Nghệ thuật hội họa là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là sự phản ánh thế giới khách quan, tự nhiên và các quan hệ đa dạng của đời sống. Sự sáng tạo nghệ thuật tạo nên các giá trị nghệ thuật có sức tác động vào tư tưởng, tình cảm của mỗi cá thể. Nghệ thuật hội họa cũng như khoa học, triết học đều phản ánh hiện thực khách quan.

Nhưng khoa học, triết học phản ánh hiện thực bằng khái niệm, còn nghệ thuật hội họa phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Có thể nói, hội họa sử dụng những phương tiện truyền cảm đặc trưng để xây dựng hình tượng nghệ thuật trên một mặt phẳng, nhưng không phải vì thế mà hội họa không phản ánh được những hình khối của thế giới hiện thực mà trái lại trong các tác phẩm hội họa chúng ta vẫn thấy được “ Những cái không thấy được”, những hình khối cuồn cuộn, những chiều sâu thăm thẳm trong thế giới nội tâm một cách có hình, có sắc, đồng thời thấy được cả những đặc trưng bên ngoài của sự vật và hiện tượng tạo nên sức mạnh to lớn của ngôn ngữ hội họa, gây được những xúc cảm thẩm mỹ làm rung động lòng người. Đều đó làm cho nghệ thuật chân chính có sức truyền cảm to lớn, tác động vào tình cảm, tư tưởng và ý chí của mỗi con người. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay luôn là là nguồn cảm hứng và là đề tài của văn hóa nghệ thuật : Thơ ca, văn học, âm nhạc…Trên cơ sở phát huy bản sắc riêng của nền nghệ thuật Việt Nam, các tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại đã xây dựng thành công hình tượng người phụ nữ Việt Nam điển hình mang cái chung trong cái riêng, cái trừu tượng trong cái cụ thể, có tính chất điển hình về nhân vật và khung cảnh trong một giai đoạn lịch sử của đất nước, mang đậm tính dân tộc được thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật hội họa qua bàn tay tài hoa và sự nghiền ngẫm, chiêm nghiệm cuộc sống của các họa sĩ.
“ Muốn thưởng thức về nghệ thuật, trước hết phải có khả năng cảm thụ nghệ thuật.” Nghệ thuật hội họa sử dụng ngôn ngữ đặc trưng để thể hiện cái đẹp, như là tiêu chí về thẩm mỹ cho mọi người trong cuộc sống, trong đó bộc lộ ý tưởng, cảm xúc riêng của người họa sĩ trong quá trình sáng tác xây dựng tác phẩm. Với ngôn ngữ tạo hình, đường nét, hình khối, đậm nhạt , màu sắc…Và bằng cảm nhận riêng của mình để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật, mỗi hình tượng đều là điển hình hóa cái đẹp trong cuộc sống và trong thiên nhiên. Qua những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm đã giúp cho người xem cảm nhận được cái hay, cái đẹp, cái chân lý trong cuộc sống. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của họa sĩ Tô Ngọc Vân và nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam là tác phẩm: “ Thiếu nữ bên hoa huệ ” - 1943. Tranh vẽ một cô gái thị thành đang ngắm nhìn vẻ thanh khiết của những bông hoa huệ. Hình tượng cô gái trong dáng ngồi uyển chuyển dàn gần kín mặt tranh, cách sắp xếp làm nổi bật chủ đề và tạo nên một bố cục chặt chẽ, những điểm tập trung là nét mặt, bàn tay và bông hoa đều được diễn tả sâu thu hút sự chú ý vào trọng tâm bức tranh. Tác giả đã thể hiện kết cấu hình đồng tâm, được cấu tạo bởi các yếu tố theo các qui luật nhịp điệu tạo hình: Sự vận động, sự hài hòa về hình và màu. Cách diễn tả được tinh giản, chú trọng các hình mảng lớn. Màu sắc trong tranh dịu dàng, hài hòa gây được cảm hứng cho người xem. Điểm đặc sắc của tác phẩm là đã thể hiện được những nét đẹp và duyên dáng của một thiếu nữ Hà Thành thời trước: Thanh nhã, sang trọng nhưng gần gủi. Đây cũng là vẻ đẹp chung của người con gái Việt Nam vốn dịu dàng, mềm mại và thanh khiết. Các hòa sắc trắng và xám của tà áo dài, màu hồng của sắc mặt thiếu nữ, màu xanh lam của bình hoa kết hợp với đen nâu và khoảng tối đã tạo nên một hòa sắc tươi dịu, hài hòa đầy sức mỹ cảm, thể hiện được nét đẹp thanh lịch và tâm hồn người con gái Việt Nam.
Tiếp thu những kinh nghiệm và truyền thống của Mỹ thuật Châu Âu , trên cơ sở kế thừa một nền nghệ thuật dân tộc lâu đời với hàng ngàn năm văn hiến những thế hệ họa sĩ hàn lâm đầu tiên như : Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu…đã tìm tòi và khắc họa hình tượng người phụ nữ bằng những tình cảm sâu đậm với vẻ đẹp dịu dàng, chân thực, thuần khiết cho chúng ta cảm nhận những cảm xúc tươi dầy về họ như các tác phẩm: “ Gội đầu, Hai thiếu nữ trước bình phong…” - Trần Văn Cẩn; “ Thiếu nữ bên cây phù dung, Thiếu nữ bên hồ sen… ” - Nguyễn Gia Trí; “ Hạnh phúc” - Phạm Gia Giang ;…Do quan điểm và xu hướng sáng tạo của nghệ thuật bấy giờ nên hình tượng người phụ nữ chỉ ở trong những ý niệm đầy chất thơ với những hình ảnh đài các, thượng lưu, mơ mộng và huyền ảo. Vì vậy đối tượng phản ánh trong nghệ thuật được “ Lý tưởng hóa” dưới con mắt của nghệ sĩ. Đặc điểm thủ pháp và ngôn ngữ tạo hình chịu nhiều ảnh hưởng của mỹ thuật phương Tây với xu hướng hiện thực lãng mạn cổ điển. Có thể khẳng định, những thế hệ họa sĩ đầu tiên đã có những đóng góp lớn lao trong việc xây dựng và đặt nền móng cho một nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Cách mạng tháng 8-1945 thành công, dân tộc ta bước vào hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, theo lời Đảng gọi tầng lớp văn nghệ sĩ lại thâm nhập vào thực tế cuộc đấu tranh của dân tộc, dùng vũ khí là những phương tiện ngôn ngữ hội họa để cổ vũ, tuyên truyền, động viên mọi người và đã khắc họa được chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với những tác phẩm mang đậm nét sử thi và hoành tráng.
Tác phẩm: “ Trái tim và nòng súng” -1963. Vẽ về đề tài đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam, tác giả đã vận dụng thủ pháp tương phản về hình mảng và màu sắc để xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ. Toàn cảnh bức tranh là khung cảnh rất điển hình, tương phản mạnh : Một bên là sự sống và một bên là cái chết; Một bên là sức sống sôi sục và một bên là sự lãnh lẽo vô hồn; Sự tương phản giữa trái tim màu đỏ và nòng súng màu đen. Bức tranh được nhuốm đỏ bởi một màu đỏ truyền thống của chất liệu sơn mài, trong đó tất cả các sắc độ của màu đên chỗ thì gay gắt, chỗ thì xám xịt. Phải chăng toàn bộ bức tranh toát lên một sức mạnh ? Một sức nóng có thể thiêu cháy kẻ thù, nhưng cũng có thể là ánh lửa tàn bạo từ những nòng súng đen ngòm mà kẻ thù đã dội lên làng xóm. Có lẽ màu đỏ đó cũng là màu máu của bao nhiêu con người vô tội đã thấm đẫm mảnh đất quê hương.
Trong bức tranh, tác giả đã đưa ra hai nhóm nhân vật đối lập: Một bên là những người phụ nữ kiên cường, vây kín khẩu pháo, một phía là nhóm lính Mỹ ngụy đang lùi dần, chính giữa bức tranh là hình ảnh của một người phụ nữ đang ngồi trong tư thế vững chắc vươn ra phía trước vẻ thách thức, lưng chắn ngang nòng pháo, đôi mắt rực lửa nhìn về phía tên lính Mỹ. Phía bên phải có một tên lính Mỹ to lớn có dáng vẻ hung dữ, dọa nạt nhưng tư thế lại không vững chắc, hơi ngã về phía sau, tay cầm khẩu súng ngắn nhưng nòng súng chúc xuốn đất, tay buôn thỏng thể hiện sự khiếp sợ và bất lực..Với tư thế này tên lính chỉ có bước lùi dần, khiếp sợ. Như vậy, thông qua thủ pháp tương phản tác giả đã mô tả sức mạnh và khí thế tiến công, thắng lợi thuộc về những người phụ nữ kiên cường. Với tác phẩm “Trái tim và nòng súng” - Huỳnh Văn Gấm, đã nêu bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vẻ đẹp tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam. Bức tranh phản ảnh hiện thực cuộc chiến tranh tàn khốc nhưng lại mang ý ngĩa nhân văn sâu sắc: Nững người phụ nữ tưởng chừng như mềm yếu nhưng lại rất kiên cường, bất khuất, sắn sàng hy sinh thân mình để ngăn chặn tội ác, mang lại yên bình cho xóm làng, quê hương.
Ở một góa độ khác, hình tượng người phụ nữ được họa sĩ Nguyễn Phan Chánh khắc họa với nét đẹp dời thường, một vẻ đẹp thuần khiết, đầy đặn cả về hình thể và tâm hồn. Tác phẩm “ Sau giờ trực chiến ” được sáng tác vào những năm chống Mỹ và xây dựng CNXH ở miền Bắc. Trong bức tranh tác giả đã thể hiện hình ảnh một người phụ nữ nông thôn, một nữ dân quân vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu đánh máy bay Mỹ bảo vệ sự bình yên cho xóm làng. Bố cục người phụ nữ được thể hiện cận cảnh, chiếm một mảng lớn ở trung tâm bức tranh cho chúng ta cảm nhận hết sức rõ ràng cái vẻ đẹp căng đầy khỏe mạnh, tiềm ẩn trong vóc dáng được nai nịt gọn ghẽ, vẻ đẹp khỏe mạnh còn được thể hiện qua khẩu súng khoác trên vai, cái khỏe trong tinh thần của người lính. Thương cho đất nước trãi qua nhiều năm chiến tranh khốc liệt đến người phụ nữ chân yếu tay mềm cũng phải cầm súng để bảo vệ quê hương. Với chất liệu mềm mại của tranh lụa tác giả đã khéo léo tạo nên người phụ nữ một cái duyên thầm kín, rất tinh tế trong động tác tay vén ống quần khi rửa chân trở về nhà sau giờ trực chiến. Đồng thời, bức tranh còn thể hiện tình cảm mẫu tử thiêng liêng giữa hai mẹ con trong một khoảng khắc thanh bình của chiến tranh. Người mẹ súng khoác trên vai đang rửa chân với vẻ vội vàng nhưng mắt vẫn nhìn đứa con với vẻ trìu mếm và yêu thương.
Mỗi họa sĩ trong sự tìm kiếm khát khao vươn đến những giá trị đích thực của nghệ thuật đều có những bút pháp và ngôn ngữ tạo hình riêng biệt. Đó là tác phẩm: “ Tát nước đồng chiêm ” - Trần Văn Cẩn ;“ Mùa gặt ” - Dương Bích Liên ;“ Chị du kích Tây Nguyên ” - Đường Ngọc Cảnh ;“ Nữ dân quân vùng biển” - Trần Văn Cẩn; “ Điệu múa cổ” - Nguyễn Tư Nghiêm; “ Thiếu nữ cầm quạt” - Bùi Xuân Phái; “ Cái bát” - Sĩ Ngọc; “ Mẹ” - Phạm Đỗ Đồng; “ Suy tư ” - Nguyễn Văn Chung; “ Kỷ niệm Trường Sơn” - Phạm Ngọc Doanh; “ Đi lễ Chùa” - Vũ Thụy; “ Khóc thầm” - Bửu Chỉ;…
Môtip người phụ nữ được các họa sĩ khai thác trong muôn mặt của đời sống xã hội với tình cảm yêu mến, cảm thông của tác giả gắn với mỗi thân phận cá nhân trong đời thường khi đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, đó là những người phụ nữ đầy u buồn, trầm mặc khi đối diện với những cái bi thương mất mát của cuộc chiến khi chồng con hy sinh, trong khóe mắt hằn sâu khắc khổ là những giọt nước mắt của người mẹ, người vợ. Đây cũng là sự hy sinh lớn lao của người phụ nữ Việt Nam và cái bi thương của chiến tranh còn ám ảnh lên những thân phận người phụ nữ sau ngày hòa bình thống nhất đất nước. Đó còn là những bước chân nhọc nhằn ngoài ruộng đồng êm ả, các bến đò, bến chợ, đến những công trường, xí nghiệp, công xưởng…cho đến những vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ hiện thân của tạo hóa cũng được vẽ nhiều hơn không còn là điều cấm kỵ như trước, tất cả đều được khắc họa thành những hình ảnh điển hình. Hình tượng người phụ nữ được xây dựng mang đậm tính dân tộc, tính nhân văn và mang rõ dấu ấn của thời đại, đóng góp và làm phong phú cho phong cách mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XX, thể hiện qua sự đa dạng về cách khai thác đề tài và chất liệu của các tác phẩm: “ Cô giáo miền cao” - Thanh Ngọc; “ Công nhân dệt”- Trần Huy Oánh; ;“ Mẹ liệt sĩ” - Lê Thị kim Bạch; “ Thiếu nữ chờ chồng” - Nguyễn Sáng; “ Vườn xuân Bắc Trung Nam” - Nguyễn Gia Trí; “ Thiếu nữ” - Hà Văn Chước; “ Hạnh phúc vàng ” - Đào Quốc Huy; “ Đợi ” - Lê Huy Tiếp; “ Niềm vui của bà” - Nguyễn Thị Nhung; “ Mùa suốt lúa” - Ynhi Ksok; “Giấc mơ của thiếu nữ” - Lê Ngọc Tường; “Khỏa thân” - Nguyễn Ngọc Quân; “Hai cô thôn nữ” - Hà Trí Hiếu;“Thiếu nữ” - Nguyễn Quân; “Cô gái” - Lê Thư; “Miền quê Kinh Bắc” - Nguyễn Nghĩa Duyệt; “Gấm xanh và khăn choàng” - Đỗ Quang Em; …
Qua một số tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại cũng đã khắc họa được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: Dịu dàng và nữ tính, yêu quê hương, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang…Thực tiễn của hoạt động nghệ thuật đã cho thấy những tác phẩm nghệ thuật nào có nội dung nhân văn cao cả, có nội dung tư tưởng mang tính thời đại, tính dân tộc là những tác phẩm “ Sống mãi với thời gian”, có tác dụng giáo dục tốt, hun đúc các giá trị đạo đức cho con người và giữ gìn các giá trị văn hóa sẽ là những tác phẩm có sức cuốn hút mãnh liệt đem lại cho mọi người những xúc cảm thẩm mỹ sâu sắc.
Có thể nói với sự thành công về hình tượng người phụ nữ, các nghệ sỹ tạo hình dã phản ánh được một số vấn đề quan trọng của cách mạng văn hóa Việt Nam, đó là sự nghiệp giải phóng phụ nữ.Trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, hình tượng người phụ nữ là một hình tượng đẹp với nhiều phẩm chất đáng ngợi ca, là nguồn cảm hứng được nhiều họa sĩ dành những tình cảm trân trọng và thiêng liêng nhất để thể hiện thành công với nhiều chất liệu phong phú khác nhau. Các họa sĩ đã miêu tả nét hài hòa chân thực, dịu dàng và tinh tế ở người phụ nữ. Họ đẹp không chỉ ở hình thức bên ngoài mà còn ở trong thế giới nội tâm kín đáo, đức hạnh theo quan niệm phương Đông không bộc trực mãnh liệt. Sự hy sinh, sức chịu đựng của người phụ nữ đã được đề cập tới mức độ sâu sắc khác nhau, biểu hiện một đặc điểm, tính cách, phẩm chất, tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Số phận của người phụ nữ gắn liền với biến chuyển lịch sử của xã hội, luôn đồng hành với dân tộc, với ý thức trách nhiệm và sự hy sinh lớn lao. Mỗi một hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm vừa là sự phản ánh hiện thực khách quan, vừa biểu lộ lập trường, quan điểm thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Bằng những tác phẩm của mình, những họa sĩ đã đóng góp một phần vào sự nghiệp cách mạng cua dân tộc, góp phần trong vấn đề giáo dục tư tưởng, tình cảm, xây dựng phong cách thẩm mỹ mới phục vụ đông đảo nhân dân lao động.
Vì vậy trách nhiệm của những người làm công tác nghệ thuật, người giáo dục thẩm mỹ, người mang lại cái đẹp cho quần chúng rất nặng nề, lớn lao. Cần phải xem giáo dục thẩm mỹ như là món nợ lớn đối với thế hệ trẻ, góp phần bồi dưỡng tình cảm nhân văn chủ nghĩa cao cả và nhu cầu tự hoàn thiện về thẩm mỹ.
Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay, mỗi khi nhìn lại một chặng đường phát triển của mỹ thuật hiện đại Việt Nam, chúng ta đều cảm thấy tự hào với nền mỹ thuật dân tộc, đồng thời cảm nhận được trách nhiệm lớn lao của một thế hệ trẻ đầy bản lĩnh và tài năng sẽ đưa nền hội họa Việt Nam đương đại lên một tầm cao mới. Để nghệ thuật luôn luôn được nuôi dưỡng và phát triển cần có sự tiếp nối của thế hệ. Chúng ta có thể kỳ vọng vào lớp trẻ ngày nay trong thời kỳ mở cửa, hòa nhập vào cộng đồng văn hóa khu vực và Thế giới sẽ xây dựng được những hình tượng người phụ nữ với vẻ đẹp cốt cách người Việt Nam: Đôn hậu, thanh lịch, năng động…với những phẩm chất vẻ đẹp, tâm hồn người phụ nữ Việt Nam đương đại. Đây sẽ là sự tiếp nối quan trọng của thế hệ và là thước đo duy nhất cho sự phát triển tinh thần của dân tộc Việt Nam.