Những góc nhìn Văn hoá
Yếu tố Trung Quốc ở điểm nút cuộc đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ tại Paris

Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán giữa phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Xuân Thủy dẫn đầu và phái đoàn Hoa Kỳ do Averell Harriman lãnh đạo, chính thức khai mạc tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, phố Kléber, thành phố Paris. Từ đó cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết, cuộc đàm phán Paris kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 cuộc họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam trên toàn thế giới.
Trong quá trình đàm phán hòa bình Việt Nam-Hoa Kỳ tại Paris, từ tháng 4 năm 1971, bắt đầu xuất hiện yếu tố Trung Quốc bằng sự kiện Thủ tướng Chu Ân Lai chủ động mời Tổng Thống Mỹ Richard Nixon sang thăm Băc Kinh.
Không phải ngẫu nhiên xảy ra sự kiện đó. Ngược dòng lịch sử, chúng ta đều biết, trong lịch sử cận hiện đại nước ta, mọi kẻ xâm lược đều phải tính đến yếu tố Trung Hoa trong quá trình xâm lược, bởi hai nước “núi liền núi, sông liền sông”. Trong cuộc xâm lược Việt Nam cuối thế kỷ XIX, người Pháp, khi tiến hành cuộc viễn chinh Bắc Kỳ I (1872-1873) cũng đã tính đến yếu tố nhà Thanh và đặc biệt, giữa thế kỷ trước, người Mỹ đã từng chứng kiến người Pháp tính đến yếu tố Trung Quốc trong Hiệp ước Trùng Khánh 28/2/1946 và Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Đến lượt mình, khi gây ra cuộc chiến tranh với nước ta, Hoa Kỳ cũng đã tính đến yếu tố Trung Quốc, không chỉ vì Trung Quốc và Việt Nam cùng chung biên giới như trước đây, mà quan trọng hơn hai nước tương đồng về ý thức hệ và Trung Quốc là nước viện trợ sức người, sức của to lớn cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Năm 1965, trước khi đổ quân vào miền Nam và mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hoa kỳ đã tiến hành thăm dò phản ứng của Trung Quốc. Tháng 1 năm 1965, trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ Etga Xnau, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã không úp mở tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều hoàn toàn rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tiến công (vào đất Trung Quốc), người Trung Quốc mới chiến đấu “ (1) . Điều đó có thể suy ra là “ Ngươi (Mỹ) không đụng đến ta (Trung Quốc) thì ta không đụng đến ngươi”.
Tuyên bố của Mao là dấu hiệu lành cho Mỹ hành động. Tháng 3-1965, đế quốc Mỹ cùng với việc đổ quân vào Đà Nẵng trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại trên quy mô lớn ở niền Bắc. Với tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, đường mòn Hồ Chí Minh vẫn phát huy tác dụng to lớn và quân dân miền Nam đã thắng lớn trong hai mùa khô (1965-1966 và 1966-1967) và đặc biệt trong Tết Mâu Thân 1968. Cùng với chiến thắng của quân dân hai miền Nam Bắc và sự bùng phát phong trào phản chiến tai hâu phương nước Mỹ, Hoa Kỳ nhân thấy không thể thắng ta về quân sự nên cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến bàn hòa đàm Paris như trên đã nói.
Từ tháng 5-1968 đến tháng 2-1970, Hội nghị Paris chỉ là diễn đàn để hai bên lên án lẫn nhau và định hướng dư luận thế giới. Từ ngày 21-2-1970, bắt đầu các cuộc gặp gỡ riêng giữa Lê Đức Thọ và Kissinger, cuộc hòa đàm Pari giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mới đi vào thực chất. Và cũng bắt đầu từ đây. Hoa Kỳ nghĩ tới việc lợi dụng yếu tố Trung Hoa giúp họ giành lây thế thượng phong trong cuộc hòa đàm với Việt Nam ở Paris. Và Trung Quốc cũng sớm nhận ra điều đó từ phía Mỹ nên cũng đã sử dụng Việt Nam trong sự đổi chác lợi ích của mình với Hoa Kỳ, bất chấp sự tổn thất của người anh em đã từng cùng chung lưng đấu cật thời hàn vi.
Chúng ta điều nhớ, một chương mới trong quan hệ Mỹ - Trung được đánh dấu bằng việc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho công bố trên Đài Phát thanh Bắc Kinh ngày 26-11-1968 bản Tuyên bố về mong muốn nối lại cuộc đàm phán với Mỹ ở cấp đại sứ ở Vácsava, Ba Lan. Tuyên bố đó như là tín hiệu không thể bỏ qua đối với Chính quyền Oasinhtơn và vì thế họ lập tức tìm mọi cách để làm thỏa mãn mong muốn từ phía Bắc Kinh. Người đóng vai trò tích cực nhất của Chính quyền Oasinhton về vấn đề này là Kissinger, cố vấn an ninh của Tổng thống R. Nixon.
Bước vào Nhà trắng ngày 1-2-1969, Kissinger cùng Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Richardson nghiên cứu và nhanh chóng vạch ra một lộ trình thích hợp để đưa quan hệ Mỹ-Trung đạt được những thỏa thuận có lợi cho cả đôi bên. Đúng 20 ngày sau khi giữ cương vị mới, trong cuộc họp tai Nhà trắng ngày 21-2-1969, Kissinger đã đưa ra một ý tưởng chủ đạo là “ mọi xem xét tình hình quốc tế phải đánh giá vai trò của một nước có 700 triệu dân…” (2). Tiếp đó, ông vạch kế hoạch cho chuyến thăm Pháp của Tổng thống Mỹ R. Nixon. Ngày 1-3-1969, trong dịp chuyến thăm nước Pháp. R. Nixon đã nói với Tổng thống Pháp De Gaulle rằng: Bất kể khó khăn như thế nào, Hoa Kỳ cũng quyết tâm mở cuộc đối thoại với Trung Quốc và nếu những yêu cầu của Oasinhton được Bắc Kinh chấp thuận, thì Hoa Kỳ sẽ ủng hộ việc đưa Trung Quốc vào Liên Hợp Quốc, bỏ cấm vận kinh tế, rút quân Mỹ ra khỏi Đài Loan… Nói với Tổng thống Pháp, đồng thời Tổng thống Hoa Kỳ Nixon nuốn thông báo gián tiếp với Bắc Kinh ba điều quan trọng mà Trung Quốc đang mong muốn tìm kiếm nhiều năm nay.
Do lợi ích quốc gia bức thiết thôi thúc, cuối tháng 12-1969, Đại biện lâm thời Trung Quốc Lei Yang đã chủ động gặp Đại sứ Mỹ Walter J. Stoessel ở Vacsava đề nghị từ tháng 1-1970, mở lại đàm phán cấp đại sứ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Sau nhiều lần gặp gỡ trực tiếp, trao đổi công hàm, thư từ về các vấn đề liên quan, mùa Xuân năm 1971, Trung Quốc chính thức đặt vấn đề mời phái viên cấp cao Chính quyền Hoa Kỳ sang trực tiếp đàm phán.
Theo đề xuất của Trung Quốc, Kissinger đã được Tổng thống Nixon cử sang Bắc Kinh đảm nhiệm trọng trách này. Các vấn đề được đặt ra, đặc biệt cuộc chiến tranh ở Việt Nam như một điều kiện để đàm phán, đã được hai bên nhanh chóng thỏa thuận. Để thúc đẩy nhanh hơn nữa đàm phán Mỹ-Trung tới đích, nữa cuối năm 1971 Nhà trắng công bố quyết định nới rộng một số quyền lợi trên trường quốc tế cho Trung Quốc như giảm cấm vận về mậu dịch và bao vây kinh tế (đã áp dụng từ năm 1950), cấp thị thực nhập cảnh cho công dân Trung Quốc muốn đến Hoa Kỳ tham quan hay làm ăn, cho phép Trung Quốc được dùng đôla để nhập hàng hóa…
Trong cuộc làm việc giữa cố vấn đặc biệt Kissinger và Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 10-7-1971 chuẩn bị những nội dung văn bản sẽ đưa ra trong cuộc hội đàm chính thức của nguyên thủ hai nước bao gồm chính sách đối với Đài Loan, việc đưa Trung Quốc vào Liên hợp quốc, việc rút quân chiến đấu Mỹ ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam…, Thủ tướng Chu Ân Lai chính thức mời Tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc. Cũng trong cuộc làm việc đó, Chu Ân Lai hé lộ cho Kissinger hiểu về trở ngại lớn nhất trên con đường cải thiện quan hệ Trung-Mỹ là “ Việt Nam chứ không phải Đài Loan”. Điều đó không gì khác hơn là Chu Ân Lai đã lật bài ngữa với Hoa Kỳ trong trò chơi chính trị. Còn Kissinger yêu cầu Trung Quốc phải bằng cách nào đó không để Hà Nội có khả năng chiếm toàn bộ Nam Việt Nam và bán đảo Đông Dương, tức là phải làm ngưng trệ Việt Nam (4). Rõ ràng, trong cuộc làm việc trên, hai bên đã bày tỏ một cách thẳng thắn mục đích khởi đầu của mình.
Nhằm đẩy nhanh tiến trình đàm phám, ngày 2-8-1971, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Roger đã công khai tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn ủng hộ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào Liên Hợp quốc. Và trong cuộc bỏ phiếu của Liên Hợp quốc ngày 25-10-1971, Trung Quốc được chính thức công nhận là một thành viên và đồng thời trở thành một trong năm nước là ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an đầy quyền lực của tổ chức quan trọng hàng đầu thế giới. Chưa đầy một tháng sau, ngày 30-11-1971, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thông báo chính thức trên các phương tiện thông tin về cuộc thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon từ ngày 22 đến ngày 28-2-1972 theo lời mời của Chính phủ Trung Quốc.
Vào thời điểm Tổng thống Hoa Kỳ Nixon sang thăm Trung Quốc, quân và dân miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược xuân- hè 1972. Mặc dù bị nhiều áp lực từ bên ngoài, đặc biệt là viện trợ quân sự, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn trên cả hai bình diện quân sự và chính trị, làm áp lực cho cuộc đàm phán giữa ta và Hoa Kỳ vào thời điểm nút tại Hội nghị Paris.
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon, sau nhiều cuộc hội đàm lúc công khai, lúc bí mật, cuối cung hai bên đã ra Thông cáo chung Thượng Hải. Thông cáo đề cập tới nhiều vấn đề bận tâm của hai bên, nhưng vấn đề như là điều kiện đòi hỏi hai bên phải thực hiện ngay là: “ Nếu Trung Quốc nuốn Hoa Kỳ rút quân chiến đấu ra khỏi Đài Loan thì Trung Quốc phải ép Hà Nội đi vào một giải pháp thỏa hiệp để tạo điều kiện cho Hoa Kỳ thực hiện việc rút quân ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam trong danh dự” (5)
Trong bữa tiệc chiêu đãi trọng thể tại Đại lễ đường Thiên An Môn, Tổng thống Hoa Kỳ Nixon đã bày tỏ ý nghĩa của cuộc viếng thăm Trung Quốc của ông: “ Đây là một tuần lễ làm thay đổi thế giới… Chúng ta đã tạo dựng một chiếc cầu vượt qua 16 nghìn dặm và 22 năm thù địch, ngăn cách chúng ta trong quá khứ. Đêm nay, hai nước chúng ta đã nắm tương lai của thế giới trong lòng bàn tay” (6). Và trong cuộc họp báo quốc tế về kết quả chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Hoa Kỳ Nixon, Kissinger đã khẳng định: “ Chuyến đi thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon không những đã mở ra một quá trình lịch sử, mà còn đem lại cho mọi người một sự lựa chọn đối với tương lai”.
Vây là, cuộc ngã giá đã kết thúc qua cuộc viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Hoa Kỳ. Một lần nữa yêu tố Trung Quốc được Hoa Kỳ khai thác triệt để ở điểm nút cuộc đàm phán Paris. Cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều có những kiểu khác nhau để gây sức ép lên cuộc đàm phán theo kịch bản của họ. Nếu như phía Trung Quốc gây khó dễ cho Việt Nam bằng những thủ tục quá cảnh các thiết bị quân sự của các nước bè bạn giúp ta, thì phia Hoa Kỳ gây sức ép lên chúng ta bằng một chuổi các sự kiện, bắt đầu từ tháng 4 năm 1972, Mỹ quyết định ném bom trở lại và thả thủy lôi phong tỏa các cảng biển miền Bắc nước ta, đặc biệt là cảng Hải phóng, tăng cường lực lượng và phương tiện chiến tranh, liên tiếp mở những cuộc hành quân quy mô lớn trên chiến trường miền Nam, đồng thời tuyên bố hủy bỏ kế hoạch ký tắt Hiệp định Paris dự định vào tháng 10 năm 1972. Phải khẳng định một lần nữa là sự bội ước của Hoa Kỳ chính là họ kỳ vọng vào sức mạnh của siêu pháo đài bay B.52, ván bài năm ăn năm thua cuối cùng, sẽ “ đưa người Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá” như Tướng Curtis Emerson Le May đã từng nguông cuồng tuyên bố và buộc đối phương ký hiệp định theo ý của họ.
Nhưng họ đã nhầm. Theo tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh, với vũ khí có trong tay cho tới thời điểm đó, quân và dân ta bằng sức sáng tạo và lòng quả cảm đã làm phá sản chiến dịch triệt phá Hà Nội trong 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972.
Hết bài, ngày 8-1-1973, Hoa Kỳ trở lại Paris ngồi vào bàn đàm phán và ngày 27-1-1973, bốn bên chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và 4 Nghị đị thư liên quan. Tham gia lễ ký có đại diện của VNDCCH là Bộ trương Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, đại diện Hoa Kỳ là Ngoại trưởng William P. Rogers, đại diện của MTDTGPMNVN là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình và đại diện cho Chính quyền Sài Gòn là Tổng trưởng Ngoại giao Trần Văn Lắm.
Hiệp định Paris ngày 27-1-1973 buộc Hoa Kỳ phải rút khỏi Việt Nam và mở đường cho sự sụp đổ của Chính quyền Sài Gòn, thu giang sơn về trong một mối. Nhưng theo cách diễn đạt hóm hỉnh của anh em nhà Kalb, phần thắng của các bên là: “ Nixon được tù binh trở về. Lê Đức Thọ được Mỹ rút ra. Thiệu được giữ lại chính quyền và Chính phủ Cách mạng Lâm thời (Chính phủ Việt Cộng) được một mức độ hợp pháp chính trị ở Nam Việt Nam. Mỗi người được một cái gì đó, không có ai được tất cả mội cái” (7)
Cuối cùng, những kẻ chơi con bài Việt Nam đều bị thất bại, bởi một lẽ nước Việt Nam vào thời điểm đó không còn như nước Việt Nam dại khờ trong một thế giới ranh mãnh năm 1954 nữa.
Chú thích:
1. E. Xnô. Cuộc cách mạng lâu dài. Nxb Hotxingxon, London,1973, tr., 216.
2. Viện quan hệ quốc tế. Thông tin Quan hê quốc tế, số 6, tháng 4/ 1979, tr., 82.
3. Như trên, Sdd, tr., 90.
4. Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt-Trung. Nxb Đà Nẵng, 1996, tr., 77.
5. Marvin Kalb- Bernard Kalb. Đột phá khẩu Trung Quốc. Hội nghị cấp cao năm 1972. Viện Thông tin, Ủy ban KHXHVN, Ha Nọi, 1978, tr, 69.
6. Diễn Văn của Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon trong tiệc chiêu đãi của Mao Trạch Đông tại Thiên An Môn đên Chủ nhật, 27-2-1972. Sdd, tr, 93.
7. Lưu Văn Lợi- Nguyễn Anh Vũ. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Pari. Nxb Công an nhân dân. Hà Nội, năm 2009.
tin tức liên quan
Videos
Lưỡng quốc Tể tướng Hồ Sỹ Dương
Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Hồng Sơn với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An”
Về sự kiện Unesco ra nghị quyết kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh
Khai mạc Hội thi Tuyên truyền lưu động và Triển lãm tranh cổ động kỷ niệm 65 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh và Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn
Nghệ An phát động Cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật “Chung một cơ đồ Việt Nam”
Thống kê truy cập
114597769

214

2363

21017

224386

131357

114597769