(Mấy suy nghĩ về việc tiếp nối nghiên cứu văn học Phật giáo của GS Đinh Gia Khánh ở bộ môn Văn học Trung Đại khoa Văn học)
(Mấy suy nghĩ về việc tiếp nối nghiên cứu văn học Phật giáo của GS Đinh Gia Khánh ở bộ môn Văn học Trung Đại khoa Văn học)
Cho tới năm 2013 này, bộ giáo trình viết về lịch sử văn học Việt Nam, giai đoạn thế kỷ X- giữa thế kỷ XVIII do giáo sư Đinh Gia Khánh chủ biên và các nhà khoa học tham gia là Bùi Duy Tân và Mai Cao Chương đã phát huy ảnh hưởng khoa học và giáo dục trên 30 năm. Bộ sách luôn là niềm tự hào của nhiều thế hệ cán bộ và sinh viên khoa Văn học. Cho tới nay nhiều vấn đề đã đến lúc cần bổ sung, đổi mới, điều chỉnh, tuy nhiên về tổng thể, vị trí vài trò của bộ sách vẫn chưa có sự thay thế xứng đáng.
Trong công trình lớn này, các tác giả thuộc Bộ Môn văn học Trung đại biên soạn đã đề cập một cách tổng quan toàn bộ văn học Trung đại với tầm nhìn và sự tập hợp xử lý tư liệu bao quát rất đáng khâm phục. Tuy nhiên, phần văn học Phật giáo được đề cập tới khá khiêm tốn. Tại phần đầu của cuốn giáo trình, phần văn học Phật giáo được đề cập tới như một phần của văn chương viết về khí thế dân tộc, đời sống tinh thần của dân chúng Đại Việt thời kỳ đầu độc lập. Nó cũng được nói tới với mức độ rất thoáng qua, thậm chí có thể nhận thấy chủ đích né tránh mảng văn chương này. Ai cũng hiểu không khí của thời kỳ bộ sách được biên soạn ( thập kỷ 70) của thế kỷ XX, khi đó những vấn đề tôn giáo và thậm chí cả những vấn đề chỉ có liên quan mà không hoàn toàn là tôn giáo cũng không được tự do đề cập. Đó được xem là một miền đất cấm kỵ. Trong bối cảnh ấy, đề cập tới văn học Phật giáo với mức độ và quan điểm như vậy cũng là dễ hiểu và khôn ngoan, thà né tránh còn hơn nói tới một cách quá sai lệch.
Mặc dù được đề cập tới vắn tắt và khá thoáng qua, nhưng cũng đủ để chúng ta có được một vài nhận xét về cách nhìn và cách xử lý đối với mảng văn học Phật giáo. Về phương pháp và cách tiếp cận, nó được thực hiện thống nhất so với các bộ phận văn học khác. Có thể thấy các tác giả đã nhìn văn học chủ yếu theo hướng xã hội học văn học( theo cách cũ), theo hướng tìm kiếm các phương diện phản ánh hiện thực, phản ánh đời sống xã hội, đời sống dân tộc, nó có thể hiện gì của tâm lý thời đại, đời sống dân tộc thời kỳ đó không? Văn học Phật giáo được đánh giá khá cao cũng bởi đã thể hiện tinh thần dân tộc. Các nhà sư tu hành nhưng cũng quan tâm tới các vấn đề thế sự, thậm chí văn học Phật giáo cũng chịu ảnh hưởng của cảm hứng dân tộc và các vấn đề mang tính thời sự khác. Cũng có một số lời phê phán khác nhẹ nhàng đối với mảng văn học này. Tiêu chí chê cũng đồng thời là các tiêu chí dùng để khen, tức có phản ánh hiện thực hay không, mức độ vị nhân sinh của nó...Mặc dù không được đề cập tới một cách tỷ mỷ và sâu sắc tương xứng với những gì mà nó đáng được quan tâm, nhưng cũng cần ghi nhận những đóng góp sớm và mở đầu cho việc nghiên cứu văn học Phật giáo giai đoạn những năm 70 của thế kỷ XX. Về vấn đề phương pháp tiếp cận, có thể nhận thấy, nếu phần văn học này được đề cập sâu hơn, nhiều chiều hơn, thì hướng tiếp cận chủ nghĩa hiện thực và xã hội học mà các tác giả áp dụng cho toàn bộ bộ sách cũng khó có thể đem tới được những nghiên cứu chân xác về mảng văn học nhiều nét đặc thù này.
Như chúng ta đều biết, văn học Phật giáo đương nhiên cũng là một bộ phận của văn học thời kỳ Trung đại, của văn học dân tộc nó được sáng tạo ra cũng theo những quy luật sáng tạo nghệ thuật nói chung và của sáng tạo văn học nói riêng. Tuy nhiên, do chỗ cơ sở tư tưởng, triết lý, phương pháp tu dưỡng, đời sống tinh thần của các vị tăng ni, thiền sư rất khác so với các lực lượng sáng tác khác, cho nên văn học Phật giáo có những đặc thù riêng, có những đặc trưng thẩm mỹ và vai trò, hiệu quả thẩm mỹ riêng. Đối xử với bộ phận văn học này cũng tương tự, cũng không khác so với việc đối đãi với các bộ phận văn học khác, như văn học viết về đề tài chiến tranh vệ quốc hay văn chương đạo lý thế sự của nhà Nho là việc rất không phù hợp. Việc nghiên cứu xem phần văn học này phản ánh hiện thực đời sống như thế nào sẽ đem lại những đánh giá không thỏa đáng. Nếu đi tìm mức độ thể hiện tình cảm con người, tinh thần dân tộc, mức độ tha thiết với cuộc sống với dân chúng để đánh giá bộ phận văn học Phật giáo thì thậm chí có thể còn có thể xem là việc "phản giám nhi chiếu" ( soi bằng mặt ngược của gương). Theo hướng đó có vừa có thể dẫn tới việc không hiểu được, không hiểu đúng về mảng văn học này, lại vừa đánh giá sai hoặc phủ định các giá trị của văn học này. Nghiên cứu theo hướng này sẽ không thấy Thiền trong thơ Thiền, không thấy chất thi ở nơi Thiền gia.
Thời điểm viết giáo trình văn học Việt Nam thế kỷ X-XVIII, giáo sư Đinh Gia Khánh và nhóm tác giả đề cập tới văn học Phật giáo với mức độ như vậy là điều dễ hiểu và khó có thể làm khác. Tuy nhiên điều đáng trân trọng ở Giáo sư Đinh Gia Khánh chính là tầm nhìn của nhà khoa học. Giáo sư đã sớm nhận ra sự thiếu hụt và nhu cầu cần thiết phải đẩy mạnh nghiên cứu cho bộ phận văn học Phật giáo. Theo nhiều thông tin lưu trữ và qua lời kể của các thành viên trong Bộ môn, đầu thập kỷ 80, trước khi chuyển ra phụ trách Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian, Giáo sư đã bày tỏ mối băn khoăn chuyên môn hàng đầu là phải tìm người để nghiên cứu tiếp theo mảng văn học Phật giáo. Tuy nhiên, với những khó khăn về nhân lực nghiên cứu thời kỳ đó, đã hầu như không có người nghiên cứu tiếp theo cho mảng văn học này. Phải gần 10 năm sau, tức đầu thập kỷ 90 bộ môn Văn học Trung đại mới bổ sung một vài người và được phân công chuẩn bị nghiên cứu và giảng dạy chuyên sâu hơn về mảng văn học Phật giáo.
Sự cởi mở của bầu không khí xã hội cuối thập kỷ 80 đầu 90 và sự tiếp nhận một số cách nhìn, quan điểm nghiên cứu mới đối với văn học đã đem lại cho những người nghiên cứu thời điểm này những điều kiện quan trọng để đi sâu hơn và đổi mới. Một số hướng nghiên cứu theo góc độ loại hình, góc độ thể loại, thi pháp, ngôn ngữ đã được triển khai. Trong đó phải kể tới các công trình nghiên cứu của Huệ Chi, Nguyễn Phạm Hùng, tiếp theo là chuyên luận của Nguyễn Hữu Sơn về mô hình tiểu truyện thiền sư... có thể nói đó là một giai đoạn phát triển mới của nghiên cứu văn học Phật giáo. Đây là thời kỳ khủng hoảng nhân lực của Bộ môn, vì vậy thời điểm diễn ra các công trình nghiên cứu nêu trên trong thập kỷ 80 đầu 90, các cán bộ của Bộ môn ít có thành tựu nghiên cứu công bố.
Sự trỗi dậy của Phật giáo sau thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường vào đầu thập kỷ 90 đã khiến cho việc nghiên cứu Phật học nói chung và nghiên cứu văn học Phật giáo nói riêng có những khởi sắc. Những người nghiên cứu nhiệt tâm với Phật giáo đã ra sức tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu Phật giáo. Có sự gia tăng hoạt động nghiên cứu của các nhà tu hành, các sách chuyên luận và cá luận án ra đời nhiều hơn. Tuy nhiên trong các công trình này, giới tu hành tiếp cận chủ yếu theo hướng lấy thi ca làm công cụ để giảng về tư tưởng Thiền của các Thiền sư và dùng nó để làm công cụ tuyên giảng Phật Pháp. So với trước đây thiên về mặt xã hội và tình cảm, thì nay nó lại thiên lệch về phía công dụng và thực hành tôn giáo. Các nghiên cứu này chủ yếu cho thấy cái Thiền lý trong văn chương mà ít thấy cái thi tình; nó cho thấy cái Thiền Ngộ mà chưa thấy thi tài; nó cho thấy thiền tứ và ít thấy cái thi hứng. Thấy Thiền trong thơ nhiều hơn chính thơ. Phật Giáo hưng thịnh không đồng nhất với phát triển của khoa học nghiên cứu về văn học Phật giáo. Sự nhiệt tâm của tín đồ đôi khi cũng làm ảnh hửng tới sự nhìn nhận và đánh giá mang tính khách quan. Sự hiểu biết đầy đủ và độ khách quan cao là những điều quan trọng nhất để đưa việc nghiên cứu mảng văn học này đi đúng đường cần đi của nó.
Khoảng mười năm gần đây, các nghiên cứu của Bộ môn Văn học Trung đại khoa Văn học trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn có những điều chỉnh quan trọng. Mặc dù chưa có chuyên luận lớn đủ sức tạo ra những dấu ấn quan trọng có tính điều chỉnh đường hướng nghiên cứu đối với văn học Phật giáo, tuy nhiên các bài viết riêng lẻ của các cán bộ bộ môn cũng như một phần của vài bộ sách lớn được công bố cũng đã có những dấu ấn đầu tiên thể hiện một đường hướng nghiên cứu mới.
Quan điểm nghiên cứu: lấy Phật giáo làm gốc, lấy Phật giáo là bản vị và cách nhìn đối tượng nghiên cứu và là tác phẩm văn học, dùng phương pháp nghiên cứu văn học, hoặc liên ngành để nghiên cứu đã được triển khai. Nhìn văn học Phật giáo trong sự thống nhất giữa triết lý Phật giáo và quy luật sáng tạo của thi ca để nhìn nhận. Theo hướng này đã có nhiền bài nghiên cứu về loại hình tác gia văn học Thiền sư, về tuy duy nghệ Thiền, về cơ sở triết học Thiền trong thơ Thiền, đã có nhiều bài viết về các bình diện thẩm mỹ của văn học Thiền, về quan hệ giữa tôn giáo và thẩm mỹ trong văn học Phật giáo..
Một số luận án, luận văn thạc sĩ cũng đã được Bộ môn cho triển khai theo hướng nghiên cứu chuyên sâu về các tác gia văn học Phật giáo như Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,; nghiên cứu chuyên biệt theo hệ vấn đề như sự tương tác giữa cảm hứng tôn giáo và hứng thú thẫm mỹ trong một số tác gia văn học ... cũng đã và đang được thực hiện.
Có thể nói việc nghiên cứu mảng văn học này đang được đẩy mạnh hơn bao giờ hết tại Bộ môn VHTĐ, lực lượng đã đông đảo hơn, các hướng tiếp cận đa dạng hơn và ngày càng nhìn nhận được những giá trị và đặc sắc của nó, tiếp cận ngày càng gần hơn tới bản lai diện mục của nó. Những gì mà GS Đinh Gia Khánh lo lắng, mong muốn, dặn dò trước khi ra đi thì nay đang dần trở thành hiện thực.
Cũng cần phải nói thêm rằng, GS Đinh Gia Khánh ngoài vai trò quan trọng đối với nghiên cứu văn học trung đại và bộ môn VHTĐ, GS còn là người có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc sáng lập bộ môn Hán Nôm và nghành nghiên cứu giảng dạy Hán Nôm tại trường Đại học Tổng hợp. Giáo sư cũng là người từng quan tâm tới việc đưa các nội dung đa dạng hơn là kinh điển Nho giáo vào giảng dạy. Nhưng cũng do bối cảnh thời đại, chương trình giảng dạy của ngành Hán Nôm hầu như là chương trình kéo dài của khoa cử Nho học truyền thống, tức hầu hết học kinh điển Nho gia và chư sử, thi lâm của Việt Nam. Song song với sự cởi mở về nghiên cứu về Phật giáo, hiện nay chương trình đào tạo bậc cử nhân cũng như sau đại học của ngành Hán Nôm hiện đã có thêm những môn học trang bị kiến thức sâu hơn về Phật giáo, Đạo gia, tạo ra một sự điều chỉnh hướng tới cân bằng chương trình đào tạo. Phần dẫn luận nghiên cứu về Phật giáo đã được đưa vào giảng dạy trong bậc cử nhân và phần kinh điển Phật - Đạo được đưa vào giảng dạy bậc thạc sĩ.
Để đánh giá một nhà khoa học, đương nhiên phải đánh giá thành tựu nghiên cứu. Nhưng không chỉ có vậy, tầm nhìn khoa học cũng thể hiện tầm vóc. Điều đáng trân trọng đối với GS Đinh Gia Khánh chính ở tầm nhìn khoa học, trách nhiệm khoa học. Ông xứng đáng là nhân vật quan trọng từng đặt nền tảng và hoạch định đường hướng cho nhiều chuyên ngành nghiên cứu trong khoa Ngữ văn trước đây ( Văn học Trung đại, Dân gian, Hán Nôm). Không ai và không một nhóm người nào có thể làm hết được mọi việc, nhưng nhìn thấy những việc cần làm, cần kiến tạo cho một thời gian dài là điều rất quan trọng. GS chính là người như vậy.
Hà Nội ngày 11.10.2013
231
2298
2626
229401
129483
114570877