Khác với giai đoạn cách mạng trước đây là "trường kỳ kháng chiến", ở giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thời gian hoạt động được quy định theo xu thế phát triển của thời đại.
Khác với thời kỳ trước đây, mỗi người tham gia cách mạng, khi rời quê hương đều "chưa hẹn ngày về", còn giai đoạn hiện nay, mỗi nhiệm vụ được giao cho mỗi người, mỗi tổ chức đều có thời gian kết thúc. Bất kể là sự nghiệp chung hay nhiệm vụ mỗi người, phá vỡ thời gian quy định là rơi vào tình trạng trì trệ, tụt hậu, còn nói gì được về thành tựu và kinh nghiệm.
Nhìn rộng ra thế giới, nếu ở nước phát triển cao đạt được mức độ tiết kiệm thời gian lớn nhất, thì ở nước đang phát triển như Việt Nam, lãng phí nhiều nhất là thời gian.
Phải chăng thời gian là của trời cho, như không khí và nước ? Không, ngày nay, mọi vật hữu hình và vô hình đều có giá. Cái giá của thời gian không chỉ là tiến bộ hay lạc hậu, mà còn là hơn thế. Thời gian qua đi không thể lấy lại. Luôn nói về thời cơ, mà không thấy cái giá của thời gian thì chỉ là nói suông, vô trách nhiệm trước đất nước và trước chính mình. Bởi vì, hiện nay mà lãng phí thời gian thì đất nước tụt hậu xa hơn, còn bản thân mình chỉ là cuộc đời vô nghĩa.
Ngày nay, sức ép của thời gian tác động ngày càng tăng đối với mỗi người và mỗi cơ quan lãnh đạo, quản lý. Khác với các xã hội trì trệ, trong xã hội hiện nay tác động của sức ép thời gian sẽ sớm làm bộc lộ tính ưu việt hay lỗi thời của một mô hình, một chế độ chính trị, một thể chế kinh tế và quản lý, một cán bộ, mà không có sự khôn khéo nào che dấu được. Đối mặt với thời gian tức là đối mặt với thách thức và trách nhiệm trước cộng đồng, là tạo ra khả năng nắm bắt cơ hội phát triển.
1. Trước hết, ta hãy quan sát sức ép thời gian đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhân loại biết đến xã hội công nghiệp bắt đầu từ đợt công nghiệp hoá đầu tiên thế kỷ 18. Từ đó đến nay, nhiều dân tộc đi lên xã hội công nghiệp thông qua nhiều đợt công nghiệp hoá với độ dài thời gian khác nhau. Nếu thời gian hoàn thành công nghiệp hoá đợt đầu tiên diễn ra ở nước Anh kéo dài khoảng 120 năm, thì để hoàn thành công nghiệp hoá đợt thứ tư với mấy con Rồng châu Á, thời gian rút ngắn lại chỉ còn khoảng 30 năm, đạt mức độ hiện đại hoá cao hơn.
Sở dĩ thời gian công nghiệp hoá ngày càng rút ngắn vì nước đi sau biết sử dụng các thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh nghiệm quản lý của nước đi trước và phát huy được lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị của mình. Những nước tiến hành công nghiệp hoá thất bại (ở châu Á, Mỹ Latinh...) cũng do nguyên nhân này ở mặt ngược lại.
Hiện nay nhiều nước bước vào công nghiệp hoá, trong đó có nước ta, trong không gian và thời gian khác trước: người ta dự kiến thời gian cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn lại khoảng vài thập kỷ, với chất lượng cao hơn về mọi mặt, đối với những nước phát huy được đầy đủ nội lực và ngoại lực.
Trong thời đại hiện nay, nước nào khi đã khởi động quá trình công nghiệp hoá, nếu không ý thức được sức mạnh và sức ép của thời gian thì thất bại nặng nề hơn, rơi vào tình trạng đói nghèo, nợ nần và hỗn loạn.
2. Nhân tố tác động đầu tiên với tiềm năng ngày càng lớn đối với rút ngắn thời gian là cách mạng khoa học - công nghệ. Theo ý kiến của giới nghiên cứu, khối lượng kiến thức mới 30 năm gần đây bằng khối lượng kiến thức loài người tích luỹ suốt 2.000 năm (hai ngàn) trước đó. Dự báo đến năm 2020, khối lượng kiến thức sẽ tăng 3 đến 4 lần so với hiện nay. Như vậy, tốc độ tăng trưởng về trí tuệ lớn hơn nhiều tăng trưởng kinh tế. Thời gian từ phát minh đến ứng dụng phổ biến ngày càng rút ngắn. Sự dồn dập ra đời các phát minh mới làm cho việc tiếp nhận và ứng dụng sớm vào thực tế trở thành khâu quan trọng nhất.
Tình hình đó đã chứng minh luận điểm của Mác dự báo rằng "khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp". Triển vọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay phụ thuộc vào thái độ đối với "lực lượng sản xuất trực tiếp" này.
3. Hiệu quả rút ngắn thời gian công nghiệp hoá của cách mạng khoa học - công nghệ lại biểu hiện chủ yếu trong cải cách kinh tế. Trong nửa sau thế kỷ XX, cùng với sự phát triển khoa học và công nghệ ngày càng cao (những năm 50 - 60, đầu thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 và trong những năm 90) người ta thấy những đợt khủng hoảng và cải cách cơ cấu kinh tế tương ứng. Ngày nay, cơ cấu kinh tế quốc dân các nước phát triển đã khác hẳn cơ cấu đại công nghiệp cơ khí trước đây. Hơn nữa, tỷ trọng mỗi lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ngày càng thay đổi. Hiện nay, tỷ trọng lĩnh vực nông nghiệp ở nước phát triển chỉ chiếm 3-2% GDP; tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp không tăng hoặc đang giảm, còn tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh, trên 60%, thậm chí hơn 72% (Mỹ). Ngày nay, các nước phát triển đã tạo ra khối lượng của cải lớn hơn nhiều với một chi phí thời gian ít hơn trước. Xu hướng rút ngắn ngày lao động trong tuần, giờ lao động trong ngày, bắt nguồn từ đó. Khi lượng thời gian nhàn rỗi tăng lên sẽ thúc đẩy mạnh mẽ lĩnh vực sản xuất văn hoá tinh thần, đáp ứng những nhu cầu mới của con người.
Sự phát triển công nghệ thông tin tạo ra khả năng to lớn cho việc tiết kiệm thời gian trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý thông qua cải cách liên tục tổ chức và thể chế quản lý. Tác động của xu hướng toàn cầu hoá và đòi hỏi của cạnh tranh đang thúc đẩy cải cách quản lý nhanh hơn, tốt hơn nữa, mà người ta hình dung như "một cuộc cách mạng trong quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh" dựa trên những tiêu chuẩn mới về nhân sự.
4. Tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và cải cách kinh tế trong việc rút ngắn thời gian lao động, tăng thêm thời gian tự do đã làm bộc lộ vai trò nhân tố con người và nhân tố tổ chứctrong việc rút ngắn thời gian. Do đó, đã tạo ra yêu cầu cải cách lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhân lực. Những nước phát triển đang tìm tòi phương thức giáo dục, đào tạo mới, trong đó hướng mạnh vào hệ thống tri thức liên ngành, phương pháp tư duy biện chứng nhằm tạo ra khả năng tự học và sáng tạo trong thực tiễn. Đây là nguồn nội lực cơ bản nhất và là tiềm năng giàu có một quốc gia. Sự tăng lên không ngừng của đội ngũ công nhân tri thức và khoa học, công nghệ là cơ sở bền vững nhất của tăng trưởng kinh tế trong cạnh tranh. Ngày nay, tiêu chí đánh giá một quốc gia văn minh là ở các chỉ số phát triển con người (HDI) của Liên Hợp quốc và tỷ trọng lao động tri thức, tầng lớp trung lưu trong dân cư. Vì vậy, trong hoạt động lãnh đạo, quản lý kinh tế và xã hội, sự thống trị của "chủ nghĩa kỹ trị" hay "chủ nghĩa hành chính quan liêu" đang kết thúc và đang mở ra thời kỳ của vận dụng khoa học và công nghệ thông tin ở tất cả các cấp quản lý vĩ mô và vi mô.
5. Tiết kiệm thời gian ngày càng có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội và cá nhân. Theo Mác, thì tiết kiệm thời gian là quy luật cơ bản của các xã hội công nghiệp. Bởi vì, sự giàu có ở đây không chỉ dựa trên thời gian lao động thặng dư, mà quan trọng hơn là dựa trên năng suất lao động thặng dư. Khi năng suất này xuất hiện tương đối phổ biến thì người ta biết rằng: xã hội đã thoả mãn yêu cầu đời sống vật chất và mở đầu sự giàu có về đời sống tinh thần. Ở ranh giới này chắc chắn sẽ nảy sinh sự cải tạo sâu sắc về phương thức sản xuất và phân phối. Đây là sức ép ngày càng tăng đối với các nước phát triển hiện nay.
Đối với nước bắt đầu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta thì vấn đề tiết kiệm thời gian còn ít được quan tâm. Khi đa số còn lo kiếm sống cho mình và gia đình bằng mọi cách thì vấn đề thời gian và sử dụng thế nào cho hợp lý chưa được đặt ra. Nhưng chính ở đây nhà lãnh đạo và quản lý các cấp có trách nhiệm về quỹ thời gian của lao động xã hội. "Làm công việc tốt hơn, trong một thời gian ngắn hơn" nên trở thành đòi hỏi trong đổi mới tổ chức và thể chế quản lý, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhân lực, trong cạnh tranh kinh tế và phát triển xã hội, văn hoá, trong đánh giá hiệu quả hoạt động của mỗi cá nhân và tổ chức.
Con đường để tiết kiệm thời gian có nhiều, nhưng đều dựa trên sự chuẩn bị về tri thức và phương pháp, dựa trên chính sách gắn quyền với trách nhiệm. Trong tình hình nước ta, cuộc cải cách hành chính nên chú ý cả hai hướng tiết kiệm thời gian: đối với một tổ chức và đối với cá nhân.
- Đối với một tổ chức, hiện nay bất cứ về tiêu chí nhân sự và biên chế, cơ cấu, cơ chế hành chính, lề lối làm việc, họp hành đều gây ra sự lãng phí quá lớn về thời gian. Có người nói: trước đây "một người làm việc bằng hai", bây giờ "hai người làm việc bằng một", thật đáng suy nghĩ đối với nhà quản lý. Sự tiết kiệm thời gian đối với một tổ chức hãy bắt đầu từ thủ trưởng. Thủ trưởng kém (và thường là quan liêu) là nguồn gốc gây ra lãng phí thời gian cho cả tổ chức. Cho nên đi đôi với đổi mới tổ chức, phải bố
trí đúng thủ trưởng thì mới đạt được năng suất và hiệu quả nhờ tiết kiệm thời gian.
- Đối với mỗi người,nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất các phương pháp tiết kiệm thời gian cho cá nhân. Trong đó, người ta coi trọng phương pháp tiếp cận nhiệm vụ đặt ra, trình tự giải quyết, phân phối thời gian hợp lý cho công việc, cho nghỉ ngơi, cần xử lý việc khó, việc quan trọng vào lúc có năng suất nhất, tạo thói quen chuẩn bị đầy đủ thông tin, tư liệu cho việc giải quyết một công việc nhất định v.v..
Đối với những người muốn làm việc tốt, muốn khẳng định mình thì tiết kiệm thời gian trở thành một phẩm chất quý giá, vượt lên trên nhận thức "thời gian là tiền bạc", mà hướng tới sự phát triển toàn diện của cá nhân mình và cộng đồng.
Hà Nội, ngày 26 tháng 3 năm 2010