái ngang nhưng Thanh Tâm Tuyền vẫn không lui bước. Không từ bỏ sứ mệnh của mình dù khó khăn, dù tạm thời thất bại, người đã chiến đấu chống lại số phận, chống lại lưỡi hái tử thần, đó chính là sự thể hiện tận cùng khát vọng sống, khát vọng chiến đấu. Không thể chết, không chịu thua số phận, dù còn sống là còn khổ đau. Bi kịch Thanh Tâm Tuyền còn là bi kịch phải sống, sống trong đau khổ mà nuôi hi vọng chiến thắng cuộc đời, chiến thắng định mệnh:

 Không không tôi không trút hơi thở đêm nay

  Mặc thần chết đứng múa trên đầu lưỡi

 Không không tôi chối lậy cả hai tay

 Tôi còn muốn sống còn muốn sống

 Vì lòng tôi chứa chan đau khổ

 Vì hồn tôi tràn trề chua cay

                                                               (Đừng bắt tôi từ biệt)

          Có thể nói bi kịch kẻ mang sứ mệnh anh hùng là bi kịch lớn, bi kịch cho hết thẩy mọi người, bi kịch ấy mang tầm nhân loại. Thanh Tâm Tuyền đau đáu vấn đề nhân sinh, nhân bản. Tính bi kịch càng được đẩy lên cao trào vì ông biết rằng khó lòng xoá bỏ những đau thương cho những con người khốn khổ, càng đấu tranh người càng sa vào tuyệt vọng, càng thất bại người càng cất cao tiếng nói lương tâm. Bi kịch của kẻ mang sứ mệnh anh hùng bắt nguồn từ thời đại, một thời đại đầy những biến động thảm khốc, con người phải sống trong những thấp thỏm âu lo, thời đại mà muôn vàn bi kịch cá nhân tạo nên bi kịch chung cho cả loài người. Thơ Thanh Tâm Tuyền không thể đặt ngoài dòng chảy cuộc sống, trái tim Thanh Tâm Tuyền cũng không thể đặt ngoài nhịp độ dao động của trái tim đồng loại.

2.2.2.3. Bi kịch trong cuộc sống đời thường

Bi kịch trong cuộc sống đời thường là những mâu thuẫn tự bản thể, trong bản ngã con người tác giả. Đó là bi kịch tình yêu, bi kịch sống, là nỗi cô đơn của chính mình, là nỗi đau cho một con người, một sự vật... Thanh Tâm Tuyền luôn quan tâm đến mọi người, đến thế giới xung quanh mình. Bi kịch trong cuộc sống đời thường gắn với những gì riêng tư, nhỏ bé. Lẽ dĩ nhiên bi kịch đời thường vẫn có khả năng điển hình cho một loại tâm trạng, cảm xúc nào đó nhưng không được khái quát mà cụ thể, sinh động và đa dạng.

Nói đến bi kịch đời thường trong thơ Thanh Tâm Tuyền trước hết phải nói đến bi kịch tình yêu. Tính đến thời điểm tập Tôi không còn cô độc ra đời, Thanh Tâm Tuyền vẫn mới là chàng trai tuổi đôi mươi. Chàng trai trẻ mang tâm hồn thi sĩ yêu đương mãnh liệt bằng tất cả trái tim mình. Phải chăng bi kịch tình yêu của Thanh Tâm Tuyền bắt đầu từ những đổ vỡ, chia li trong tình yêu. Trong thơ tình Thanh Tâm Tuyền xuất hiện hình tượng Liên, tên một người con gái. Theo lời kể của Vũ Đức Tân, đó là cô hàng xóm thời trẻ của Thanh Tâm Tuyền, sau này cũng chuyển vào miền Nam. Chưa thấy tài liệu nào nói về mối tình của Thanh Tâm Tuyền với Liên nhưng qua thơ ông, ta thấy rõ tình yêu mà Thanh Tâm Tuyền dành cho Liên không được đáp đền hoặc Liên còn đang ở một nơi nào xa lắm. Liên xuất hiện nhiều lần trong thơ như một ám ảnh nghệ thuật, một tín hiệu thẩm mĩ quan trọng. Cũng như trong thơ L. Aragon (1897 - 1982) nhà thơ nổi tiếng người Pháp, hình tượng Elsa giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó chi phối cảm hứng và truyền tải tư tưởng nhà thơ. Hình ảnh đôi mắt Elsa, bàn tay, giọng nói, đôi môi, mái tóc... mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc:

Đó là vào chính giữa lúc bi kịch của chúng ta

Vào trong môt ngày dài ngồi ben chiếc gương của nàng

Nàng chải mái tóc vàng tôi tưởng như thấy

Đôi bàn tay kiên trì của nàng làm dịu một đám cháy

Đó là vào chính giữa lúc bi kịch của chúng ta

                                     (Elsa ngồi trước gương)

Ngay ở tên bài thơ (Liên những bài thơ tình thời chia cách), tên tập thơ (Liên Đêm Mặt trời tìm thấy), ta đã thấy được Thanh Tâm Tuyền dành cho người yêu những tình cảm tha thiết nhường nào. Nhưng cũng ngay ở tên bài thơ và tập thơ ta cũng đã thấy màu sắc bi kịch trong tình yêu ấy. Tình yêu với Liên không phải nảy nở trong những ngày yên bình mà trong thời chia cách. Thời đại chia cách hay hai người chia cách, ta không thể biết, nhưng chắc rằng đó là một tín hiệu không vui cho một mối tình. Rồi "Liên", như một nỗi niềm mà tác giả ấp ủ, tồn tại ngay trong không gian "Đêm" - đêm nhưng vẫn hi vọng "tìm thấy mặt trời''. Nhân vật trữ tình luôn gọi tên Liên những lúc cô đơn, những lúc buồn đau thất vọng, không lúc nào nguôi nhớ đến Liên:

 tôi sống thường trực bằng hình ảnh

Bài thơ này tôi viết trong giấc mơ

của một người con gái tên Liên

                                     (Hình ảnh)

          Nhưng rồi Liên vẫn chỉ là cái tên mà nhà thơ mãi gọi trong mỏi mòn chờ đợi, và trong khắc khoải nhớ nhung, rất nhiều lần cái tên ấy được viết hoa một cách trang trọng:

 Anh gọi thầm một mình

Trong giấc mơ phủ làn tóc biếc

Anh biết anh gọi thầm một mình

                                            LIÊN

                         (Liên những bài thơ tình thời chia cách)

Không chỉ những lúc nhớ nhung, ngay cả khi Thanh Tâm Tuyền day dứt niềm đau Tổ quốc thì người vẫn gọi tên Liên, gọi một cách tha thiết -  tha thiết yêu và tha thiết đau:

Hỡi Liên những Liên và Liên

Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết.

                                                                (Nói về dĩ vãng)

Trong tình yêu Thanh Tâm Tuyền luôn mang một dự cảm bất an, dù bên cạnh người yêu, dù hiện thực chỉ có hai người, nhưng thi sĩ cảm giác bầu trời rồi sẽ chao đảo, mọi vật mất thăng bằng và cuốn đi tất cả. Hi vọng mong manh có thể nào tồn tại:

                               Anh sợ những cột đèn đổ xuống

Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta

Bóp chết mọi hi vọng

Nên anh dìu em đi xa

                                                                   (Dạ khúc)

          Thi sĩ muốn tìm đến một nơi bình yên nhất, nhưng có nơi nào bình yên khi lòng người xao xác những con sóng. Điều đáng sợ nhất chính là những thấp thỏm lo âu của cõi lòng, chính vì vậy ngay cả khi hôn em đắm đuối, nụ hôn cũng không còn ngọt ngào hương vị tình yêu mà trái lại "môi em như mật đắng", cấu vào hồn anh bằng những "móng vuốt thương đau". Đến công viên người thấy vẫn còn chông chênh lo sợ, người lại đưa người yêu vào quán rượu mong tìm thấy chút không khí Paris hay để quên đi thực tại. Để làm được điều ấy người nguyện làm "thằng điên khùng". Nhưng trong cái thế giới ấy người chẳng thể nào tìm được chốn nương thân, ngày mai những giày vò phiền phức đang đón đợi:

                                Thôi em hãy đứng dậy

người bán hàng đã ngủ sau quầy

anh đưa em đi trốn

những giày vò ngày mai

                              (Dạ khúc)

Mặc dù Thanh Tâm Tuyền cao giọng ca bài ca Tôi không còn cô độc, trong một bản hợp xướng du dương., mặc dù những con người đi tìm tự do hạnh phúc, đi tìm những điều tốt đẹp ca hát bên nhau, họ thấy mình "không còn cô độc", nhưng ngay trong hi vọng lại nảy mầm thất vọng. Những trạng thái cảm xúc phức hợp đan xen nhau:

Niềm vui hội ngộ:

                                mùa xuân bình minh vầng trán

mùa xuân tinh con ngươi

mùa xuân mềm mái tóc làn môi

Rồi nỗi buồn đau cô đơn xâm chiếm:

 Chúng tôi cùng cô độc

 người yêu tôi mãi chết phương xa

Bi kịch diễn ra ngay lúc người hi vọng nhất, lúc mà thi sĩ nghĩ rằng mình ''không còn cô độc'', và trên cõi đời ''không còn ai cô độc". Cái cô đơn cô độc đã trở thành dĩ vãng. Hiện tại "mọi người thành thi sĩ" đi dự hội xuân vui, đi tìm miền đất tự do. Nhưng sau giây phút đó người đã chối bỏ tất cả, chối bỏ cả cái danh hiệu mà người hằng rất tự hào, thi sĩ:

 tôi chết và chối từ

 đừng ai gọi tôi là thi sĩ

 Trong thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện những hình ảnh "đứa trẻ bị hắt hủi" (Từ chối), rồi "hôm nay quê hương từ bỏ", "anh ngông cuồng tìm kiếm tổ quốc (...) Mà tổ quốc ngàn đời nín thở", trong tình yêu thì nỗi buồn hay mặc cảm chia li vẫn luôn ám ảnh chàng, mối quan hệ bỗng trở nên mong manh, từ thân phận tình yêu mà ta thấy sự tội nghiệp trong thân phận một con người. Luôn thấp thỏm lo âu, trái tim bị những tổn thương vô hình chi phối Thanh Tâm Tuyền không bao giờ được vui những niềm vui trọn vẹn: "giữa chúng ta, những người tình đã hắt hủi anh, những người tình em liệng vào quên lãng". Dù em bỏ rơi anh, dù anh là người bị hắt hủi nhưng em ra đi, khoảng trống lòng anh không có gì khoả lấp. Nỗi buồn đau vô hạn tràn ngập cõi lòng, bi kịch Thanh Tâm Tuyền là yêu mà phải chia li, yêu mà vẫn cô đơn:

em lên đường và anh chỉ còn chân tay tẻ nhạt vô duyên như sứ sở tang thương vì bom đạn

                                               (Chiều phi trường)

Cuộc đời chỉ là một màn kịch, không thể phân biệt đâu là anh hùng, đâu là nạn nhân đau khổ đáng thương. Kẻ xưng hùng xưng bá, kẻ đánh đông dẹp tây chinh phục thế giới chẳng qua cũng là một tên hề, "tên hề tồi" không thể làm người ta cười được. Ở đó kẻ gây ra bao nhiêu chết chóc một thời tưởng hắn là sắt đá, tưởng hắn hạnh phúc vì chiến thắng và vì những tội ác mà hắn gây ra lại là một nạn nhân của màn kịch cuộc đời. Bi kịch của tên hề - Napoléon cũng chính là bi kịch của một kiếp người:

Con dị điểu bay lên, móng sắt lột tước y phục của tên hề, mỏ mổ lấy mặt nạ. Tên hề hiện nguyên hình là Napoléon, Napoléon mắm môi đang khóc. Mày chỉ là tên hề buồn, tên hề buồn nhất thế giới chẳng làm ai cười nổi.

                                                                             (Sầu khúc 5)

Trong thơ, Thanh Tâm Tuyền đã nhiều lần khóc, khóc cho mình, khóc cho người, em khóc, anh khóc... nhưng chủ yếu vẫn là tiếng khóc từ chủ thể. Không thể giấu nổi nỗi đau, tiếng khóc của ông trước hết là tiếng khóc vì bất lực, vì đau đớn không kiềm chế nổi. Tiếng khóc Thanh Tâm Tuyền có cả bề rộng lẫn chiều sâu (bề rộng là tiếng khóc cho nhiều tình huống, nhiều nỗi đau, nhiều đối tượng... chiều sâu là tiếng khóc mang ý nghĩa nhân bản, từ nỗi đau của bản thể mà mở rộng ra những vấn đề nhân sinh). Nhiều người cùng khóc: "người đàn bà khóc" (Sầu khúc 5) "tôi khóc mặt tôi khóc"/Tôi khóc hoài tôi khóc"/ "Tôi khóc không ra lời" (Đêm 4) "Người đàn ông khóc" (Đêm 5), "Ngôi sao lạnh lẽo một giọt lệ cô đơn"(Đêm 6), "Sao em lại bật lên khóc"(Đêm 6), "Tôi bưng mặt khóc bên thềm cửa"/ "Tôi ngồi khóc bên bờ sông trôi mãi, (Về Quách Thoại)) "Tôi buồn khóc như buồn nôn" (Phục sinh),"Tôi biết những người khóc lẻ loi" (Lệ đá xanh)...

Đôi lúc "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn" đã đành, thiên hạ cũng không thể nào hiểu được, lũ quỷ sứ hỏi thi sĩ:"cớ sao nhà người khóc" (Đêm 4). Với Thanh Tâm Tuyền khóc là một cách thể hiện đồng thời cũng là một phương tiện để vơi đi nỗi buồn nên thương bạn người khuyên: "khóc đi Nguyễn" (Tên người yêu dấu 2). Khóc cho mình, khóc cho người, thế vẫn chưa đủ, Thanh Tâm Tuyền khóc bằng chính nỗi đau của người, bằng mắt của người: "Hãy cho anh khóc bừng mắt em" (Hãy cho anh khóc bằng mắt em Những cuộc tình duyên Budapest). Khóc đã thể hiện nỗi đau, không khóc được còn đau hơn, có khi tiếng khóc trong thơ Thanh Tâm Tuyền không bật ra ngoài mà bị dồn nén bên trong: "Thoại ơi Thoại ơi không biết khóc/ Những dòng nước mắt ướp mặn môi" (Gửi Quách Thoại).

Bi kịch trong thơ Thanh Tâm Tuyền nổi lên qua âm thanh tiếng khóc, người đã khóc cho mình và cũng là khóc cho những thân phận lẻ loi, khóc cho cuộc đời buồn tủi nhạt nhẽo này. Xin mượn ý một đoạn thơ của chính thi sĩ để thay cho lời kết vấn đề:

 Tôi biết những người khóc lẻ loi

                                  không nguôi một phút

 những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình

 em biết không

 lệ là những viên đá xanh

 tim rũ rượi

                              (Lệ đá xanh)

2.3. Thực tại trong Tôi không còn cô độc Liên, đêm, mặt trời tìm thấy

2.3.1. Tính chủ thể

          Văn học phản ánh thế giới thực tại bao giờ cũng xuất phát từ điểm nhìn của chủ thể sáng tác. Nguyễn Quýnh (một tác gia của văn học trung đại Việt Nam) cho rằng: "Người làm thơ không thể không có hứng, cũng như tạo hoá không thể không có gió vậy... Tâm người ta như chuông như trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông trống khiến chúng phát ra tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ, cũng tương tự như vậy" [dẫn theo: 42; 210]. Vậy mỗi nhà văn có cảm hứng khác nhau, thể hiện thế giới quan của riêng mình, không giống ai, không lặp lại. Văn học truyền thống không phải không có tính chủ thể, nhưng chủ thể thường bị dấu kín, bị khuất lấp sau thế giới khách thể. Văn học truyền thống lấy khách thể làm trung tâm, thế giới khách thể đậm đặc chứa đựng quan điểm tư tưởng, tình cảm nhà văn. Chủ thể thường ẩn mình sau khách thể:

                              ... Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

       (Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan)

Tuy nhiên trong Thơ mới các nhà thơ cũng đã mạnh dạn thể hiện cái tôi chủ thể của mình:

 

Hôm nay trời nhẹ lên cao

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn

                                                                   (Chiều - Xuân Diệu)

Có thể nói thơ Thanh Tâm Tuyền lấy chủ thể làm trung tâm, khách thể chỉ là phương tiện truyền tải. Thơ Thanh Tâm Tuyền không đánh dấu bằng những mốc ngày tháng năm mang tính biên niên như các nhà thơ kháng chiến miền Bắc cùng thời mà Tố Hữu là một ví dụ tiêu biểu. Trong thơ Tố Hữu, khách thể giữ một vai trò tối quan trọng, nhà thơ lấy khách thể làm đề tài, cảm hứng. Chính vì vậy mỗi sự kiện chính trị - xã hội có một ý nghĩa rất quan trọng nó đánh dấu bằng một tập thơ của Tố Hữu: thời kì cách mạng hoạt động bí mật ở Việt Bắc nhà thơ có tập Việt Bắc (1945 - 1954), sau 1954, giai đoạn đầu hoà bình có tập Gió lộng (1955 - 1961), kháng chiến chống Mĩ Tố Hữu có hai tập Ra trận (1962 - 1971) và Máu và hoa (1972 - 1977), hoà bình lập lại, trong niềm vui và hi vọng Tố Hữu có Một tiếng đờn (1992), nhận thức sự lạnh nhạt dửng dưng của cơ chế thị trường ông có Ta với ta (1999). Mỗi sự kiện chính trị Tố Hữu đều có thơ ghi nhận (chiến thắng Điện Biên Phủ, Mậu Thân 1968, ngày Bác mất, giải phóng miền Nam...). Trong thơ Tố Hữu, các chi tiết, sự kiện vô cùng phong phú và đó chính là dòng chảy khách quan lịch sử.

Tố Hữu chủ yếu đứng trên lập trường giai cấp, lập trường nhân dân để phản ánh. Tính chủ quan dĩ nhiên là có nhưng chủ thể tác giả phải giấu mình sau hằng hà những sự kiện. Tố Hữu là tác giả lớn trong dòng thơ trữ tình chính trị, những gì ông nói cũng phải xuất phát tự trái tim, tự tình cảm cảm xúc nhưng tình cảm cảm xúc ấy dễ hoà vào dòng chung của đoàn thể, quần chúng. Chính vì vậy niềm vui, nỗi buồn, lòng căm hận... là của chung hết thảy mọi người:

                                Ôi tổ quốc giang sơn hùng vĩ

Đất anh hùng của thế  kỉ XX

Tố Hữu thường sử dụng những đại từ "tôi"; "ta"; "chúng ta" nhưng "ta""chúng ta" chiếm số lượng lớn, mang ý nghĩa số đông: "Ta là ta ba chục triệu con người". Và nhân vật trong thơ Tố Hữu là những con người đoàn thể, những lớp người, kiếp người chứ ít con người cụ thể, còn con người cụ thể lại mang tính biểu tượng, lí tưởng như: Bác Hồ, chị Trần Thị Lý, mẹ Tơm, mẹ Suốt... Nhân vật trong thơ Tố Hữu là các anh, các chị các em, anh giải phóng quân, người chiến sĩ, người mẹ hậu phương... những con người tiêu biểu của thời đại.

Trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tính chủ thể được thể hiện ở nhiều giác độ khác nhau. Nhưng phương thức dễ nhận biết nhất là bao giờ chủ thể tác giả cũng là trung tâm, chân dung tác giả được thể hiện rõ nét trong thơ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các bài thơ trong hai tập thơ nhân vật trữ tình tự xưng bằng đại từ chỉ ngôi thứ nhất: "tôi", "anh" (ngôi thứ nhất trong quan hệ đối thoại với "em")... Khảo sát tập Tôi không còn cô độc có 15/32 bài xuất hiện đại từ "tôi" (46.8%), 3 bài xuất hiện từ "chúng tôi", 4 bài xuất hiện từ "anh" (12.5%). Tổng cộng có 19 đại từ chỉ ngôi thứ nhất (63%). Trong tập Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy có 10/26 bài tác giả xưng "tôi" (38.4%), 6 lần xưng "anh" (23%), tổng cộng có 16 đại từ chỉ ngôi thứ nhất (trên 61.4%). Cần phải nói thêm đại từ chỉ ngôi thứ nhất số nhiều "chúng tôi" cũng bao gồm cả "tôi", nghĩa là ở đó có sự tham gia trực tiếp của chủ thể - tác giả.

Qua đó ta thấy chân dung con người tác giả thường trực tiếp lộ diện trong sáng tác của mình. Không cần giấu mình qua những hình tượng khác, cũng không bị che khuất bởi thế giới khách thể, một Thanh Tâm Tuyền với cái tôi cô đơn, cô độc đối thoại với độc giả. Lời đối thoại có lúc ngạo mạn tự tin khi người đứng ở tư cách người thi sĩ. Thanh Tâm Tuyền tuyên bố thẳng thắn, không chút giấu giếm: "Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ uy quyền". Có khi ngậm ngùi cay đắng, thất vọng não nề, trong thế cuộc nhiều đau thương nhà thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc:

tôi buồn khóc như buồn nôn

ngoài phố

                                 nắng thuỷ tinh

          Trong bài Tình cờ nhà thơ tự hỏi mình về những sự tình cờ, những cái tình cờ như hữu ý diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, bên cạnh chúng ta mà chúng ta chẳng mấy khi để ý. Tình cờ gặp, rồi tình cờ yêu nhau, tình cờ làm cho nhau đau khổ. Thanh Tâm Tuyền không triết lí xa xôi hay tìm kiếm đâu xa, người tự đặt câu hỏi để tự tìm câu trả lời:

tôi tự hỏi sự tình cờ nào đưa chúng ta gần nhau

Khi chúng ta cùng nghẹn ngào

Quá khứ chết đi không một lời than tiếc

Hôm nay thiếp dưới lần chăn gai

Và ngày mai bơ vơ như đứa trẻ trong cơn oanh tạc

Tôi tự hỏi sự tình cờ nào dưa chúng ta gần nhau.

Tính chủ thể còn thể hiện ngay ở nội dung thơ Thanh Tâm Tuyền. Trong thơ, các nhân vật được nhắc đến là những người thân (bạn bè - đồng nghiệp, người yêu, những người hoàn toàn có thực trong dời sống...). Không hề hư cấu tưởng tượng cũng chẳng phải những nhân vật xa xôi trong quá khứ lịch sử, trong giai thoại, truyền thuyết, cổ tích... Họ là những con người bằng xương bằng thịt vẫn hằng ngày gặp mặt nhà thơ, những người mà ông gửi trọn tấm lòng, gửi trọn tình yêu như Liên. Nghĩa là những vấn đề mà nhà thơ đặt ra, những tình cảm cảm xúc mà Thanh Tâm Tuyền bộc lộ trước hết là chuyện của riêng ông, xuất phất từ trái tim khối óc của ông. Các nhà thơ trung đại thường đứng ở vị trí số đông để viết hoặc họ giấu mình bằng cách không dùng từ danh xưng, không dùng đại từ nhân xưng, cái mà họ viết ra có thể hoà vào tâm trạng và và hoàn cảnh của muôn vạn con người, rất ít tác giả tự xưng danh tính như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ (xưng ông Hi Văn), Nguyễn Du (xưng Tố Như)... Thanh Tâm Tuyền trái lại, người gọi tên mình, xưng danh tính, bộc lộ cái chủ quan suy nghĩ, chủ thể hành động trong thơ:

                                tôi hét tên tôi cho nguôi giận

thanh tâm tuyền

đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi

                                                          (Phục sinh)

Thanh Tâm Tuyền cảm nhận thế giới bằng đôi mắt của chính mình và nó biểu hiện trực tiếp. Từ chủ thể hành động đến chủ thể trữ tình đều là Thanh Tâm Tuyền, người từng tuyên bố, có lẽ là với chính mình, như một thông điệp gửi tới mọi người:

                                 Mỗi bài thơ khi tôi viết đều nghĩ đến một người

có thể là Liên là Đĩnh

có thể là Hiệp là Đồng

chưa bao giờ tôi viết bài thơ nào trống trơn

                                                                   (Hình ảnh)

Những bài thơ mà Thanh Tâm Tuyền sáng tác như những trang nhật kí, người viết về chính cuộc đời mình. Ông đối thoại trước hết là với bạn bè, người thân sau đó là độc giả. Nhiều bài thơ Thanh Tâm Tuyền dành riêng cho tri kỉ, nhan đề bài thơ gắn với tên một con người cụ thể: Gửi Quách Thoại; Của Duy Thanh; Liên những bài thơ tình thời chia cách; Về Quách Thoại. Chưa kể, ở một hình thức khác, quen thuộc và phổ biến hơn trong sáng tác văn học, tác giả dùng những lời đề tặng cho người thân: ''Tặng Đỗ Mặc'' (Của em); ''Tặng Nguyễn Sĩ Tế'' (Chim); ''Tặng Trần Thanh Hiệp'' (Mưa ngủ); ''Tặng Doãn Quốc Sĩ'' (Nhịp ba; Bao giờ); ''Tặng Ngọc Dũng'' (Từ bao giờ; Bài hát buồn); ''Tặng Nguyễn'' (Một chỗ trên ô tô buýt); Tặng Duy Thanh (Đêm). Đó là một con số không nhỏ (7 người được tặng, 9 bài thơ tặng) trong hai tập thơ.

Khuynh hướng thơ Thanh Tâm Tuyền là đối thoại, tính đối thoại thể hiện sự chủ động thể hiện mình, bộc lộ suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm của mình. Nhà thơ đặt câu hỏi với mọi người: anh biết vì sao.../phải không em?/ từ bao giờ anh thôi là anh?... dùng những từ hô gọi, yêu cầu: Hỡi người ngoài nghĩa địa/ Hãy ngắm tôi như thế/ Người hãy nói thành lời/ Hãy hát lên đi em/ Đừng ai gọi tôi là thi sĩ...

Hình ảnh tác giả trong thơ và ngoài đời không mấy khoảng cách, người khuyên bạn hay khuyên chính mình nhưng trong lời khuyên ấy ta thấy người thông cảm với nỗi niềm của Nguyễn lắm, nỗi niềm ấy phải chăng cũng chính là nỗi niềm tác giả:

                                Khóc đi Nguyễn

Mùa này gió biển thổi liên lục địa

Trời thành phố ngục tù

Mầu xanh thoảng tiếng cười của kỉ niệm bâng quơ

                              (Tên người yêu dấu)

 

Ngay cả lúc Thanh Tâm Tuyền xưng "anh" nhưng đó chính là câu chuyện riêng tư, câu chuyện của chính mình. Trong cuộc đối thoại với "em", em có thể là Liên hay là một người con gái nào đó, nhưng qua "em" mà "anh", Thanh Tâm Tuyền, nói được nhiều điều, nói với em và với mọi người:

Đêm nay anh không ngủ, anh cô đơn, anh bị chiếm đoạt

Còn gì là kỉ niệm, kỉ niệm ngày mai một lời nói thoáng

Anh ôm ghì sự bất lực đói khát, mũi dao nhọn giữa lòng tin

Thân thể này không của anh cũng không của em

                                    (Đêm 5)

Tính chủ thể trong thơ Thanh Tâm Tuyền bộc lộ con người tác giả, cuộc sống của tác giả. Thế giới trong thơ được khúc xạ qua con mắt nhà thơ. Mỗi người mỗi vẻ, làm nên tính đa sắc trong văn học. Chúng tôi đã so sánh Thanh Tâm Tuyền và Tố Hữu  là hai tác giả sống trong cùng một khoảng thời gian, Tố Hữu thuộc lớp trước nhưng độ chênh thời gian không quá xa nhau để thấy được sự đặc sắc của mỗi người, sự khác lạ độc đáo và mới mẻ của Thanh Tâm Tuyền trong cảm nhận thế giới và thể hiện mình.

2.3.2. Tính biến động

Sống trong một thời đại lịch sử nhiều biến động mà các sự kiện của nó liên tục tác động trực tiếp vào tâm thức con người, làm cho con người phải dè chừng, cảnh giác, thậm chí sợ hãi, nơm nớp lo âu, Thanh Tâm Tuyền đã tạo được một thế giới thơ luôn biến động, thế giới với những va chạm, thậm chí là những đe doạ chết chóc...

Trong văn học trung đại, thi sĩ mang tâm thế ung dung tự tại. Quan niệm xuất xử của Nho gia tác động đến thế giới quan của họ, không vội vàng cuống quýt, cũng không cuồng nhiệt thái quá mà có cái nhìn bình thản trước những biến động. Nói cách khác những xúc cảm trước thế giới của nhà Nho đươc dấu kín, chính vì vậy thi sĩ xưa nhìn thế giới và con người một cách trầm tĩnh. Nói đến tính biến động trong thơ Thanh Tâm Tuyền là nói ở hai góc độ cơ bản: sự phức tạp của tâm thức cảm xúc con người và sự biến động của thế giới khách quan.

Thơ Thanh Tâm Tuyền không đơn thuần chỉ là một trạng thái cảm xúc. Nói cách khác cảm xúc nhà thơ, và cũng là nhân vật trữ tình, không chỉ giới hạn ở một trạng thái hoặc buồn hoặc vui mà đó là sự đan xen của nhiều cung bậc. Có khi yêu mà phải chia xa, có khi đang hạnh phúc mà thấp thỏm bất an. Con người trong thơ Thanh Tâm Tuyền mang nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn với chính mình và mâu thuẫn với hoàn cảnh. Tâm trạng cảm xúc con người trong thơ ông không phải là một hằng số mà là một biến số, tâm trạng ấy luôn giao động trong một trường mà "từ tính" chính là những biến động của xã hội tác động vào.

Phục sinh là mâu thuẫn trong nội tại con người tác giả, có con người trong sáng thánh thiện và "một con chó sói" lang thang ẩn mình sau hình hài một đứa trẻ. Muốn được phục sinh người phải bóp chết phần con, ''loài sát nhân'' tội lỗi ấy. Muốn sống nhưng phải chết, chỉ có thể sống đúng nghĩa một con người nếu giết đi phần bản năng dã thú trong mình, chết để phục sinh, chết để được sống. Con người không phải lúc nào cũng là con người toàn vẹn, nó dao động từ cõi người đến cõi thú vật, từ trong sáng trinh nguyên, đến tội ác, sát nhân lúc nào là điều không thể đoán định:

đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi

em bé quàng khăn đỏ ơi

này một con chó sói

thứ chó sói lang thang

tôi thèm giết tôi

loài sát nhân muôn đời'

Với cái nhìn biện chứng về cuộc đời, Thanh Tâm Tuyền thấy được những kết cục không vui của một kiếp người. Bao nhiêu giông tố, bao nhiêu biến đổi khiến ông không thể nào bình thản nhưng Thanh Tâm Tuyền chấp nhận những đe dọa, những gì nghiệt ngã của một kiếp nhân sinh khi biết đó là một quy luật:

cần thêm vào tam đoạn luận

người là phải chết

mày là một người vậy mày phải chết

                              (Định nghĩa một bài thơ hay)

Sự biến động trong thơ Thanh Tâm Tuyền thường theo chiều bi kịch, nhà thơ cảm nhận cuộc đời trong tâm thế cô đơn. Như người mơ bỗng choàng tỉnh và nhận ra hiện thực phũ phàng. Trong trạng thái mộng mị, người thơ luôn bị dày vò bởi những cơn ác mộng. Mọi vật trong cơn mê luôn biến đổi theo tâm thức kẻ mộng du, mộng du giữa cuộc đời, giữa ban ngày, tất cả chao đảo chống chếnh, chơi vơi. Ranh giới thực - mộng không thể nào phân biệt cho tới lúc người thơ bừng tỉnh. Nghe "có ai gọi tên tôi giữa phố", anh ta thấy cái tên mình như một vật thể phát ra âm thanh "âm lên sự thù hằn", rồi "cái tên lăn như một xác chết nhập hồn", nó như một sinh thể "mọc hai cánh tay chới với". Khi "không ai gọi tên tôi nữa" nó, cái tên, "đứng ở sau lưng", trong cơn thịnh nộ anh ta đã đâm chết nó, kẻ cô độc đã đồng hành cùng anh suốt kiếp thương đau:

Sao không ai gọi tên tôi nữa? Kìa đồ khốn kiếp, quân vô lại, tôi cầm dao đâm mày đây, không một lời cầu cứu? Đồ khốn kiếp ... Hoá ra tôi đâm tôi chết tốt. Cũng xong.

                                                                 (Đêm 10)

         Từ bức tranh tĩnh vật tĩnh lặng, chỉ một mẩu bánh mì, cốc nước ở góc bàn nhà thơ thấy trong đó một sự vận động khủng khiếp. Những gì đẹp đẽ chỉ là giấc mơ, mọi sắc màu, âm thanh hiện hình nỗi chết, sự nghèo đói. Người nghệ sĩ tạo nên sắc màu như vết máu tuôn ra từ lồng ngực. Trong cái tĩnh Thanh Tâm Tuyền tưởng tượng ra bao nhiêu biến cố, những chết chóc đau thương hiện hình ngay trong những gì tưởng như bình yên nhất:

mẩu bánh mì ở góc bàn

và cốc nước trong như mắt đẹp

thôi để giấc mơ lên cỏ hoa

hiện hình nỗi chết

từ ngón tay

hết cả niềm hồn hậu

người đau bằng màu bằng âm thanh

những ngày nghèo đói

ăn mày

cố rúc tiếng cười lên cổ nõn

tóc mai

phố ngõ lên chiều mãi nhớ thương

người nhổ muôn ngàn vết máu ra khỏi lồng ngực...

                                (Tĩnh vật)

         Trong tình yêu, Thanh Tâm Tuyền đang yêu, được yêu và hạnh phúc ấy thế mà tâm hồn người thơ đầy xao động. Anh sợ những gì có vẻ rất xa xôi thậm chí hoang đường. Không cần giàu trí tưởng tượng những ám ảnh đổ vỡ, chết chóc, chia li... lúc nào cũng đeo đuổi thi sĩ:

                                Anh sợ những cột đèn đổ xuống

Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta

Bóp chết mọi hi vọng

Nên anh dìu em đi xa

                                     (Dạ khúc)

          Để chạy đua với thời gian Xuân Diệu đón đầu thời gian mà sống, chạy trước thời gian để yêu, để tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống muôn màu: "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân" (Vội vàng). Thanh Tâm Tuyền ở một góc độ nào cũng vậy, đang ở bên em thế mà đã lo sợ giờ phút chia xa, nói cách khác dự cảm về một sự bất an, chia li đổ vỡ cứ ám ảnh nhà thơ, thậm chí hành hạ ông ngay cả lúc tưởng như hạnh phúc nhất:

 Anh là thằng điên khùng

Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới

                                               (Dạ khúc)

Có những lúc biến động cuộc đời thật khủng khiếp, nỗi sợ hãi yêu mà phải chia xa, yêu mà người yêu chết hơn một lần hành hạ chàng:

 Em đã chết đã chết

 Trong im lặng hết thảy

                                     (Sầu khúc 7)

 Thế giới trong thơ Thanh Tâm Tuyền không có cái gì bất biến, từ con người, cảnh vật cho đến những sự kiện, biến cố... "Em biến thành pho tượng rực rỡ/ Anh biến thành thiên tài ngây thơ". Trong sự hỗn loạn của thời cuộc chuyện gì cũng có thể xảy ra, cả những căm giận yêu thương, cả niềm tủi cực, những mất mát đau thương, những hành động dũng cảm quyết liệt... tất cả diễn ra vội vã với tiết tấu như quay cuồng:

hôm nay ta xông ra ngoài phố

Ngày 20

nắm tay tròn cáu giận

má phừng lửa yêu thương

môi bỏng niềm tủi cực

          (...)

phá cho tan hoang

nổ tung căm phẫn

chưa biết chị là ai

đau như đạn  xuyên ngực mình

chị trúng thương rồi chị trúng thương rồi

                                                                   (Phiên khúc 20)

          Tính biến động trong thơ Thanh Tâm Tuyền cho chúng ta thấy một thế giới chao đảo, những vận động chuyển dời hết sức nghiệt ngã. Sống trong một thời đại lịch sử mà từng ngày từng giờ không thể hình dung nổi cục diện tương lai, hoặc giả nếu có thì tương lai ấy cũng không mấy êm đềm tốt đẹp. Sự tác động của thời đại vũ bão không cho phép con người sống thanh thản, thời đại làm nảy sinh những hồ nghi - hồ nghi mọi người, hồ nghi chính mình, bất bình với quá khứ: "quá khứ hỗn xược trên da trống" (Đêm 10), thất vọng với thực tại: "hôm nay thiếp dưới lần chăn gai" (Tình cờ), nghi ngờ tương lai: "tương lai thét đớn đau"(Đêm 10). Hơn nữa với sự nhạy cảm vốn có, Thanh Tâm Tuyền bộc lộ cái nhìn, cảm xúc của mình về cuộc đời, biểu hiện bằng sự dao động của một tâm thế bất an. Một con người luôn hành động muốn thay đổi thực tại nhưng đành bất lực trước biến động của thế thái nhân tình.

         

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114573272

Hôm nay

2157

Hôm qua

2347

Tuần này

2818

Tháng này

220329

Tháng qua

130677

Tất cả

114573272