Môi trường y đức được đề cập trong bài viết này là môi trường diễn ra các ứng xử, giao tiếp của những người trong nghề y và những người được coi là bệnh nhân của họ cùng người nhà của bệnh nhân.
Trong thập niên qua, vấn đề về ý đức của đội ngũ hoạt động trong ngành y được đề cập đến nhiều. Bên cạnh những con người y đức vẹn toàn, tâm huyết với nghề và quan tâm chăm lo cho bệnh nhân thì lại có một bộ phận tiêu cực, đạo đức nghề nghiệp thấp kém và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh. Có nhiều ý kiến lý giải sự sa sút về mặt đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ hoạt động trong lĩnh vực chữa bệnh cứu người, ở đây tác giả chỉ đưa ra một số ý kiến dưới góc nhìn kinh tế nhân văn.
Về mặt kinh tế học, sự suy đồi đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận trong ngành y bắt nguồn từ quy luật cung-cầu trong kinh tế thị trường. Bước vào kinh tế thị trường, các bệnh viện và các cơ sở cứu chữa bệnh của nhà nước cũng có những biến chuyển rõ rệt. Từ nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe đang chuyển sang dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Quan hệ cung-cầu hay mua-bán đi sâu vào các bệnh viện. Một mặt nó làm cho các bệnh viện năng động hơn, cải thiện công nghệ kỹ thuật hơn. Nhưng mặt khác, nó tạo ra tình trạng “buôn-bán” trong các bệnh viện và các cơ sở khám chữa bệnh. Rõ ràng đang diễn ra một tình trạng có cung “hư” và cầu “hỏng” ở cả hai bên người chăm sóc và người bệnh. Người điều trị sẵn sàng và chỉ bán các dịch vụ chăm sóc sứa khỏe mà họ được nhà nước và nhân dân giao nhiệm vụ và trả lương hàng tháng để làm. Còn bệnh nhân, tuy đã đóng thuế trả lương cho các bác sĩ, y tá điều trị để tạo ra các dịch vụ y tế để rồi chính họ lại phải quay lại mua các dịch vụ mà mình được hưởng. Cả hai phía người điều trị và người phải điều trị đều có chung tư duy “mua-bán” này. Và vô hình chung, chính họ lại làm hại nhau cả về mặt kinh tế lẫn đạo đức. Ví như, một người đã đóng bảo hiểm y tế thì họ được hưởng các dịch vụ y tế theo quy định. Nhưng khi vào bệnh viện họ vẫn bỏ tiền ra để “lót tay” cho bác sĩ, ý tá. Còn người điều trị đã được trả lương hàng tháng nhưng họ vẫn tự cho mình cái đặc quyền “được nhận quà” của người bệnh. Những tư duy như thế này đang lớn thêm và trở thành mối đe dọa cho môi trường y đức. Tôi còn nhớ trong một bài báo cách đây 5 năm, GS.TSKH Lê Thế Trung đã phân tích vấn đề “hợp tác và buôn bán” trong nghề thuốc và ông gay gắt góp ý “Phải chấm dứt ngay trình trạng “đi buôn” trong ngành dược” để chấn chỉnh lại y đức của người hành nghề y (1).
Một vấn đề về mặt kinh tế mà nhiều người đã phân tích là lý do chủ yếu của sự đi xuống y đức là lương của đội ngũ cán bộ ý tế. Ý kiến này được nhiều người hành nghề y ủng hộ. Nhưng nhìn nhận trong bối cảnh chung của đất nước thì cán bộ ngành y không thấp hơn so với lương các ngành khác. Nếu ngành nào cũng dựa vào lý do lương thấp mà cho mình đặc quyền được “nhận hối lộ” thì thật là nguy hiểm. Nên đây chỉ là một nguyên nhân gây ra tình trạng đó chứ không phải là nguyên nhân quyết định. Lập luận của một số người rằng nếu lương cao thì người ta không cần tham nhũng là không xác đáng vì thức sự thì những người mang tội tham nhũng lương thường cao hơn những người khác trong nghề nhiều lần. Nếu muốn biện minh, chúng ta chỉ có thể nói rằng nền y tế của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của người dân nên tạo điều kiện cho một số cán bộ trong ngành y “lợi dụng tình hình để bán y đức”. Bệnh viện quá tải, thiếu thuốc, thiếu gường… nói chung là điều kiện môi trường. Trong thế kỷ XX, đất nước ta khó khăn hơn hôm nay gấp nhiều lần, nhưng chúng ta đã có được một đội ngũ y bác sĩ tài ba, tận tâm phục vụ đất nước, chữa bệnh cứu người. Đó là những con người đặt nền móng cho ngành y học Việt Nam hiện đại, và là các tấm gương về y đức như Hồ Đăc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ…
Trên góc nhìn nhân văn, không gì độc ác bằng sự nhẫn tâm, vô cảm đối với người bị bệnh. Và người bệnh sợ nhất không phải bệnh nặng mà là vẻ mặt lạnh lùng của người điều trị. Nên có thể coi “tiền lót tay” cho người điều trị chính là tiền mua nụ cười và sự niềm nở của họ. Tâm lý “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” càng thể hiện triệt để ở các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân tại các bệnh viện và các cơ sở chữa bệnh. Người bệnh vào bệnh viện hay trung tâm y tế đều mang tâm lý chỉ yên tâm khi người điều trị “nhận lót tay” của mình mặc dù có người ngay cả tiền thuốc còn không có. Nếu người điều trị không nhận thì họ còn lo hơn cả nỗi lo về bệnh tật. Vấn đề này nghiêm trọng đến mức độ người ta nói với nhau rằng vào bệnh viện là không được để cho bác sĩ thấy mình nghèo, không có tiền. Có như vậy mới được chăm sóc tận tình hơn. Có ai đó chưa từng vào bệnh viện thì hẳn chưa hiểu được sức mạnh của các mối quan hệ. Khi vạo bệnh viện mà chỉ thấy được một người quen thì còn hơn cả người sắp chết đuối vớ được cái cây. Còn với những người tham gia điều trị thì họ cũng “nhận lót tay” bằng quà hay tiền một cách bình thường. Với tư duy nhận một ít như vậy không phải là phạm pháp, mình vừa có thêm khoản bồi dưỡng mà bệnh nhân thì lại vui lòng (mặc dù họ chỉ vui mặt còn trong lòng chắc chẳng vui gì).
Không thiếu tình trạng các bác sĩ hờ hững với sự đau đớn của bệnh nhân. Khi có sự cố xẩy ra thì chối bỏ trách nhiệm. Ví như việc sơ suất của các bác sĩ ở một bệnh viện lớn để hai mẹ con sản phụ trẻ người Thái Nguyên chết hồi tháng 2/2009 mà cuối cùng lãnh đạo bệnh viện kết luận “Bệnh viện có sai sót trong những nguyên nhân dẫn đến tử vong của mẹ con sản phụ …” (2). Và trong năm qua, việc các y bác sĩ hững hờ, vô tâm làm bệnh nhân chết oan uổng không chỉ có một trường hợp trên. Các trường hợp khác báo chí cũng đã đưa tin nhiều. Nhưng chúng ta không bàn cụ thể về các vụ việc này mà chỉ đem làm dẫn chứng cho sự vô tâm và vô trách nhiệm của một số y bác sĩ. Chẳng ai có thể đưa cái bệnh viện ra tòa được khi bệnh viện nhận trách nhiệm chung chung như vậy. Mà dù có người chịu trách nhiệm thì chịu làm sao được khi có những người đã chết vì sự vô tâm của họ.
Chính sự sa sút y đức của một bộ phận cán bộ ngành y tế và tư duy, tâm lý “buôn-bán” của cả hai phía người điều trị và người phải điều trị đã làm cho môi trường y đức càng ngày càng có nguy cơ ổ nhiễm nặng. Và thực chất nó đã bị ô nhiễm. Trách nhiệm của những người có trách nhiệm là hạn chế sự ô nhiễm và cải thiện tình trạng môi trường y đức. Xây dựng thêm các cơ sở y tế, nâng cấp các bệnh viện cả về chất và lượng, nâng cao đời sống cán bộ y tế là những việc nên làm nhanh. Nhưng quan trọng hơn là giáo dục về y đức cho chính đội ngũ y bác sĩ tương lai. Có như vậy thì chúng ta mới có hy vọng một ngày nào đó sẽ thay đổi “phải điều trị” thành “được điều trị” của các y bác sĩ./.
(1)Báo doisongphatluat.com.vn: GS.TSKH lê Thế Trung: Ngành y ế nên làm theo ngành giáo dục. Ngày 18/9/2006.
(2)Bài viết trên website thugian.com.vn ngày 28/2/2009.