Những góc nhìn Văn hoá

Bàn thêm về sự phân loại tạp chí và ấn phẩm khoa học

Khi viết phần này chúng tôi có tham khảo thêm thông tin từ GS. TS. Phạm Duy Hiển (http://vietsciences.free.fr/khaocuu/congtrinhkhoahoc/khoahocvadaihocvn.htm), PGS. TSKH. Phạm Đức Chính, GS.TS. Nguyễn Hữu Đức, GS. TS. Nguyễn Văn Tuấn (http://www.ykhoanet.com/binhluan/nguyenvantuan/071229_nguyenvantuan-nguyendinhnguyen_chatluong-nckh-vietnam.htm), một số tài liệu quốc tế và thông tin từ Trung tâm ISSN Việt Nam, Cục Thông tin KH-CN Quốc gia, Bộ KH-CN.

1.    Viện Thông tin khoa học (Institute for Scientific Information, ISI) của Mỹ đã đề xuất sự phân loại các tạp chí khoa học trên thế giới theo chất lượng và được thừa nhận rộng rãi.Cụ thể như sau:

SCI (Science Citation Index) gồm khoảng 4000 tạp chí khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, có chất lượng cao nhất trên thế giới, SCIE (Science Citation Index Expanded) gồm khoảng 7000 tạp chí khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, bao hàm cả SCI, SSCI (Social Science Citation Index), A&HCI (Arts & Humanities Citation Index), ISI = SCIE + SSCI + A&HCI, gồm khoảng 10000 tạp chí khoa học có chất lượng cao, trong tổng số hàng trăm nghìn tạp chí, "thượng vàng hạ cám" trên thế giới.

Các thống kê số bài báo khoa học của phần lớn các cơ quan trên thế giới dựa theo các danh sách và sự phân loại này, chúng ta có thể gọi tắt là danh sách ISI. Việt Nam chưa có tạp chí khoa học nào được lọt vào danh sách ISI. Những năm vừa qua Bộ KH-CN, Viện KH-CN Việt Nam và các cơ quan liên quan đã cố gắng giới thiệu với quốc tế để chúng ta có được những tạp chí khoa học đầu tiên có thể lọt vào danh sách ISI, ví dụ như hai tạp chí toán học Acta Mathematica Vietnamica của Viện Toán học, Vietnam Journal of Mathematics của Hội Toán học Việt Nam, và Advances in Natural Scienses của Viện KH-CN Việt Nam, nhưng cho đến nay chưa có kết quả. Trung Quốc là một trong số các nước có yêu cầu rất cao về chất lượng tạp chí và bài báo khoa học, chỉ coi tạp chí SCI là chuẩn quốc tế. Cần phải nhấn mạnh rằng: Đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, công bố quốc tế không chỉ là một đòi hỏi quan trọng đối với các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, mà ngay cả đối với các lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn và nghệ thuật. Trong những ngày này (6/2011), thì càng thấy rõ tiếng nói có căn cứ khoa học trên các diễn đàn quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam trong các lĩnh vực như khảo cổ, lịch sử, địa lý, biển đảo, luật quốc tế, ngoại giao,... quan trọng và cần thiết biết bao.

Khi xếp hạng (tương đối chính xác) các tạp chí khoa học trên thế giới người ta thường dựa vào các chỉ số “đo” chất lượng khoa học của tạp chí, ví dụ chỉ số ảnh hưởng IF (Impact Factor) và chỉ số H (H-index). “Rất khó đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học, vì cộng đồng khoa học vẫn chưa nhất trí một chuẩn mực thống nhất cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu”. Tuy nhiên, hai chỉ số thường được sử dụng để ước định chất lượng của một công trình nghiên cứu khoa học là chỉ số ảnh hưởng và số lần trích dẫn (citation index). Theo định nghĩa được công nhận, hệ số ảnh hưởng IF là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình các bài báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước. Do đó, những công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng cao cũng có thể đồng nghĩa với chất lượng cao của công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như một nghiên cứu được công bố trên các tạp chí như Science, Nature, Cell, PNAS, New England Journal of Medicine, Lancet, v.v..., chắc chắn phải có chất lượng cao hơn các nghiên cứu công bố trên các tạp chí ở châu Á, châu Âu hay tạp chí chuyên ngành ở Mỹ. Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng của tạp chí cũng tùy thuộc vào bộ môn khoa học (chẳng hạn như các tập san thuộc bộ môn khoa học thực nghiệm thường có hệ số tác dụng cao hơn các tập san trong các ngành khoa học tự nhiên và toán học).

Năm 2005, nhà vật lý người Mỹ Jorge Hirsch của Đại học California ở San Diego đã đưa thêm chỉ số H (H-index) để đánh giá thành tựu khoa học và làm cơ sở so sánh đóng góp khoa học của các nhà khoa học khác nhau (trong cùng lĩnh vực) (xemhttp://www.pnas.org/cgi/content/abstract/102/46/16569, http://en.wikipedia.org/wiki/H-index).Theo Jorge Hirsch thì một nhà khoa học có chỉ số H nếu trong số N công trình của ông ta có H công trình khoa học (H < N) có số lần trích dẫn của mỗi bài đạt được từ H trở lên.Như vậy, chỉ số H chứa đựng được cả hai thông tin: số lượng (số các bài báo được công bố) và chất lượng, tầm ảnh hưởng (số lần được các nhà khoa học khác trích dẫn) của hoạt động khoa học.

Jorge Hirsch cũng đã xem xét chỉ số H cho một số nhà khoa học và đưa ra nhận xét rằng, trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, các nhà khoa học Mỹ thành công (successful) sẽ có chỉ số H = 20 sau 20 năm; một nhà khoa học nổi tiếng (outstanding) sẽ có chỉ số H = 40 sau 20 năm; thiên tài khoa học (truly unique individual) sẽ có chỉ số H = 60 sau 20 năm.Jorge Hirsch cũng đã đề nghị rằng ở Mỹ một nhà khoa học có thể bổ nhiệm phó giáo sư (associate professor)nếu có chỉ số H khoảng 12 và giáo sư (full professor) nếu H vào khoảng 18. Các nhà khoa học được giải thưởng Nobel thường có chỉ số H trong khoảng từ 35 đến 100. Chỉ số H cao nhất của một số lĩnh vực khác như hoá - lý: 100, sinh học: 160, khoa học máy tính: 70, trong khi đó lĩnh vực kinh tế học có chỉ số H vào khoảng 40.

2.     ISSN (International Standard Serial Number) và ISBN (International Standard Book Number)

ISSN là mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ (XBPNK), một mã được công nhận trên toàn thế giới nhằm xác định nhan đề của các XBPNK. Khi đã có chỉ số ISSN, thì tạp chí sẽ được quốc tế thừa nhận chính thức và giới thiệu trên quy mô toàn cầu, hay nói nôm na là đã có "thẻ căn cước" để đi lại trong "làng" thông tin toàn cầu. Nhưng ISSN không liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu, bản quyền hoặc bảo vệ nhan đề của XBPNK với các nhà xuất bản khác. Khác với sự phân loại ISI theo chất lượng khoa học, chỉ số ISSN của một tạp chí cũng không liên quan đến chất lượng khoa học của các bài báo được đăng ở trong đó.

Danh sách ISSN này bao hàm và rộng hơn rất nhiều so với danh sách ISI. Hiện nay danh sách ISI khoảng 10000 còn danh sách ISSN là khoảng 1,3 triệu tên XBPNK (xem hình dưới). Mặc dầu vậy ở Việt Nam vẫn còn không ít tạp chí chưa đăng ký để có chỉ số ISSN. HĐCDGSNN khuyến nghị các ban biên tập tạp chí khoa học trong cả nước, sau khi tạp chí đã được Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông cấp Giấy phép xuất bản (xem như là "Giấy khai sinh"), cần phải làm tiếp thủ tục xin cấp chỉ số ISSN (xem như "thẻ căn cước") tại Bộ phận đăng ký ISSN, Cục Thông tin KH-CN quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, 24 Lý Thường Kiệt, Hà Nội, ĐT 04-39349116. Từ năm 2012, chỉ những bài báo khoa học được đăng ở các tạp chí có chỉ số ISSN mới được Hội đồng Chức danh giáo sư các cấp xem xét, tính điểm. Theo chúng tôi biết thì hầu như các sách đã được xuất bản tại Việt Nam đều chưa có chỉ số ISBN, tức là tập hợp ISBN của chúng ta vẫn còn đang là một tập hợp rỗng, trong khi đó, đây là một thông lệ ở các nước trên thế giới. Đến bao giờ thì các nhà xuất bản và các công ty in Việt Nam đều ghi chỉ số ISSN trên tất cả các XBPNK/tạp chí và chỉ số ISBN trên tất cả các sách được xuất bản, trong khi đây là một việc bình thường và tự nhiên trên thế giới? Ai lo việc này để hội nhập với thế giới? Tôi vừa trao đổi với TS. Nguyễn Quý Thao, Tổng biên tập kiêm Phó Tổng Giám đốc Nhà xuất bản (NXB) Giáo dục Việt Nam, thì được biết NXB Giáo dục Việt Nam là một trong số các NXB đầu tiên ở nước ta đã bắt đầu làm thủ tục đăng ký chỉ số ISBN cho các sách được NXB Giáo dục Việt Nam ấn hành. Điều đó rất đáng hoan nghênh.

Ngoài ra cũng cần phải nhận xét thêm rằng: So với thông lệ quốc tế thì một số tạp chí khoa học của Việt Nam cần được biên tập và trình bày một cách khoa học và đầy đủ hơn. Ví dụ: Ở mỗi bài báo được đăng trong một tạp chí nào đó cần phải ghi rõ ngày toà soạn nhận được bài báo/received, ngày bài báo đã được sửa lại theo yêu cầu của các phản biện (nếu phải sửa lại)/revised/accepted; cũng cần ghi một số từ khoá/key words, sự phân loại chuyên môn của bài báo/subject classification,
cuối cùng là phần tài liệu tham khảo/references và tóm tắt/abstract/summary (thường bằng tiếng Anh).

Để dễ hình dung, chúng tôi tạm phác hoạ sơ đồ mô tả sự phân loại tạp chí khoa học theo ISI và chỉ số ISSN đối với tạp chí, ISBN đối với sách: 

 

 

 

 

 

 

 Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2011

Nguồn: Về giáo dục và đào tạo, đôi điều ghi lại. Trần Văn Nhung; Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574667

Hôm nay

2265

Hôm qua

2317

Tuần này

22213

Tháng này

221724

Tháng qua

130677

Tất cả

114574667