Những góc nhìn Văn hoá

Hai ý kiến về trường ca Chân đất

Đôi điều về Trường ca Chân đất (*)

Hà Quảng

*

Trong tên của trường ca, cụm từ Chân đất có hai trường nghĩa, “chân”: nói về con người, về nhân dân, “đất”: nói về tự nhiên, về đất nước quê kiểng. Trường ca là những suy cảm của tác giả về Quê hương, về Tổ quốc, về Nhân dân trong thời cuộc mới. Từ cái biểu tượng lớn Chân đất tác giả mở ra nhiều hướng để luồng tâm tư trải rộng những vấn đề nhân tình, thế sự. Biểu trưng cụ thể (chân đất) nhưng lồng vào là nội dung lớn khái quát đầy sắc thái trường ca- một thể tài luôn mang hơi thở của thời đại, mang dấu hình và âm hưởng của quê hương đất nước! Tác phẩm “chín” trong một lối viết quen thuộc của tác giả - “trường ca trữ tình”, lấy cảm hứng chủ thể làm cái sườn chính để triển khai kết cấu - hình tượng. Trường ca có một kết cấu độc đáo hình “nan quạt”: Biểu tượng lớn về Đất nước, Nhân dân (Chân đất) là đỉnh , triển khai qua 9 đoạn thơ với các biểu tượng : 1- Chân tre, 2- Chân ruộng, 3- Chân mưa, 4- Chân núi, 5- Chân cò, 6- Chân tháp, 7- Chân mây, 8- Chân sóng, 9- Chân lũy, như chín cái nan xòe rộng. Kết cấu hình “nan quạt” tạo một vẻ đẹp mới lạ cho trường ca. Mỗi “nan quạt” tương ứng một trường đoạn  chứa đựng những suy tưởng về quê hương,  là những  khúc ca về đấu tranh và xây dựng dù là những hiện trạng  thiên tạo hay nhân tạo. Chín đoạn thơ như là sắp đặt, hơn 600 câu thơ tự do vắt dòng và ngắt dòng liền một mạch không chấm, phẩy, rất tân kỳ, nhưng lại tự nhiên như hơi thở.

Phải nói Thanh Thảo là một tác giả rất nhạy cảm cái mới, luôn tìm cách đổi mới  thi pháp, nhưng cái mới nghệ thuật  ở anh luôn song hành với tâm lý thời đại với truyền thống thẩm mỹ cộng đồng nên nguồn sáng tạo được nuôi dưỡng bởi một hơi ấm ít tạo nên sự xa cách kỳ khu hình thức chủ nghĩa. Trường ca Chân đất- một biên niên tâm trạng của tác giả trải dài từ quá khứ sang hiện tại đến tương lai, được khắc tạc cùng những nỗi niềm sâu lắng, nhiều cung bậc nhưng đều xoay quanh cái trục quê hương trong thời cuộc mới. Vẫn là cáí giọng thơ Thanh Thảo giàu suy tư, giàu tưởng tượng, nhưng tiếp cái mạch hào hùng của Những người đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1981), cái trăn trở Khối vuông ru-bích (1985), cái  đắn đo suy nghiệm cuả Từ một đến một trăm (1988)... ở trường ca này còn toát lên một nỗi niềm mới về quê hương trước thời cuộc.

- Bản hợp ca về tình yêu sâu lắng quê hương đất nước:

Theo dòng suy cảm của tác giả ta thấy tác phẩm nổi bật trước tiên là những  suy tư về nỗi đau thương và khó nhọc của nhân dân đã trải qua để tồn tại và xác quyết một lẽ sống cao thượng, một tình yêu giản dị tha thiết cùng một quyết tâm và hy vọng“ hóa trăm vị thuốc cứu người”, nhưng cũng đầy e ngại trước những vấn nạn mới! Trường ca vang vọng một tình yêu đầy thử thách. Đó là một tình yêu với quê nghèo rau cháo thủy chung…nghêu ngao bình cũ hũ sành/ thài lài rau mác nấu canh/  bát tép kho cà nuôi anh khôn lớn/ với một cộng đồng chưa bao giờ khuất phục quăng quật cả nghìn năm  không thể sống mà đau  không thể chết mất gốc. Đó cũng là niềm tự hào lớn lao về một lịch sử có bề dày với  những phẩm chất luôn được thử thách như vàng nung qua lửa càng sáng chói.

Mở đầu trường ca, tác giả nhắc đến quá khứ, với một niềm tin yêu máu thịt qua biểu tượng Chân tre:

        …hình như tổ tiên mình trồng một bụi tre

…trồng một lũy tre trồng một rừng tre

   bên dưới thành Châu Sa

    bên dưới Trường Lũy;

 hồi ức xao động, day dứt khôn nguôi về những cây tre

quê hương ơi làm sao tôi sống/  thiếu Người

 …nếu trước nhà tôi, ngoài ngõ/ không rậm rịt một bóng tre?

     có nghĩa là tác giả không còn là mình nữa, nếu quên đi quá khứ, quên đi những bóng tre tổ tiên trồng và chăm giữ. Trong sự yêu mến về lịch sử về quá khứ qua hình tượng cây tre có lẫn sự băn khoăn : những giấc mơ quá lửa những rễ tre hóa thạch tự bao đời. Phải chăng có nơi nào đấy, có lúc nào đấy cây tre truyền thống đã trở thành di vật khảo cổ!

Đoạn thơ Chân mưa – một sự đối lập hiện tại và quá khứ. Đã 60 năm vẫn nhớ

       bức tường mưa/ dịu dàng/trong suốt/ thương yêu bao bọc, còn bây giờ những bức tường bê tông lầm lì / những bức tường sắt thô bạo/ những con sư tử đá/ những con đại bàng xi măng/ sẽ thay hoàng- hôn- người- gánh- rạ…  Đó chính là tâm trạng của những con người đi trên con đường thị trường khô khan, khó nhọc, săn tìm lộc lợi, nhớ về một thuở dịu ngọt đầm ấm xa xưa… 

-  Áng sử thi về con đường lich sử gan góc dạn dày:

Tác phẩm còn nổi bật ở âm hưởng sử thi dồi dào. Trường ca như một bản tráng ca ghi lại các chặng đường lịch sử quê hương. Với biểu tượng Chân tháp, tác giả nhắc lại lịch sử thời mở nước, sáu trăm năm trước, theo điệu “hành” phương Nam tổ tiên tìm gặp bãi sông Trà lều lợp lá cào don xúc tép vợ vợ chồng chồng bống bống bang bang cơm bạc cơm vàng  để hòa hợp. Cuộc hôn phối dân tộc , người con trai Việt tìm gặp  người con gái Chàm  tạo nên một xứ sở và cũng bắt đầu một hạnh phúc trong thử thách , đấu tranh để sinh nở trường tồn. Như con dế thèm đám cỏ gặm hết thời gian bỗng tái tê, biết bao kỷ niệm lịch sử về vùng quê nhiều hạnh phúc nhưng cũng nhiều gian khổ- một chân lý của quá trình sinh thành. Mảnh đất từng ghi nhiều kỷ niệm của Cao Chu thần, ghi nhiều hành trình của Bùi Nhị Minh Trọng, Bùi Huệ, vang dội nhiều tên đất, tên làng: Cù Trâu, Trà Giang, Thạch Bích…Một quá trình phối sinh dân tộc trong lịch sử Xứ Quảng cũng là của Đất nước, gian khổ nhưng hào hùng: phương Nam phương Nam dòng chảy mấy trăm năm mặt căng bình thản...

Hiện tại, quê hương chứa đầy thử thách. Ruộng đồng bao đời là lẽ sống của dân quê, khi bùn non nối đời anh với đất  và thuở mẹ cho con bú bầu vú thoảng mùi gốc rạ…,  bùn ruộng là anh, bùn ruộng là em; nhưng ruộng quê lại gắn với hình ảnh con đỉa hút máu- nỗi hoảng sợ dai dẳng ám ảnh tự ngàn xưa, bám vào cả giấc mơ. Quê hương có bao người con như bác Năm Trì để trụ vững với những cam go .Bác Năm Trì, hình ảnh tiêu biểu của người con Xứ Quảng : chân chất, dạn dày nhưng đầy quả cảm và thiết thực. Trước những tai ương như lũ đỉa , bác Năm Trì, người dân quê bình thản xoa tí nước bọt vào chân và bứt ra con đỉa,  thì đó cũng là lúc người già quê tôi mỗi khi họ làm thinh mây trên trời tụ về đen kịt (Trường đoạn Chân ruộng). Chân cò, một ẩn dụ về nỗi mất mát của quê hương … gặp con cò bên thác Bản Giốc/…chỉ còn một chân/ cò rũ riệt.  Một câu hỏi đau đáu lòng người: bao giờ cò đứng hai chân/ bay thẳng lên đỉnh núi mình/ chớp trắng?...bao giờ cò tự do lả la khắp phần đất phần núi mình?

Biển được nói nhiều trong đoạn thơ Chân sóng. Biển được dựng nên với những hình ảnh đau thương nhưng hào hùng, can trường. Một truyền thống cả quá khứ , hiện tại và cả tương lai. Biển thời ấy…mỗi làn sóng như một dãy khăn tang, nơi ghi dấu những phận người bó chiếu giữa mông mênh. Biển bây giờ là Gạc Ma  nơi những người lính đảo  đã chết theo vòng tròn tay họ giăng ra và xiết chặt vào nhau như một tràng hoa biển.

Cuối trường ca là biểu tượng Chân lũy. Quê hương đã chọn một cách tồn tại đá cõng đá mồ hôi cõng mồ hôi tháng năm cõng tháng năm ngừơi cõng người Trường Lũy. Con đường duy nhất để tồn tại cùng lịch sử: chiến đấu xây Trường Luỹ, Trường Lũy trên mặt đất và Trường Lũy trong lòng người. Phải vượt qua mọi hệ lụy, mọi ngáng trở:…dù chân lũy đến chân trời chúng tôi đi cứ còng lưng vác đừng than phận nghèo còn đá mọc lũy còn chồi nảy cây. Đừng than phận nghèo, câu thơ dân dã nhắc nhớ lại lời dặn của người xưa về niềm lạc quan và ý chí sống trong mọi hoàn cảnh! Sự suy nghĩ của nhà thơ về cuộc hành trình dựng chiến lũy của dân tộc. Cuộc hành trình của sự chia và hợp, phân hoá và thống nhất:

…cùng mọị người tôi vác đá xây lũy

 cùng mọi người tôi vác tự do vác tình anh em qua lũy

 cùng mọi người tôi ném những trái ngang qua lũy.

 Lũy là nơi đo lòng người, lộ rõ sự anh hùng và hèn nhát, sự tồn vong hay hủy diệt, cái chung và cái riêng!

*

Tập trường ca gồm chín đoạn, người đọc có cảm  giác như tác giả viết một hơi, liền một mạch, khi trái tim dâng đầy cảm xúc và dừng  bút vào cái thời gian 25/8/2011. Một ngôn ngữ căng đầy mà giản dị mạch lạc, nhiều thủ pháp nghệ thuật được khơi diễn một cách nhuần nhị.

Thủ pháp đối sánh:

         - Quá khứ và hiện tại, luôn hiển hiện qua các đoạn thơ. Ký ức về quê hương trăn trở đi về như mơ, như tỉnh, hình tượng thơ đôi lúc đượm màu siêu thực, xao động nhiều tâm trạng gợi nhiều liên tưởng ý ngoài lời, có những câu thơ chỉ là gợi ý để người đọc nghĩ, cảm nhận tiếp.!  Nhiều đoạn nói về lịch sử, con người miệt quê tưởng như trùng lặp nhưng đoạn nào cũng đầy ắp sự kiện, đầy ắp cảm xúc nên không đơn điệu mà luôn gợi cảm, đơm đầy ấn tượng mới mẻ.

          -Trường ca triển khai hài hòa trên nền sự giao thoa hai mạch chínhcảm xúc trữ tình của chủ thể với những khúc tự sự về lịch sử, như là nan quat và giấy bồi, sự kết hợp làm nên cái quat. Những phần tác giả kể về những người con quê hương: bác Năm Trì, Mai Phụng Lưu, những ông già, những người con trai, con gái với những hành trạng, hoạt động bộc lộ vẻ đẹp tính cách con người Xứ Quảng trong lịch sử; kết hợp những lời tâm sự baỳ tỏ tình yêu đất đai , ruộng đồng, niềm tự hào về lịch sử quê kiểng, sự đan xen sắc thaí trữ tình lẫn tự sự này trong trường ca làm giọng điệu luôn biến đổi, đa dạng hóa các sắc thái thẩm mỹ của hình tượng như trong vườn hoa có những bầy chim về bay lượn!

               - Trường ca có sự kết hợp những khổ thơ, đoạn thơ in thường và in nghiêng. Những đoạn in nghiêng thường ở đầu các trường đoạn, đứng sau một câu ca dao hay ngạn ngữ, chủ thể phát ngôn thường chung chung , nó có vị trí như lời đề dẫn, như câu hát của dàn đồng ca trong các vở kich thơ cổ. Cũng có khi tách ra như minh họa:  kể chuyện bác Năm Trì, kể chuyện “cò” trên biên giới, chuyện người Tàu sang xứ mình mua “đỉa”,  chuyện về cuộc “hành” phương Nam của dân đàng trong… Những đoạn in thường lại giàu tính cá biệt, giàu âm hưởng trữ tình,  bộc lộ trực tiếp  những cảm xúc của tác giả trong cả trường đoạn. Sự kết hợp này không chỉ gia tăng ý nghĩa mà còn góp phần tạo nên sự  đa dạng về âm điệu của trường ca.

Biểu tượng và ẩn dụ:

Cho đến, trường ca này, Thanh Thảo vẫn không lặp lại mình, sức tượng tượng vẫn phong phú. Tập thơ “mờ ảo” trộn lẫn nhiều suy tư và cảm giác, nhờ sự qua lại giữa các liên tưởng:  thực- siêu thực, hữu thức- vô thức, bác học- dân gian…rất tự nhiên. Các thủ pháp nghệ thuật biểu tượng, ẩn dụ, tác giả xử dụng khá điêu luyện.

Những liên kết táo bạo giữa cái cụ thể và trừu tượng, những so sánh ngầm…tạo cả một trường biểu tượng buộc trí tưởng tượng người đọc làm việc không ngừng:

…những con đỉa bám vào ký ức

 hút thời gian nhớ nhớ quên quên

…những dòng sông mất tích

 những đám mây trượt ngã

 những hàng cây tắt nến trong đêm

 …tôi đi về nhà một mình

  thèm một ngọn lửa màu rơm

 một ổ chó ấm hơi chờ đợi

 …Chân tre

 buớc ngang dòng sông

 la đà rủ chim làm tổ

 viết lên cao xanh

ngọn bút trúc tâm ngơ ngác.

Bằng thủ pháp ẩn dụ- tâm linh tác giả dựng một tượng đài:

            có những người lính đảo

    đã chết theo vòng tròn

    tay họ giăng ra và siết chặt tay nhau

    như một tràng hoa biển

tư thế cái chết của những người lính biển dũng cảm và đẹp, nhưng hình ảnh cái chết còn gợi một ấn tượng bât tử , vì “tràng hoa biển”gợi nhớ vào những ngày rằm tháng bảy người sống  thả những vòng hoa cầu hồn  trên sông nhớ đến người đã khuất.

Suy và cảm, tâm và cảnh, thực và mộng, quá khứ và hiện tại, trường liên tưởng rất xa rộng mà tự nhiên. Tác giả như một ca sĩ có âm vực rất rộng thuận lợi cho sự phối hợp những cao độ và trường độ tạo những trường âm thanh giàu hiệu ứng thẩm mỹ.

*

Một đoạn trong trường ca lẫn vào những hình ảnh về quê hương, về lịch sử anh có những câu thơ đầy suy nghĩ trăn trở về con đường sáng tạo nghệ thuật khá gây ấn tượng:

như ngừời xuyên rừng nhãng bước chân đi

 cứ chăm chăm phát cây mở lối

 gánh nặng là chữ

 mồ hôi là chữ

 đói bụng là chữ

 buồn vô ngôn

 giấc mơ chữ.

Cả một đời gửi thân, gửi hồn cho Chữ, để rồi trên con đường tìm tòi gian khổ đó, có những lúc vướng nỗi băn khoăn về “ giấc mơ chữ ” - bây giờ đỉnh núi là chân núi và ngược lại - cái băn khoăn về những nghịch lý sáng tạo, nghịch lý mà nhiều thế hệ nghệ sĩ từng day dứt. Sự dao động trong tư tưởng thẩm mỹ, trong tư duy sáng tạo luôn hiện hữu trên con đường đi tìm cái mới của người nghệ sĩ, nhưng chân  lý tìm được là khi anh trở về nguồn cội về với mẹ - quê hương, lên đến đỉnh đừng quên chân núi… tôi biết sự an ủi dưới chân núi ngôi nhà bé nhỏ… mẹ tôi nằm. (Trường đoạn Chân núi).

Chính quan điểm sáng tạo đó làm sườn cho bản trường ca gan ruột này của anh! Ấn tượng chung sau khi đọc trường ca là niềm vui cảm nhận được tiếng nói trung thực của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại, cũng như sự sung sức của một hồn thơ luôn đổi mới. ..

01-2013

H.Q

(*)  Thơ Thanh Thảo- Giải thưởng Hội LHVHNT năm 2012

Giá trị mỹ học của trường ca chân đất, thấp từ đầu đến chân

Nguyễn Hoàng Đức

Tết thời mở cửa thị trường chúng ta có ê hề rượu thịt. Rượu thì không chỉ là thứ nút lá chuối hay chanh hoặc lúa của quốc doanh mà có cả rượu vang, rượu Tây, rượu Tầu; còn thịt thì đã chạy qua khỏi hàng rào ba lạng tem phiếu trở thành thịt xông khói, thịt muối, thịt xay… nhưng chỉ có điều mâm tiệc văn hóa của chúng ta vẫn chỉ có lèo tèo mấy vần thơ và giải thơ mậu dịch. Chẳng lẽ chúng ta không có gì nhắm sao? Chẳng lẽ tâm hồn chúng ta lại chịu nghèo nàn khi vẫn muốn cố thủ trong vài mẩu tem phiếu? Giải văn chương 2012 của Hội Nhà Văn chắc hẳn nếu có nghèo về dinh dưỡng mỹ học thì vẫn xứng đáng là tốp cao nhất của sự kiện.Khi những giải thưởng văn học chào đời, chẳng lẽ chúng phải chịu rơi vào quên lãng? Không, một cách rõ ràng đó là bài học cho chúng ta cố gắng phấn đấu hoặc chí ít nó phải là sự kiện để chúng ta được bàn thảo. Vì thế, dù chẳng có tư thù gì với nhà thơ mậu dịch Thanh Thảo, qua tết buồn lặng vì chẳng có đồ nhắm văn hóa, trong nền văn chương tép riu, chỉ có tác phẩm bé và vừa, vì thế, tôi thấy cần phải đem nhắm thơ Thanh Thảo, cho đời sống văn học thêm huyên náo vui tươi. Ở đời diều muốn bay lên cao thì phải gặp gió lớn, muốn bay cao hơn nữa thì phải đóng tầu bay… Vì thế nếu ông Thanh Thảo có bị tí gió xoay tí chút cũng nên vui vẻ thôi, với lối nói vần vèo lười biếng kiểu nông nhàn người Việt, các ông đã hưởng bao nhiêu bổng lộc và vinh quang, nay có phải chịu gió một tẹo, thì hãy cố lên nhé! Trước tết tôi đã có bài “Thơ Thanh Thảo – Chuyên gia nước ốc trường ca, cỡ vạn người làm”. Đó là cách bàn cụ thể vào thơ. Hôm nay tôi xin bàn vào Trường ca chân đất, với những nội dung mỹ học bằng những thước đo nền tảng nhắm đến những giá trị xác tín nhất. Nhân đây tôi cũng nói, sau bài viết của tôi về nạn đạo văn của nhà thơ Phạm Đương, mấy người tổ nhóm cả Thanh Thảo, Phạm Đương lẫn Văn Chinh có bám vào một comment có tên là Nguyen Do, một người không phân biệt nổi từ Odyssey và Ullysse là hai cái tên khác nhau (cho dù của một người hay nhiều người), đủ thấy trình độ của họ yếu kém cỡ nào?! Hôm nay, tôi xin bàn về chữ nghĩa, mời vị nào thích khoe chữ dạng comment - com mủng, nếu có giỏi thì viết hẳn một bài đáp trả để mọi người được ngắm nghía và học hỏi sự cao thấp đàng hoàng.

1- Trường ca chân đất là một sự nhập nhèm giữa danh từ chung và danh từ riêng.

Tên gọi của một tập thơ là hết sức trọng đại, giống như bố mẹ muốn đặt tên cho con, hay quốc hội của một nước chọn tên cho quốc gia. Tên gọi chúng ta còn gọi là Sa-pô ( Chapeau ), theo nghĩa tiếng Pháp là mũ, nón, chóp, tức là phần cao nhất, mở đầu của bài viết. Cái tên coi như chính minh thư với tên chính danh của con người cũng như tác phẩm. Vì thế nó biểu hiện trí tuệ cao nhất. Mọi thứ sang quí như vương miện, triều thiên, vòng nguyệt quế người ta thường đội lên đầu để tôn vinh bộ phận cao nhất của cơ thể, cũng là bộ phận quí giá thông minh nhất với bộ tham mưu ở trên đầu.

Nhưng than ôi, tên gọi của Thanh Thảo lại là “Chân đất”, vì nó nhẹ cân quá, lại chẳng có hàm lượng gì, nên TT phải ghép nó vào một cụm với hai từ thuộc danh từ chung là trường ca, để cho nó đủ oai, và đủ hàm lượng. Việc làm này không khác gì một người làm thuyền thúng muốn cho oai đã lấy tên “chiến hạm thuyền thúng”. Việc lấy tên là tùy tự do của mỗi người, nhưng người lấy tên đó muốn ám chỉ và dẫn dắt mọi người suy nghĩ: thuyền thúng của tôi không phải bé như cái nong đâu, mà nó là một chiến hạm cơ đấy.

2- Chân đất là một từ trống rỗng vô ích

Một từ nói vu vơ có thể vô nghĩa, nhưng một từ đã đi vào văn bản văn học không được quyền vô nghĩa, bởi vì chữ nghĩa của văn bản phải là chữ viết của người có học. Người đời vẫn nói “chân cứng đá mềm” có nghĩa đôi chân của một con người can trường còn cứng hơn cả đá, đôi chân đó đã trèo non lội suối để làm nên những cuộc hành trình gặt hái bao ý nghĩa và vinh quang. Người Việt nói “tay dao, tay thớt”, có nghĩa là bàn tay đó có phương tiện để thái rau chặt thịt. Có một định nghĩa rất hay “con người là một động vật biết dùng phương tiện”. Theo đó tay dao tay thớt của người ta còn sang quí và ý nghĩa hơn “chân đất” loại chưa có phương tiện gấp ngàn lần.

Người Việt còn nói “chân đất mắt toét”, có nghĩa là thứ chân không có giầy dép để đi xa, thì chỉ loanh quanh bờ bụi, ra ao kỳ cạch tắm rửa, để rồi mắt toét mà thôi. Người Việt còn nói:

Thế gian chuộng của chuộng công

Nào ai có chuộng người không bao giờ

Kẻ không có của thì phải có công, vậy mà loại đi chân đất thì có thứ của gì? Đám đầu đường xó chợ Việt Nam vẫn thường nói giọng bất cần của đại ca “tao ngồi bệt rồi, làm sao ngã được nữa mà sợ?!” Với thứ chân đất, có phải TT cũng nói giọng giang hồ, nào “thấy mẹ”, nào “cứt” với “đếch” lại cả giọng tự hào: chúng ta không xây Vạn Lý Trường Thành nhưng vẫn sống bình an.

Người Việt coi đám “vô sản” tứ cố vô thân chẳng là gì, nên họ vẫn nói “trên răng dưới dái”, nhưng thấy câu này không được thanh nhã lắm, nhiều người đã nói chệch đi “trên răng dưới dép”. Đằng này trường ca của TT là kẻ chân đất thì nó nghèo chẳng có nổi dép mà đi, lấy đâu ra lòng tự trọng? mà bàn về chân trời góc bể của những khát vọng và hành trình chinh phục? vì thế mà nhân vật chẳng có hành động nào để xây dựng cuộc sống và quê hương, đành ngồi bệt gãi háng văng cứt, văng đếch để thành trường ca trống rỗng ca ngợi quê hương bằng khẩu khí du đãng.

3- Chân đất không thể nào mọc cánh khát vọng

Thi ca là hiện thực lý tưởng! Vì thi ca nằm trên giấy chứ không hiện diện ngoài đời. Trong thần thoại Hy lạp người ta đã thể hiện khát vọng muốn bay và thèm khát ánh sáng chân lý của cậu bé Icarus . Cậu và bố đều được gắn cánh lên vai bằng sáp để bay qua biển với lời dặn rằng chớ có bay cao mà mặt trời sẽ làm chảy sáp. Nhưng Icarus khi bay hưng phấn quá, cậu quên mất lời dặn dò, và cứ nhắm lên phía mặt trời để bay vút cao, nào ngờ càng lên cao càng nóng, nắng mặt trời đã làm chảy sáp, cánh rụng lả tả, và cậu Icarus rơi xuống biển, như một hy sinh cho khát vọng của con người. Vậy còn bác Năm trì của TT với chân đất thì bay đi đâu, hay bác chỉ ngồi gãi háng nghê nga vài câu mỹ học quê mùa? Một đàn ông chưa nói đến phương tiện, đôi dép chẳng có mà đi, chắc chỉ có thể hái lượm hay chờ sung rụng, vậy mà HNV lại ca tụng bác gãi háng đó vì quê hương đất nước thì cũng thật tài thánh? Họ có thể biến nước ốc thành nước sâm chỉ nhờ con dấu và nhóm lợi ích?

4- Chân đất biểu tượng quá thấp

Theo triết học Platon, thì mỗi cơ thể trên người đều liên quan đến biểu tượng. Đầu thì biểu tượng cho bộ tham mưu hay chính phủ, tim biểu hiện cho tình cảm hay danh dự… Trong cơ thể “chân” biểu tượng cho bộ phận thấp nhất cơ thể. Vậy mà chân lại còn “chân đất” thì là kịch đường của sự vô nghĩa. Người Việt xưa mù chữ nhưng còn biết nói câu “L… sành ghe đá”, có nghĩa là một danh từ đã kèm theo một tính từ. Đằng này “chân đất” chẳng hề bầy ra tính từ nào cả mà chỉ định khoe sự trần trụi vô sản của đôi chân… Trời ơi, không còn gì thấp hơn và trống rỗng hơn thế! Vì sự trống rỗng đó mà TT phải ghép chặt vào danh từ chung “Trường ca”, coi như “chiến hạm thuyền thúng”… ?

Từ chân đất mắt toét, chúng ta có thể có một định lý đảo: mắt toét chỉ có thể là chân đất. Thanh Thảo là nhà thơ đàn anh của lớp chống Mỹ mà yếu kém như vậy, làm thơ cả đời vẫn chỉ tụt từ đầu xuống chân đi đất… Rồi được cả ban giám khảo chấm cho được giải cao nhất, đúng như phương ngôn “kẻ mù dẫn kẻ mù thì cả hai đều rơi xuống vực”. Mấy đàn em mỹ học mắt toét chấm thì được giải gì ngoài mắt toét? Tôi xin đưa ra lời mời lịch lãm: đề nghị các thành viên của ban giám khảo, ai có giỏi thì viết hẳn một bài cả trích thơ 1000 chữ trở lên với sự chỉ ra giá trị mỹ học, thì trong 2 ngày, tôi sẽ viết đáp lời, và viết một trường ca có nhân vật đàng hoàng ít nhất là hay hơn Thanh Thảo với sự chỉ dẫn từng chỗ một giá trị mỹ học.

Đã đến lúc chúng ta nên nói thẳng với nhau: Các nhà thơ lớp chống Mỹ và cả sau đó đã làm được một việc lớn là hành quân cùng dân tộc làm nên một cuộc trường kỳ kháng chiến thắng lợi. Nhưng giờ đây, trong hòa bình, các anh và các em theo sau đã không thể có đủ trình độ để làm nên cuộc kiến thiết nền văn minh trong hòa bình. Trong kháng chiến chúng ta có nhiều sư đoàn lớn đánh lớn thắng lớn. Trong hòa bình chúng ta có những tổng công ty lớn đã và đang thất bại, rồi đang chờ cơ cấu lại. Vì sao? Vì chcungs ta thiếu trình độ và sự trong sáng của tâm hồn! Còn nhà văn, với đa số câu từ vần vèo là các nhà thơ tem phiếu bao cấp đã và đang chưa bao giờ xứng tầm để mon men đến dự án xây dựng đường xá, thành quánh và các công trình văn minh cả. Không tin mọi người hãy nhìn xem, ở thế kỷ 21 rồi, các anh không chỉ tay trắng về văn hóa mà còn đi chất đất lè lè thì đến bao giờ mới có được dự án để tác thành những công trình văn minh đồ sộ.

Vậy xin các anh hãy xếp bỏ một chút thói quen ăn tem phiếu cân lạng lèo tèo để chỗ cho những người có thể xây dựng những công trình lớn! Về mặt lợi ích nhóm, và phong bì cũng như đầu tư viết lách hay giải thưởng kể ra các anh đã vượt qua tem phiếu lâu rồi, giờ chỉ còn chút xíu bịt cửa, xếp hàng phát xin – cho trong giá trị sáng tạo nữa thôi, nếu các anh ráng một chút có thể cũng bỏ được.

Xin cám ơn và đợi chờ những nhà thơ mỹ học tem phiếu lèo tèo đáp trả!

NHĐ 14/02/2013

Tác giả gửi cho NTT blog 

 

 

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574158

Hôm nay

273

Hôm qua

2322

Tuần này

21704

Tháng này

221215

Tháng qua

130677

Tất cả

114574158