Những góc nhìn Văn hoá

LỬA THIÊNG cháy mãi!

Mùa hè năm 1996.

Tại một cuộc hội nghị ở Hà Nội, Nhà thơ Huy Cận gặp tôi và bảo tháng 8 sẽ vào Cửa Lò nghỉ cùng vợ con, tắm biển một tuần. Tôi chợt nhớ ông biết tôi trước đó độ vài ba năm, trong một khung thơ báo Văn Nghệ tôi có bài thơ “Gôgôn” được in bên cạnh bài thơ “Tặng một nữ thanh niên Nhật Bản” của ông. Cũng coi như là đã được quen biết.

Cửa Lò năm 1996. Nhà cửa cấp 4 đang rất tạm bợ. Ở nhà khách Công đoàn tỉnh, ngoài sân có nhiều vũng nước khi trời mưa, trong nhà chuột chạy đi chạy lại trên dây phơi quần áo và khăn mặt, xế ngay bên bàn ăn cũ kỹ nứt nẻ. Nhưng những ngày gia đình ông ở đây, khách và chủ chuyện trò thân tình đằm thắm, rất đáng nhớ. Đúng như nhiều tác giả đã viết, ông quả là con người của một thế hệ vàng khó có lại, là con chim đầu đàn Thơ mới của Tự lực văn đoàn, là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ thế giới – nhà thơ Việt Nam duy nhất đến thời điểm này. Năm 1993 khi thăm Pháp, Linh mục Nguyễn Đình Thi một Việt kiều yêu nước có Nhà Xuất bản và Xưởng in ở Pari nói với tôi: “Tôi nợ việc in thơ của một số nhà thơ trong nước, kể cả Xuân Diệu, nhưng thơ Huy Cận thì in bao nhiêu cũng hết”. Lần dở lại những trang Lửa Thiêng thì thấy điều đó rất dễ hiểu ở một cái điều khó hiểu là vì sao một con người khi mới độ tuổi 20 mà đã thông thái giỏi giang đến thế!... Bây giờ, dĩ nhiên là ở nơi nghỉ mát có biển xanh thẳm vô bờ, có bãi cát mịn rộng dài, có đảo gần đảo xa và bầu trời trong veo, chắc là ông đã bằng lòng với không gian phù hợp dễ chịu này – Và tôi may mắn được nói, được hỏi ông những suy nghĩ từ lâu của mình, và chỉ riêng với Lửa Thiêng thôi. Vì 20 năm từ 1958 đến 1978 ông đã cho ra đời thêm gần 10 tập thơ nữa.

Đối với tôi, Lửa Thiêng không chỉ là mây mù bơ vơ hiu hắt tình cảm trong cõi vụ trụ bao la, không chỉ là bâng khuâng tâm hồn thương cảm đến tận đáy sầu tự thân. Mà Lửa Thiêng phát sáng kho tàng trí tuệ uyên bác, phát sáng tinh hoa văn hóa cha ông, văn hóa Đông Tây kim cổ dưới cái nhìn vũ trụ và con người với một ý thức mới lạ chưa từng có qua một bút pháp xứng đáng với nó, tạo ra được sự để đời. Xuân Diệu đã từng nhận xét: Thơ Huy Cận không gắn với cái trước mắt hàng ngày mà gắn với cái ngàn năm…

Ông hỏi tôi: “Cậu thích bài nào trong Lửa Thiêng?”. Tôi đáp: “Thưa bác, Tràng Giang! Thứ nữa là Áo Trắng, và hầu như là hết cả tập thơ!”. Về Tràng Giang, tôi thử lý giải vắn tắt: “Ngay cái câu đề từ là Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài đã gây ngay ấn tượng tổng quan cuộc sống không gian vũ trụ vừa quen vừa lạ, sầu buồn, khắc khoải, xót xa, ám ảnh… Bài thơ 4 khổ. Chỉ với khổ đầu thôi đã thấy chứa chất đa tầng, đa nghĩa cái thân phận bèo bọt của sóng nước, sóng lòng; đã thấy số phận sắc màu tâm tưởng trôi dạt vô định trong không gian thời gian; đã thấy nỗi cô đơn tê tái vỡ vụn từ kiếp củi đến kiếp người… Với khổ cuối, qua “khói sóng” hoàng hôn của câu thơ Thôi Hiệu, Tràng Giang đã rộng hồn bừng tỉnh nỗi nhớ nhà tràn lan ra cả quê hương đất nước còn luân lạc chìm đắm trong đêm dài nô lệ…”. Ông trầm ngâm.

Tôi nói vu vơ: “Tôi rất thích từ song song của bác, - Con thuyền xuôi mái nước song song. Và ít nhất một lần nữa Lửa Thiêng lại lặp lại từ này – Song song muôn dặm bóng mây dồn. Song song, - có chút gì thoáng bóng tiên đề toán học trong vũ trụ mịt mù, sâu thẳm…”. Ông không nói gì.

Tôi nói tiếp một vài ý nghĩ, rất riêng tư, mà tôi đã từng nể trọng ông: “Lửa Thiêng in trước Cách mạng – năm 1940, in sau Cách mạng – năm 1995. Cả hai lần in đều như nhau: nguyên vẹn những lời đề tặng các bạn văn ở từng bài. Từ tặng Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, Thạch Lam đến tặng Tô Ngọc Vân, Tú Mỡ, Hoàng Đạo… Cái ý thức thủy chung tự trọng giữa cá nhân với cá nhân không phân biệt chiếu trên chiếu dưới của bác thật đáng quý đã đành, nhất là khi danh vị xã hội của bác vẫn có thừa, tỷ lệ thuận theo thời gian. Nhưng bên trong hẳn còn ẩn chứa điều gì không ổn?”. Ông cũng không nói gì.

Gần đây, một Tùy bút chính trị của Nhà văn Nguyễn Khải có đoạn viết: “80 năm thuộc Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu viên cho văn xuôi Việt Nam. Nhiều truyện đọc từ bé vẫn nhớ mãi tới già. Làm thân nô lệ mà vẫn trồi lên những tài năng lớn. Không thể bóp méo hoặc bác bỏ”. Tôi mừng quá, đã đến lúc có người nói hộ ông rồi. Đó là một sự đánh giá muộn màng cần thiết. Nhớ lại một thời khi cuộc đấu tranh giai cấp dâng lên ngùn ngụt, đã có những khuynh hướng nặn ra cái khẩu hiệu “Đả đảo lãng mạn!” và chẳng hiểu lãng mạn là gì, để rồi nhiều “người đọc không đọc” hô vang “Đả đảo!” mà thấy chua chát buồn cười!.. Những cây bút khả kính từng bị bỏ rơi và không thể bị bỏ rơi, hồn bây giờ ở đâu ?!

Trước ngày chia tay, ở bữa cơm tiễn biệt vui vẻ, tôi lại nói thêm một ý nghĩ nữa: “Tôi không nhớ rõ là ở Lửa Thiêng 1940 hay là ở các bài thơ lẻ của ông đăng trên báo chí trước Cách mạng có một lời đề từ chung cho cả tập sách (hay cho một bài thơ lẻ) mà đến bản Lửa Thiêng 1995 thì không thấy ghi nữa. Lời đề từ ấy là Tặng cả và thiên hạ. Tôi thật thích câu này. Nó mênh mông, man mác… Nhưng nếu đi tìm cái mầm hạt, cái cốt lõi cô đọng nhất của Lửa Thiêng để rồi bắt gặp cứu cánh, thì Tặng cả và thiên hạ có khả năng chi li bao trùm đổ bóng hồng hoang lên vạn vật…”. Ông cười và chỉ trả lời một phần câu hỏi: “Cậu nói nghe là lạ!”.

Rồi câu chuyện còn lan man thêm chút ít. Tôi về Vinh, sáng hôm sau đi công tác xa. Sau đó, con tôi nói lại chính buổi sáng ngày 11 tháng 8 đó, ông điện thoại từ Cửa Lò lên Vinh bảo lấy giấy bút ghi bài thơ này cho bố:

Gặp bạn đồng liêu tắm biển sâu

Tuổi như làn sóng trắng phau đầu

Đời ta sóng vỗ còn bao lớp

Hẳn kịp hòa giao với lớp sau

Làn sóng đời ta có rút lui

Nở xong hoa sóng hóa yêu đời

Bạn ơi hãy tạo ra dòng biếc

Góp mặn lòng ta với biển khơi                               

                                       *

                                     *    *

Huy Cận đã ra đi vào mùa xuân năm 2005. Ông đi theo đứa con tinh thần Lửa Thiêng xa xôi mà gần gũi. Gần gũi vì Lửa Thiêng của ông là ngọn lửa “không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số phận của mình”…

Đã gần 10 năm. Một công thần lập quốc đi vào lịch sử đầy hình ảnh tận trung sôi động, một con người nhân gian đi vào vũ trụ mang hồn vũ trụ vương vấn nhân gian.

Lửa Thiêng vẫn còn cháy mãi

       Không tro tàn.

Nhà sáng tác Tam Đảo

Thu 2012  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574532

Hôm nay

2130

Hôm qua

2317

Tuần này

22078

Tháng này

221589

Tháng qua

130677

Tất cả

114574532