“Cái vô hình” mà Giáng Vân thực sự theo đuổi, có khi là cảm nhận của riêng chị về bản chất của tồn tại và cuộc đời:
Chảy tuôn/ Và biến tấu không ngừng/ Không thể lường được đường đi của gió/ Không thể lường được/ Những cơn bất thường của sông/ Dù ngày mai sông cạn… Chảy tuôn/ cho đến khi không thể (Chảy tuôn)
Cảm xúc trong trong bài thơ không bộc lộ ra bằng những từ ngữ thông dụng (yêu, ghét, nhớ, buồn đau…) mà lặn sâu trong cách nhà thơ đúc kết về những bước đường, nông nỗi, bất ngờ của cuộc đời, thông qua các hình ảnh quen thuộc: đường đi của gió, bất thường của sông. Người nào đã trải qua những uẩn khúc quanh co của cuộc đời và lòng người, mới cảm nhận được cái thảng thốt và đau xót, trĩu nặng... ẩn giấu trong những ý thơ tưởng chừng dửng dưng, đơn giản ấy. Cũng như cảm nhận được sự cháy sáng và nồng nhiệt trong vẻ ngoài bình thản. Bài thơ bộc lộ một khao khát, cũng là lý tưởng thẩm mỹ của người viết: Coi cuộc đời, tồn tại, như một khát vọng, với cả sự hữu hạn cũng như bất thường của nó, mà trong đó, để vượt qua tất thảy cái hữu hạn, chỉ còn một cách là mạnh mẽ và hết mình. Hiểu được những ranh giới của cuộc đời để hào phóng và vượt cao hơn nó, đó là vẻ đẹp lãng mạn, nhân văn, một trong những “điều vô hình” của thơ Giáng Vân.
Có khi, chị đi từ những hạnh ngộ nhỏ bé để soi rọi lại bản thể sâu xa của mình như một con người thực có những quyền năng vô biên:
Người thấm vào tôi/ Cũng theo cái cách không khí thấm vào tôi/ Nước thấm vào tôi/ Làm mới lại một mùa gieo trồng/ Những thứ cây có hương vị vừa đủ mê hoặc/ Ngạc nhiên/ Tôi đứng ngắm nhìn/ Từ trong trái tim sâu có nhiều phiền muộn/ Này phiền muộn người bạn trung thành của ta ơi/ Con người kia có là ta không?/ Con người kia so với ta có gì hơn không?/ Trên cao/ Những con đường rộng mở… (Một ngày)
Trạng thái phi thực từ việc đồng nhất hóa bản thể với những yếu tố tự nhiên (nước, không khí, mùa, Người- chỉ tự nhiên…) dẫn dụ người đọc đến với một bản thể khác cao hơn cá nhân, mạnh mẽ, có khả năng thấu suốt, với một không khí huyền bí có thể chạm tới cái kỳ diệu của tâm linh.
Nhà thơ sẵn lòng xóa đi con người đang tồn tại của mình để trở thành những hiện thể khác, trong sự chuyển hóa kỳ lạ:
Một cái ống hun hút/ Cuốn tôi vào biệt tăm/ … Tôi thả mình rơi thong thả/ Không gì bực dọc/ Chỉ rặt những vu vơ/ Tôi/ Hóa ra những vụn vỡ nhỏ li ti/ Hạt giống của loài hoa cỏ/ Có thể nảy mầm rất nhanh/ Một sáng thôi/ Làm ngập tràn sự thanh khiết (Biến hóa)
Cái bất ngờ, ngay tức khắc, kỳ diệu… từ sự giác ngộ của người biết buông bỏ những cảm xúc nhất thời, mang lại niềm an ủi hay diễm phúc của cái đẹp trong mọi sự vật nhỏ nhoi, tầm thường: bông cỏ, nhành hoa, và nhìn rõ những sự vật tầm thường, tưởng như không thể an ủi nổi dù chỉ một tâm hồn phiền muộn ấy, như những sức mạnh vô song trong một hệ giá trị khác.
Giáng Vân ý thức về “vô ngã” như một cách để tới gần hơn với bản chất vừa muôn mặt vừa nhất thể của đời sống:
Tôi thả tôi vào ánh sáng/ Ánh sáng tràn ngập tôi/ Tôi/ Trở thành vật thể nghiệm được nhuộm ánh sáng/ Tôi phát sáng từ những huyết quản/ Tôi/ Quên tôi đi/ Như chưa từng có… Tôi- Không gì cả/ Đồng nghĩa với tôi tuyệt đối/ Những đối cực không loại trừ nhau/ Những cú phanh gấp trở nên vô nghĩa/ Các chiều của thời gian/ Đi ngược nhau/ Quá khứ tôi là tương lai kẻ khác/ Mùa đã chết trở mình trong những cơ thể khác/ Nước mắt thành hoa/ Hoa có lẽ hóa giấc mơ rồi… (Tôi không là tôi)
Nhìn thấy vẻ diệu kỳ của hiện sinh gối tiếp nhau trong một bản chất luân hồi không ngừng nghỉ, nhà thơ đã hiện thực hóa “cái vô hình” của những triết lý trải qua nhiều nghiền ngẫm cao siêu thành cảm nhận máu thịt, trong khoảnh khắc. Cảm nhận dù mong manh nhưng thuyết phục bởi những hình tượng dần biến chuyển từ cảm giác vật chất (phát sáng từ những huyết quản) sang cảm giác siêu hình (không trọng lượng- đồng nghĩa với tôi tự do). Đây không hẳn là sự miêu tả giáo lý nhà Phật bằng thơ, mà là quán tưởng cá nhân của một con người thực sự tin cậy vào bản chất suy tưởng và vô thường của đời sống, để cuối cùng trở về với căn tính khoan dung, nhân ái. Các hình ảnh thơ trong sáng, chuẩn xác, đạt tới cái đẹp hài hòa cổ điển.
Nhà thơ cũng coi tình yêu thương như một bản chất không cần phải lý giải của cuộc đời, và hơn thế, như một vẻ phóng túng cao thượng trong triết lý sống:
Đừng hỏi nước khởi nguồn từ đâu?/ Đừng hỏi tình yêu khởi nguồn từ đâu/ … Hãy chảy đi, chảy đi/ Đừng bao giờ ngoảnh lại/ Nước lên hương ban mai/ Nước mát rượi ban trưa/ Nước dịu dàng chiều hôm/ Khi đêm về hư ảo/ Hãy chảy đi chảy đi/ Và đừng hỏi… (Lời của nguồn suối)
Nhìn thấy “điều vô hình” làm nên bản chất của tồn tại, vượt khỏi những sự kiện, vật thể, giới hạn hữu hình, nhà thơ tự tìm đến niềm hạnh phúc và sự viên mãn của “cái tôi” trong những điều tưởng chừng như xa lạ, vĩnh hằng, ít liên quan đến tồn tại bé nhỏ của một cá nhân:
Bầu trời này cổ xưa như mặt đất này/ Mảnh đất này nuôi những vòm cây tươi xanh/ Ánh sáng này chứa bao nhiêu triệu năm ánh sáng… Lặng im hát/ Bài hát giữ cho những vẻ đẹp được sống đã được tạo tác như vậy/ Du khách du khách/ Có thể đi cũng có thể quay về/ Có thể hôm nay cũng có thể mãi mãi/ Có thể đây là quê hương tôi… (Viết ở Viên Chăn)
Tự do lựa chọn lấy một “miền tâm tưởng” của con người chính là tự do trong mọi quan niệm, để “mở” những suy tưởng của mình, nhận thấy tính nhất thời và mãi mãi cùng đồng hiện, để thấy trong cái hiện thể chớp bóng, ảo ảnh hôm nay, tan biến ngày mai; vẻ đẹp của sự trường tồn, bền bỉ. Như vậy, con người có thể hoàn toàn hạnh phúc với kiếp sống nhỏ nhoi của mình.
Nhà thơ còn chợt phát hiện ra vẻ đẹp hài hòa, thanh nhã trong những điều thường được bộc lộ như là nỗi đau:
Tôi đang mất dần/ Những câu thơ đòi sống/ Những câu thơ không hình hài/ Đôi khi lướt qua bạn/ Nhưng không đậu lại được/ Tựa như những linh hồn/ Không tìm được chốn hoài thai… (Thơ)
Cái đẹp ở đây nằm ẩn sâu trong tâm thức: thái độ chấp nhận (dù nuối tiếc) và quan trọng hơn, nhìn rõ hình trạng, con đường của nỗi mất mát, cũng vô hình, đang âm thầm diễn ra giữa đời thường, làm cho nó hiện lên bằng hình ảnh chính xác, sinh động, tựa như dải băng tần ghi lại đường điện tâm.
Nhìn ra tính chất đa cực của đời sống bằng tâm hồn nhạy cảm, biết trân quý và sùng kính sự cao đẹp, vô song của Tự nhiên - ở đây có thể xem là Đấng Toàn Năng:
Những bước chân của mùa vang động/ Không nghe theo ai/ Không vì bất cứ điều gì/ Có thể là điềm mộng/ Có thể là ưu phiền và sự chết/ Có thể một điều gì đó đang sinh ra… (Nhìn từ trên cao)
Ít nói trực tiếp đến đau buồn, trở lực, bi thương của cuộc đời, nhưng thơ Giáng Vân cho bạn đọc biết nó được chắt lọc ra từ những chính những điều ấy. Sự từng trải nhiều gian truân, nghịch cảnh của đời sống là một trong những lý do để nhà thơ tiến những bước rất xa quay trở lại với phần thẳm sâu của con người cá thể, riêng tư, suy ngẫm, tìm thấy trong đó triết lý về cái đẹp và triết lý sống đẹp vượt lên trên sự hữu hạn đời người. Thơ Giáng Vân là thơ suy ngẫm và minh triết. Dù nhà thơ không phải người sáng tạo ra những triết lý, nhưng lại thực chứng nó bằng nguồn năng lượng mãnh liệt của tâm trí mình.
*
Hình ảnh trong thơ Giáng Vân hầu hết mượn lại những ẩn dụ quen thuộc của thơ truyền thống: cây, lá, hoa, cỏ, mùa, dòng sông, linh hồn, nước, nước mắt… nhưng trong một ranh giới sâu lắng, cô đọng, tinh lọc, của cảm xúc và suy ngẫm, tạo ra nguồn năng lượng mới xé toang lớp nghĩa hời hợt từng có. Nó trở thành những biểu tượng tập trung căng đầy các tầng lớp liên tưởng, các trạng thái đa cực.
“Mẹ thả từ trời” là một trong số những bài thơ hay nhất của Giáng Vân:
Thỉnh thoảng/ Mẹ thả từ trời/ Một chiếc lá/ Chiếc lá đơn giản/ Hiển nhiên/ Như tình mẹ/ Chiếc lá bí ẩn/ Vẻ đẹp/ Những câu chuyện hoang đường/ Chỉ tồn tại trong cổ tích/ Đấy là ngôn ngữ/ Nối/ Hai thế giới/ Sự sống bất diệt sao/ Sự chết nhẹ nhàng sao…
“Chiếc lá” khách quan, vô tình của đời sống bình thường, lại đương nhiên, dễ dàng được nhà thơ chỉ ra ý nghĩa chủ quan, giá trị tâm thức của nó: mẹ thả từ trời. Cũng theo cách ấy, cái có thực và không thực trộn lẫn vào nhau, biến hóa sang nhau một cách kỳ diệu, từ không thể trở thành có thể, chiếc lá “đơn giản” trong đời thực trở thành tình mẹ “hiển nhiên” và “bí ẩn” như một điều luôn đi liền với sự hiển nhiên đó. Nhắc tới một giá trị, và tức khắc, giá trị cặp đôi của nó lập tức xuất hiện, là mô thức đặc thù trong hình ảnh và ý tưởng thơ Giáng Vân. Giá trị cặp đôi thể hiện cái nhìn vừa lưỡng phân vừa nhất thể trong thơ Giáng Vân, như một sự tuân thủ triết lý Đông Phương, đồng thời là sự hài hòa cân xứng của cái đẹp trong cảm thức.
Không những thế, sự hoán đổi nhau của các cặp giá trị, đến một cách bất ngờ, tự nhiên, dựa trên sự tinh lọc của liên tưởng, đưa ý nghĩa câu thơ đi xa một cách thuyết phục: “sự chết” vốn đau thương và nuối tiếc trở nên “nhẹ nhàng sao”, “sự sống” vốn cực nhọc, khổ ải, mong manh trở nên “bất diệt”.
Kiếm tìm và chạm tới những ranh giới sâu kín của tâm thức, thơ Giáng Vân hoàn toàn bộc lộ tự do, nó cho bạn đọc biết về chủ ý thoát khỏi những thể loại được định hình trước đây, bao gồm cả “thơ tự do”. Để chỉ còn là sự thoát ra tự nhiên của suy ngẫm và quán tưởng. Âm điệu vẫn phản ánh sự thơ mộng của tâm hồn người phụ nữ ưa hài hòa và cái đẹp, nhưng không lệ thuộc nhiều vào những giá trị đó.
Hiếm khi, vượt ra khỏi sự tiết chế khéo léo thường thấy, con người trong thơ Giáng Vân để òa vỡ cảm xúc:
Anh đưa cho em một bàn tay/ Và thương cảm một trời để lại/ Một trời thương nhớ về đâu?/ Cánh chim xa bay vút cuối trời/ Một chấm nhỏ rồi thôi không còn nữa/ Mà linh hồn còn nặng thế này đây... (Linh hồn)
Trò chơi ngôn ngữ cũng xuất hiện, nhưng không phải để phiêu lưu về cảm giác, tâm thức, mà phục vụ cho sự minh giải thế giới:
Tấm áo thời gian trải rộng/ Đủ để bao bọc tất cả chúng ta… (Mê Kông)
Bầu trời/ Mầu xám bạc/ Những đám rơm xám vàng/ Đồng đất mầu nâu ngái/ Còn tôi mầu xám tro… (Ngẫu cảm)
(Những chữ “mầu”, “thỉnh thoảng”… mang đặc thù ít gọt giũa của lời nói chứ không trau chuốt, đem lại cảm giác của tâm trạng bộc phát)
Chơi ngôn ngữ trong thơ Giáng Vân căn bản chưa tạo ra một hệ hình khác. Ngôn ngữ thơ Giáng Vân chủ yếu là ngôn ngữ tân - cổ điển (Narural Classicism)
*
Đọc thơ Giáng Vân cũng tương tự như đọc thơ của một số tác giả hiện thời: Hoàng Ý Nhi, Đinh Thị Như Thúy, Mai Văn Phấn, Vương Ngọc Minh… Nếu đọc một cách thờ ơ, đọc những nội dung được “thông báo”, thì có lẽ bạn sẽ thất vọng trước những câu chữ, hình ảnh tưởng chừng giản đơn đến khô khan, nhiều lúc lộn xộn, rời rạc không theo logic thông thường.
Ngôn ngữ thơ hiện đại không còn là thao diễn cảm xúc, không còn tìm đến những phóng chiếu tương đồng giữa thế giới khách quan và tâm trạng chủ quan của nhà thơ, hay ngược lại; bằng những ẩn dụ. Từ chối những biểu hiện nghệ thuật quen thuộc này, thơ hiện đại gần như một thách thức với lối đọc cũ.
Thơ Giáng Vân nằm trong trường quang phổ của lối thơ hiện đại, với phong cách nhuần nhuyễn, cô đọng, độc đáo, ý nghĩa minh triết giản dị, tự nhiên, mãnh liệt. Dường như, điều còn chưa thật nhiều trong thơ chị là sự bay bổng, hồn nhiên của trí tưởng tượng. Nhưng lại cũng dường như, thơ hướng tới sự minh triết, có gì đó không gần với tưởng tượng bay bổng hồn nhiên?