Những góc nhìn Văn hoá

Từ dự báo chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến chiến thắng "Điện Biên Phủ Trên Không" năm 1972

Bằng sự mẫn cảm của một nhà chiến l­ược quân sự thiên tài, với tầm nhìn xa, trông rộng, hiểu rõ và lường tr­ước mọi thủ đoạn thâm hiểm của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự báo sớm, khoa học và chính xác về qui mô, thời gian, mức độ sử dụng máy bay chiến lược B52 của kẻ thù nhằm đánh phá miền Bắc, trọng điểm là Thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn. Trên cơ sở đó, Người cùng Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, định hướng cho quân và dân ta chuẩn bị về tư tưởng, lực lượng, xây dựng thế trận phòng không nhân dân, sẵn sàng đánh bại cuộc chiến phá hoại bằng các loại vũ khí tối tân của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Ngược dòng lịch sử, năm 1954, ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, giữa lúc thực dân Pháp còn chưa rút hết quân ra khỏi chiến trường Đông Dương, Mỹ vừa ra khỏi cuộc chiến tranh Triều Tiên với những bài học đắt giá còn nóng hổi tình thời sự, thì ít ai ngờ rằng, Mỹ lại cố tình phạm vào một sai lầm mới, đó là nhanh chóng thế chân thực dân Pháp, trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam. Ngay từ rất sớm, với nhãn quan chiến lược, khả năng phân tích thực tiễn nhạy bén, sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho quân và dân ta thấy trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược mới do đế quốc Mỹ tiến hành.

Tại Hội nghị lần thứ 6 (khóa II) của Trung ương Đảng (7-1954), Người khẳng định: “đế quốc Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ”[1]. Bởi vậy, ngay từ những ngày đầu miền Bắc được hoà bình, Người đã nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ gìn hoà bình, đồng thời phải chủ động chuẩn bị, sẵn sàng ứng phó với chiến tranh: “Chúng ta phải ra sức củng cố hoà bình, tỉnh táo đề phòng âm mưu của những kẻ phá hoại hoà bình”[2]. “Bất kỳ hoà bình hay chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”[3].

Những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, trước âm mưu khiêu khích, không ngừng kích động phá hoại miền Bắc ngày càng lộ rõ của kẻ thù, Người kêu gọi quân và dân ta tích cực củng cố lực lượng quốc phòng, ra sức chuẩn bị tiềm lực về mọi mặt, giữ gìn trật tự an ninh, luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hoạt động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ. Đầu năm 1964, đến thăm Bộ đội Phòng không, Người căn dặn: “Các chú phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta”[4].

Nhờ dự báo sớm của Người về chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, quân và dân ta chủ động chuẩn bị, chủ động phòng ngừa; tổ chức huấn luyện chiến đấu, nhanh chóng tăng cường thêm nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật mới, hiện đại; đồng thời tổ chức huấn luyện bộ đội phòng không các cấp, làm chủ vũ khí, khí tài; tìm ra nhiều cách đánh hay, độc đáo cho tất cả các lực lượng không quân, tên lửa, cao xạ, súng pháo phòng không. Vì thế, ngay từ trận đầu tiên đọ sức với không quân Mỹ trên vùng trời miền Bắc (5- 8- 1964), quân và dân ta đã giành được thắng lợi vang dội. Từ năm 1965, đồng thời với việc đưa quân Mỹ và đồng minh ồ ạt vào miền Nam, đế quốc Mỹ cho không quân leo thang đánh phá miền Bắc nước ta và bắt đầu sử dụng máy bay chiến lược B52 trên chiến trường Việt Nam, trong đó có nhiều lần xâm phạm miền Bắc, đánh phá vùng trời nam Khu 4.

Đặc biệt, cuối năm 1967, đến thăm Bộ tư lệnh Phòng không- Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua…Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị… Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”[5]. Nhận rõ bản chất của kẻ thù là càng thua đau, càng hung hăng, cay cú, Người đã thấy trước một cuộc tập kích tổng lực bằng B52 của Mỹ vào Thủ đô Hà Nội nhất định sẽ xảy ra trước lúc kết thúc cuộc phiêu lưu leo thang đánh phá miền Bắc.

Về quy mô, mức độ và thủ đoạn đánh phá của địch, trên cơ sở đánh giá về tiềm năng kinh tế, quân sự và âm mưu của đế quốc Mỹ, Người nhận định, Mỹ có thể sử dụng một số lượng lớn (có thể là hàng trăm, hàng ngàn) với nhiều loại máy bay, trong đó có pháo đài bay B52 để đánh phá miền Bắc. Người cho rằng, Mỹ càng thua đau ở miền Nam, chúng càng lồng lộn tiến công ra miền Bắc, theo đó, mức độ đánh phá của chúng càng ác liệt. Chúng sẽ không từ một thủ đoạn tàn ác nào nhằm huỷ diệt miền Bắc, hòng “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, đè bẹp ý chí  quyết tâm giải phóng miền Nam của nhân dân Việt Nam trong cuộc tranh đấu vì hoà bình, thống nhất đất nước. Vì thế chúng sẽ sử dụng những loại vũ khí tối tân nhất, trong đó có con bài chiến lược là máy bay B52, hòng huỷ diệt miền Bắc.

Về không gian và mục tiêu bắn phá của chiến tranh phá hoại, Người dự báo, trọng điểm địch bắn phá không chỉ là các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng mà chúng có thể  mở rộng nhiều nơi khác trên toàn miền Bắc; mục tiêu phá hoại của chúng là các thành phố, xóm làng, nhà máy, cầu đường, kho tàng, bến cảng; độc ác hơn chúng còn tàn phá cả đê, đập, nhà thờ, đình chùa, bệnh viện, trường học, di tích lịch sử văn hoá... Vì thế, Người căn dặn, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, chúng ta cũng phải tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của chúng. Chấp hành chỉ chị của Người, công tác chuẩn bị chiến đấu trong các lực lượng vũ trang và công tác phòng không nhân dân trên miền Bắc được đẩy mạnh và tiến hành khẩn trương.

Đúng như dự báo của Người, cuối tháng 12-1972, với tham vọng lật ngược thế cờ trên bàn đàm phán ở Pari, đế quốc Mỹ đã điên cuồng tiến hành cuộc tập kích chiến lược B52 với quy mô lớn chưa từng có, tập trung đánh phá vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, khu công nghiệp lớn trên miền Bắc. Chúng đánh phá liên tục, đánh ồ ạt, đánh kéo dài, đánh cả ban ngày lẫn ban đêm, đánh trong mọi điều kiện thời tiết nhằm triệt phá nền kinh tế, cơ sở vật chất, tiềm lực quốc phòng, gây bất ổn về an ninh xã hội, qua đó khủng bố tinh thần và sức chịu đựng của nhân dân ta.

Trên cơ sở dự báo chiến lược về chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Trung ương Đảng sớm xây dựng niềm tin, ý chí quyết đánh quyết thắng giặc Mỹ xâm lược cho toàn dân và toàn quân ta. Người kêu gọi, cổ vũ quân dân cả nước phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng cách mạng, tinh thần bất khuất trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc, thống nhất non song. Lời hịch lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do[6], đã thôi thúc 31 triệu đồng bào từ  Bắc chí Nam, từ cụ già đến em nhỏ vượt qua mọi gian khổ hy sinh, quyết đánh và quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Đặc biệt đối với quân đội, nhất là bộ đội Phòng không- Không quân, lực lượng xung kích, nòng cốt trong cuộc đối đầu với không lực Hoa Kỳ, Người thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục, động viên, đồng thời đặt ra yêu cầu quyết tâm cao độ cho lực lượng này. Năm 1965, nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Phòng không- Không quân, Người nhấn mạnh: “Các chú phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện. Phải có quyết tâm đánh, mà đã đánh phải có quyết tâm thắng. Phải chuẩn bị tinh thần đánh liên tục, đánh khi nào giặc Mỹ phải cút ra khỏi Việt Nam mới thôi[7]. Người kêu gọi toàn quân, toàn dân ta “Phải tin tưởng vững chắc là ta nhất định thắng, Mỹ nhất định phải thua. Lúc này mà còn phân vân: tàu địch to, tàu ta nhỏ; tàu bay địch nhiều, súng ta ít liệu có đánh được không là biểu hiện quyết tâm chưa cao…. Phải khẳng định rằng: Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B57, B52, hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng[8].

Người chỉ thị Bộ đội Tên lửa và Pháo cao xạ phải tích cực huấn luyện chiến thuật, làm chủ vũ khí - khí tài và phải bắn rơi máy bay địch ngay từ loạt đạn đầu tiên. Từ tiên đoán Mỹ sẽ sử dụng máy bay chiến lược B52 đánh phá miền Bắc, ngay từ năm 1962, Người đã hỏi đồng chí Tư lệnh phòng không Phùng Thế Tài về máy bay B52, đồng thời nhắc nhở bộ đội Phòng không phải sớm nghiên cứu và nắm chắc về loại máy bay này cũng như chuẩn bị phương án trừng trị đích đáng. Tháng 4 năm 1966, đế quốc Mỹ dùng máy bay chiến lược B52 đánh huỷ diệt các mục tiêu quân sự, dân sự và các trọng điểm giao thông trên địa bàn Quân khu 4, với quan điểm muốn thắng địch thì phải hiểu địch, nắm chắc địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Bộ đội Tên lửa:“Muốn bắt cọp phải vào tận hang”.

Thực hiện chỉ thị của Người, giữa năm 1966, Bộ đội Phòng không đã bí mật đưa lực lượng tên lửa và ra đa vào chiến trường Vĩnh Linh, trực tiếp tìm hiểu, nghiên cứu qui luật hoạt động, cách đánh phá của B52, từ đó tìm ra cách đánh B52 thích hợp. Nhiều nhóm cán bộ khoa học kỹ thuật được phái vào chiến trường để nghiên cứu kỹ thuật điện tử  của Mỹ và tìm cách “xuyên thủng” màn nhiễu để soi tìm B52. Với quyết tâm bắn rơi bằng được máy bay B52, lập chắc “hồ sơ” về loại máy bay này, ngày 11-8-1967, đồng chí Hoàng Văn Khánh, Phó Tư lệnh Binh chủng Tên lửa dẫn đầu vào chiến trường Khu 4 trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn 238 nghiên cứu cách đánh. Chỉ hơn 1 tháng sau, đêm 7-9-1967, trong vòng 30 phút, Tiểu đoàn Tên lửa 84 của Trung đoàn 238 đã đánh liên tiếp hai trận, tiêu diệt 2 máy bay B52 của Mỹ. Đây là chiến công lớn và đặc biệt quan trọng, khẳng định tên lửa của ta có thể quật ngã “siêu pháo đài bay”. Đây còn là một quyết định hết sức táo bạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị tổng Tư lệnh tối cao. Thực hiện chỉ thị của Bác, chúng ta đưa tên lửa và ra đa vào chiến trường nam Khu 4 không chỉ để khẳng định quyết tâm chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi cuối cùng mà còn để nắm chắc B52- đối thủ chính trong trận quyết chiến chiến lược sẽ xảy ra trên bầu trời Hà Nội như Người dự đoán.

Bên cạnh coi trọng việc xây dựng lực lượng, tăng cường vũ khí- kỹ thuật, để đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ đạo quân và dân ta phải tổ chức thế trận phòng không chặt chẽ, khoa học. Đó là thế trận hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; giữa các quân chủng, binh chủng (trong đó lấy bộ đội Phòng không- Không quân làm nòng cốt, đặc biệt coi trọng vai trò của tên lửa phòng không và sức mạnh tiến công của không quân tiêm kích), sử dụng các loại vũ khí, trang bị tạo thành lưới lửa phòng không rộng khắp và dày đặc, kịp thời đánh địch ở bất kỳ nơi nào chúng đến, ở bất kỳ tầm bay nào, hướng bay nào của chúng, kiên quyết bảo vệ các địa bàn chiến lược, các mục tiêu chủ yếu. Đặc biệt, trong tác chiến, Người yêu cầu bộ đội Phòng không- Không quân “phải hiệp đồng cho tốt, ai đánh tầng thấp, ai đánh tầng giữa, ai đánh trên cao phải phối hợp rất chặt chẽ”[9]; phải có được lưới lửa phủ kín cả tầng thấp, tầng giữa và tầng cao, làm cho địch đến từ hướng nào, ở tầm cao nào, sử dụng loại máy bay gì cũng bị tiêu diệt; sự hiệp đồng tác chiến này phải được thực hiện trong từng trận đánh, từng giai đoạn và trong suốt cuộc chiến tranh.

Được sự chỉ đạo kịp thời và chặt chẽ của Người, các lực lượng Phòng không – Không quân đã chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, nghiên cứu kỹ tình hình địch, vào trận với tư thế vững vàng, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng không nhân dân, phòng không ba thứ quân, huy động tối đa sự tham gia của nhân dân vào mặt trận đất đối không, phát động rộng rãi phong trào: Toàn dân tham gia bắn  máy bay, vây bắt giặc lái, toàn dân tham gia phòng tránh, sơ tán chiến tranh; toàn dân tham gia bảo vệ và bảo đảm giao thông vận tải, đã tạo ra sức mạnh to lớn để đánh thắng kẻ thù, giáng cho không quân Mỹ những đòn đích đáng, góp phần quyết định đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, với đỉnh cao là  trận “Điện Biên Phủ trên không” (12-1972).

Như vậy, với nhãn quan chính trị sắc sảo, tầm nhìn xa rộng, phương pháp tư duy biện chứng, khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo sớm, chính xác việc đế quốc Mỹ sẽ sử dụng máy bay chiến lược B52 đánh phá miến Bắc trọng điểm là Thủ đô Hà Nội và Hải phòng. Từ đó, Người không chỉ động viên, xây dựng ý chí, niềm tin, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho quân và dân ta mà còn trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức, chuẩn bị lực lượng, phương án tác chiến, sẵn sàng quật ngã “pháo đài bay siêu hạng” của kẻ thù. Với quyết tâm chiến thắng, với tư thế sẵn sàng, chủ động phòng chống, chủ động đánh trả, quân và dân ta đã anh dũng, kiên cường, mưu trí sáng tạo, đánh bại hai cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc bằng không quân lần thứ hai của đế quốc Mỹ, đỉnh cao là trận “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta đã buộc Mỹ phải ký vào hiệp định Pari, chấp nhận chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước, tạo điều kiện cho quân và dân ta tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”, làm nên Đại thắng Xuân 1975 lịch sử, giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối.



1, Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H, 1975, tr 256.

2,3.  Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 317, 323

1.Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Sđd, tr 506- 507

1. Hồ Chí Minh Toàn tập ,tập 12, Sdd, tr.108

2,3 Hồ Chí Minh Toàn tập , tập 11, Sdd, tr 466, 467

 

[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Sdd, tr 466

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574260

Hôm nay

2175

Hôm qua

2322

Tuần này

21806

Tháng này

221317

Tháng qua

130677

Tất cả

114574260