Có một thế hệ nhà văn được mệnh danh là nhà văn 198X. Họ xuất hiện không hề vô tăm tích. Họ có tên tuổi và gây được sự chú ý của đông đảo bạn đọc, kể cả bạn đọc chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp.
So với các nhà văn lớp trước, nghĩa là các nhà văn sinh thành, trưởng thành chịu sự chi phối bởi nền văn học và tư tưởng cách mạng, các nhà văn thế hệ 198X sinh ra trong thời đại hoà bình đã được lập lại qua một thời gian tương đối dài, xã hội Việt Nam đã thoát khỏi những biến động của chiến tranh, tức là thoát khỏi cảnh cái chết đe doạ, rình rập từng số phận để bước vào đời sống xây dựng hoà bình với nhiều biểu hiện phức tạp của nó. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đang đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, sự đầu tư về cơ sở hạ tầng tỉ lệ thuận với sự xuất hiện và phát triển của các trung tâm kinh tế - văn hoá với các đô thị mọc lên lấn dần và thay thế những vùng ngoại ô còn mang nặng tính làng xã và vẻ yên bình sâu lắng trước đây. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, một mặt đã mang đến sự khởi sắc và nhen lên nhiều hi vọng về những cuộc đổi đời trong tương lai cho một dân tộc, nhưng nó đồng thời lại là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự phân hoá xã hội, đặc biệt là sự phân hóa giàu nghèo. Với sự hình thành và chiếm vị trí quan trọng trong các quan hệ trong xã hội, quan hệ buôn bán đã góp phần gây ra những biến động các giá trị, bào mòn một số những đặc điểm đạo đức truyền thống của người Việt như tinh thần tương thân tương ái, kéo theo sự rạn vỡ của tình cảm đối với đất nước, quê hương, làng xóm, gia đình, vốn đã ít nhất một lần thay đổi trong sự chuyển giao thời chiến sang thời bình. Mọi sự liên kết giữa các cá nhân trong cộng đồng vốn bền chặt dần trở nên lỏng lẻo. Trên tinh thần đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ, sự giao lưu, xâm lăng văn hoá đã dẫn đến diễn trình dân chủ hoá đời sống trên nhiều phương diện, nhất là đời sống con người từ những năm 1980 trở về sau này.
Ở các đô thị, lớp trẻ được sống trong một đời sống tiện nghi với nhiều luồng thông tin đa chiều. Nhịp sống từ “điệu ngâm” của nông nghiệp - nông thôn trước đây đã chuyển sang “điệu nói” của đời sống công nghiệp - đô thị. Họ trở thành đại diện cho một lực lượng sống hối hả, năng động, nhạy cảm và đầy hoài nghi, cô đơn; một mặt mạnh mẽ nhưng một mặt cũng yếm thế và dễ gục ngã.
Các nhà văn thế hệ 198X sinh ra trong môi trường có nhiều thuận lợi, họ được học hành đầy đủ, được đào tạo một cách bài bản và nắm được những công cụ, phương pháp cấp tiến để khai thác, xử lí một hệ thông tin đa chiều, họ nhạy cảm trước mọi biến thiên của thời đại. Thêm nữa, nhìn vào danh sách các nhà văn này, ta thấy nhiều trong số họ đã từng sinh sống, học tập ở những môi trường cấp tiến ở nước ngoài như Ngọc Cầm Dương, Tereza Trần, Lynh Bacardi, Trương Quế Chi, Phan Ý Yên… Điều này cho phép nhận định rằng các nhà văn 198X có mang trong mình họ đời sống không chỉ một nền văn hóa.
Là những người được mang và tiếp thu trong mình một đời sống trên nhiều phương diện là mới mẻ so với cha anh mình, đặc biệt là có một đời sống tinh thần được hình thành trong một đời sống dân chủ còn nhiều khiếm khuyết, các nhà văn 198X đang tìm cách thể hiện cá tính độc đáo non trẻ (nhiều khi còn vụng dại), bản lĩnh (nhiều khi còn dở dang) của mình. Những khát vọng đó lại được tạo điều kiện bởi thời đại thông tin bùng nổ và điều kiện xuất bản, in ấn không còn khó như trước, đặc biệt là sự phổ biến internet với các trang thông tin điện tử, blog cá nhân (hình như mỗi nhà văn thế hệ 198X đều là một blogger theo nghĩa chính xác của từ này). Sự du nhập ngày càng rộn rã của các trường phái lí thuyết về sáng tác và tiếp nhận văn học, sự ảnh hưởng cách tư duy, cách viết của các nhà văn lớn nước ngoài, đặc biệt là phương Tây, đã khiến hành trang bước vào văn lộ của các nhà văn 198X nặng hơn và điều này giúp họ tự tin hơn vào những việc mà họ sẽ làm trên con đường sáng tạo văn học.
Với những thế mạnh,những điều kiện xã hội thẩm mĩ (được thống kê chưa đầy đủ) ấy, các cây bút truyện ngắn 198X đã bằng các sáng tác của mình điểm xuyết một mảng màu lạ trong bức tranh chung của văn học Việt Nam đương đại. Họ đã đề xuất một quan niệm sống mới mẻ. Bằng vốn sống, sự hiểu biết và nhạy cảm nhiều khi đến bệnh hoạn, ở một góc nào đó, họ cảm thấy cuộc sống thật đen tối và luôn dang dở, méo mó. Hầu như trong sáng tác của tác giả nào, những tan vỡ, chia li, bất hạnh cũng được nhắc đến như là một hiện tượng phổ quát của cuộc sống, đó là những Giăng mắc của Phạm Vũ Văn Khoa, Độc thoại trên nhà thờ của Lynh Bacardi… Thảng hoặc ta vẫn gặp những cây bút còn một chút niềm tin, niềm yêu với cuộc đời, và ta vẫn gặp ở họ một cái gì đó êm ái, dịu ngọt, dẫu là dịu ngọt một cách ngậm ngùi và có hơi hướng của vị muối. Nhưng khi nhà văn 198X viết về điều đó, thường là họ viết những câu chuyện đậm chất trữ tình trong hồi ức về một tuổi thơ, về một tình yêu nhẹ nhàng. Và với những câu chuyện như thế, việc thể hiện bản lĩnh và đặc sắc thế hệ có phần kém đi, và văn chương 198X như một thứ sản phẩm lạ sẽ trở nên mờ nhòe trong tâm thức người đọc.
Chính trên quan niệm sống ấy, các nhân vật trong truyện ngắn 198X hoặc để cho nhân vật nương dựa vào nhau cố đi tìm những vẻ đẹp, những giá trị, những niềm hạnh phúc - dẫu nó thật mong manh, như là nỗi ước ao của Ninh trong Trống trải và rộng quá chừng: “Ninh ra đứng ngoài cửa sổ, ao ước giá mà có một tình yêu, có một ai đấy yêu mình, chắc mình sẽ biết cách phải bắt đầu cuộc sống thế nào”. Cố gắng quên bỏ những ấn tượng xấu về cuộc sống, hướng đến một cái gì đó thật đẹp và lương thiện trong thời đại nhiều hỗn loạn và giới trẻ thường hay sa ngã, đó là một nỗ lực đáng được khuyến khích, nhưng tiếc là hiếm hoi, trong truyện ngắn 198X. Tuy nhiên, có một nhược điểm là mỗi khi viết những câu chuyện như thế, các nhà văn trẻ nhiều khi tỏ ra chưa vững vàng trong xử lí tư liệu, tiết chế cảm xúc, và chất “tự lực văn đoàn” là khá rõ. Chính vì điều đó nên người đọc khó tính không tránh khỏi cảm giác đang đối diện với một văn bản nghệ thuật khá hời hợt (tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là phủ nhận những đóng góp tích cực và quan trọng của văn chương Tự lực Văn đoàn cho văn học Việt Nam trong tiếng gọi và cơ hội mà lịch sử đã tạo ra). Một biểu hiện khác trong hành xử của các nhân vật trong truyện ngắn 198X khi gặp những bất hạnh, những trắc trở của cuộc sống là họ trở nên hoài nghi, bế tắc và rơi vào tiêu cực. Họ hành xử theo kiểu bất cần, theo kiểu phó mặc cuộc sống, phó mặc tất cả và nhiều khi rơi vào buông thả. Về mặt này, phải thừa nhận truyện ngắn 198X đã góp một tiếng kêu cứu cho tình trạng bi đát của hiện thực và thân phận tuổi trẻ. Tuy nhiên, có lẽ cuộc sống và văn chương cần ở họ nhiều nỗ lực hơn nữa. Trên thế giới đã có không ít nhà văn tiên cảm được, hoặc cảm nhận được, tri giác được sự cô đơn, lạc loài như là một đặc trưng của thân phận con người hiện đại. Tuy nhiên, khi viết về những điều đó, họ đủ tỉnh táo để, trong khi phơi bày thảm trạng của cuộc sống vẫn mang đến cho người đọc một ý thức hướng đến khát vọng thẩm mĩ cao hơn thế tục. Các nhà văn 198X Việt Nam do chưa hội đủ nội lực nên chưa làm được điều đó. Những thất vọng và tiêu cực trong tác phẩm của họ chỉ cho thấy những tâm sự cá nhân đơn lẻ, mất phương hướng và một góc nhìn nào đó, vẫn có hơi hướng “tự lực văn đoàn” ở giai đoạn tồn tại sau cuối của văn phái này.
Bên cạnh việc thể hiện cái tôi, việc nhận chân hiện thực cũng được một số (không nhiều - đây cũng là một điều đáng phàn nàn) các nhà văn thế hệ 198X quan tâm. Trên phương diện này, các cây bút cố gắng bóc trần những cái nhàu nát, nham nhở và nỗ lực phơi bày những mặt trái, những cái xấu xa của hiện thực, trong đó điều nhà văn quan tâm hơn là lối sống thực dụng, cơ hội, đầy dục vọng và buông thả của lớp người có thế lực (tiền tài hoặc địa vị) trong xã hội, và một bộ phận giới trẻ mà nổi lên trong đó vẫn là nỗi đau về thân phận, về kiếp người. Điển hình của sự thực dục, buông thả đến mất hết nhân tính là hành động của Quang trong Tre rừng (Lynh Barcadi): sau khi kết thúc cuộc yêu, lập tức lật mông bạn tình lên, quan sát trên tờ báo lót bên dưới chưa nhìn thấy giọt máu trinh quý giá, liền túm chân bạn gái giơ lên “ngó lom hom vào phía trong”. Mặt trái của xã hội, oan nghiệt đời người… là đề tài được một bộ phận của truyện ngắn 198X đề cập trong Lơ lửng trên cao, Xóm bờ mương, Cát hoang, Nghĩa trang đồng nhi…
Khi nói đến văn học trẻ nói chung và văn học 198X nói riêng, người ta hay nói về việc sử dụng các yếu tố tình dục một cách thái quá. Điều này có thể có lúc cần ghi nhận là một nhận xét đúng nhưng lại là một hiện tượng bất khả kháng, không phải chỉ vì những câu chuyện tình dục thể hiện nhan nhản trong tác phẩm của 198X, mà còn bởi sức trì kéo của truyền thống tiếp nhận, truyền thống đạo đức dân tộc - một dân tộc mà các vấn đề về mĩ học tính dục chưa bao giờ được đặt ra và nghiên cứu một cách sâu sắc, nghiêm túc và độ lượng (đúng ra thì, trong các sáng tác của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Ma Văn Kháng…, yếu tố tình dục cũng chiếm một dung lượng không nhỏ, nhưng có vẻ như các cây bút 198X vẫn thường phải hứng chịu nhiều hơn những lời phê phán nhiều khi đến nặng nề). Có lẽ các tác phẩm được bàn đến nhiều hơn vẫn là Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu và Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Có nhiều nội dung được đề cập đến khi phê phán hai tác phẩm này và các tác giả của nó, trong đó có không ít ý kiến chê trách họ về việc sử dụng quá nhiều yếu tố tình dục. Công bằng mà nói, yếu tố tình dục trong hai tác phẩm này và một số tác phẩm khác, nhất là Bóng đè, đã không mang lại nhiều lắm những hiệu ứng thẩm mĩ như tác giả mong muốn, vì nhà văn đang còn quá non nớt, và có lẽ, hơi có phần tâm lí câu khách hoặc chạy theo mốt, nhưng không phải là không có giá trị thẩm mĩ. Những trang viết về câu chuyện tình dục của Nguyễn Ngọc Tư mang trong mình những nỗi đau xót nhân văn, những lành mạnh bi thảm. Điều đáng nói là rất nhiều ý kiến phê phán yếu tố tình dục trong truyện ngắn 198X bởi người đọc đã không xem xét nó với tư cách là những tín hiệu thẩm mĩ đích thực, mà nhìn nó bằng cái nhìn dung tục. Có thể đến một lúc nào đó, những yếu tố này sẽ được nhìn nhận và đánh giá một cách công bằng, bình đẳng như những yếu tố khác trong hệ thống tín hiệu thẩm mĩ của một tác phẩm nghệ thuật.
Những đóng góp của truyện ngắn 198X về mặt hình thức nghệ thuật cũng là khá đáng kể. Đó là việc mở rộng phạm vi, quan niệm về thể loại bằng cách tạo ra sự kéo giãn dung lượng trang viết, gia tăng hàm lượng hiện thực được phản ánh, tạo ra sự hỗn dung thể loại bằng cách cho phép thâm nhập vào truyện ngắn hình bóng của tiểu thuyết, thậm chí được phân chia chương hồi một cách khá mạch lạc. Bên cạnh việc kéo giãn dung lượng là một phép ngược lại: co hẹp dung lượng truyện, mỗi truyện ngắn có khi chỉ gồm 1 hay 2 trang in. Sự khẳng định bản ngã hiện sinh của các nhà văn 198X được thể hiện bởi việc chủ yếu sử dụng điểm nhìn hiện tại. Ngôn ngữ truyện ngắn là thứ ngôn ngữ đậm chất đời thường, thậm chí là thứ ngôn ngữ chát, ngôn ngữ blog đang ngổn ngang, trần trụi. Và điều này, bên cạnh sự thể hiện khát vọng kéo văn chương lại gần với đời sống, thể hiện khát vọng dân chủ trong ý thức sử dụng ngôn ngữ, khát vọng đối thoại với những yêu cầu nghiêm trang đã có phần cũ kĩ đối với ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ truyện ngắn 198X không phải không mang lại cảm giác về một thứ văn chương dễ dãi, và các tác giả của nó có phần non tay. Và sự tri nhận về văn học 198X như những thành tựu bị bỏ lỡ là có cơ sở. Tuy nhiên, đòi hỏi quá nhiều ở một lớp người viết còn quá trẻ là một thái độ nôn nóng. Hi vọng rằng, thời gian sẽ tiếp thêm vốn sống, kinh nghiệm để các nhà văn 198X cho ra đời những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao hơn.
Trần Quang Thưởng