Những góc nhìn Văn hoá

Bản tính tam nông - thực chất và tác động của nó đến sự biến đổi của con người, văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế

MỞ ĐẦU

Chủ đề của cuộc hội thảo khoa học này là "Những nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi của con người, văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với các giải pháp phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của những tác động đó". Tôi cho rằng nếu tiếp cận từ góc độ khu vực kinh tế - xã hội thì ta sẽ thấy sự tác động của khu vực tam nông (bao gồm các yếu tố nông dân, nông nghiệp, nông thôn) đến sự biến đổi của con người, văn hóa Việt Nam là rất cơ bản nếu không muốn nói là cơ bản nhất.

Bởi vì, cho đến ngày nay, dân số của khu vực tam nông ở nước ta vẫn còn chiếm tỷ lệ hơn 70% tổng số dân cả nước (năm 2007, dân số nông thôn chiếm 72,6%[1]), lao động nông nghiệp vẫn còn chiếm hơn 50% tổng lao động cả nước (năm 2007, lao động nông nghiêp chiếm 50,2% tổng lao động cả nước[2]). Tuy nhiên, đóng góp của kinh tế nông thôn vào GDP quốc gia chỉ khoảng 20% (năm 2007, GDP nông nghiệp chỉ chiếm 20,25% tổng GDP cả nước[3]); thu nhập bình quân đầu người khu vực tam nông thấp hơn thu nhập bình quân đầu người tính chung cả nước (năm 2007, các con số so sánh là 506.000đ/người so với 636.000đ/người[4]), chưa bằng một nửa so với khu vực đô thị (năm 2007, các con số so sánh là 506.000đ/người so với  1.058.000đ/người[5]). Như vậy, Xã hội Việt Nam cho đến ngày nay về cơ bản vẫn là một xã hội mang nặng căn tính tam nông nghèo khổ, chậm phát triển.

Bài viết của tôi sẽ bàn về tính hai mặt mâu thuẫn mà thống nhất của bản tính tam nông, từ đó có thể thấu hiểu được tính hai mặt mâu thuẫn mà thống nhất của những tác động gây ra bởi các nhân tố tam nông đến sự biến đổi của con người, văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó ta sẽ thấy rõ sự cần thiết phải có các giải pháp kép nhằm phát huy mặt tích cực (phù hợp với mục tiêu phát triển lành mạnh, bền vững và thúc đẩy tiến bộ xã hội) và khắc phục mặt tiêu cực (cản trở tiến bộ xã hội hoặc đi chệch hướng mục tiêu phát triển lành mạnh, bền vững) của những tác động đó.

I. VỀ BẢN TÍNH TAM NÔNG

1.1. Bản tính đơn hay bản tính kép?

1.1.1. Tiếp cận đơn giản hóa

Người ta liệt kê nhiều đặc trưng cơ bản của bản tính tam nông Việt Nam , như kinh tế tiểu nông, "biển tiểu nông" (Trần Từ, 1984)[6], cần cù lao động, tự cung tự cấp (hay tự cấp tự túc), nghèo nàn, lạc hậu, con người "tiểu kỷ" (Trần Đình Hượu, 1995)[7], cố kết cộng đồng làng - xã, khép kín, tương thân tương ái, biến đổi chậm chạp, v.v...

Có cả xu hướng quy giản về một đặc tính cơ bản nhất. Chẳng hạn như "tính thuần nông" (Đặng Kim Sơn, 2008)[8], "nền kinh tế đạo đức" (James Scott, 1976)[9], con người, văn hóa "duy tình" (Trần Quốc Vượng, 1997)[10], v.v... Tuy nhiên, cách tiếp cận quy giản này đã gây ra tranh cãi rộng lớn và dai dẳng, có tác dụng 2 mặt: một mặt gây rắc rối cho quá trình làm sáng tỏ bản chất của xã hội tam nông; song mặt khác tạo ra động lực cho công cuộc đổi mới tư duy nghiên cứu về bản tính tam nông và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, sự phát triển con người và văn hóa Việt Nam nói riêng.    

1.1.2. Tiếp cận phức hợp

Jan Breman (1995)[11]đã phê phán mạnh mẽ những định kiến của giới học giả phương Tây về những đặc trưng phổ biến của làng - xã ở châu Á trước thời thuộc địa, hay nói khác đi là những hằng số lịch sử của truyền thống làng - xã Á châu; đó là: 1- Tự trị về mặt chính trị, 2- Tự túc về mặt kinh tế, 3- Đồng thuận về mặt xã hội, 4- Cộng đồng khép kín này bất biến một cách dai dẳng. Ông cho rằng có nhiều bằng chứng cho tình trạng đối/hợp logic đặc trưng của làng - xã thời kỳ tiền thuộc địa. Đó là các cặp đối/hợp logic khái niệm về làng - xã châu Á như: 1- Cô lập, Khép kín hoặc/và Liên thông, Mở cửa; 2- Tự cung Tự cấp hoặc/và Kinh tế Thị trường; 3- Đồng thuận hoặc/và Xung đột; 4- Bất biến hoặc/và Biến đổi... 

Cách tiếp cận đơn giản hóa hay quy giản đã gặp nhiều rắc rối khi phải đối mặt với tình trạng đấu tranh giữa các quan điểm đối lập, thậm chí loại trừ lẫn nhau. Kết quả đã tạo ra các đối/hợp logic khái niệm về tam nông như, "thuần nông hoặc/và không thuần nông", "kinh tế đạo đức hoặc/và kinh tế chính trị", "duy tình hoặc/và duy lý", v.v... và đi liền theo đó là các song đề lý thuyết về tam nông như, "chủ thuyết dân túy hoặc/và chủ thuyết phản dân túy", "chủ thuyết kinh tế đạo đức hoặc/và chủ thuyết kinh tế chính trị", "chủ thuyết duy tình hoặc/và chủ thuyết duy lý", v.v...

Từ hướng tiếp cận hệ thống, phức hợp người ta đã tìm cách khắc phục hạn chế của cách tiếp cận đơn giản hóa hay quy giản khi cố gắng làm sáng tỏ bản tính con người, văn hóa Việt Nam nói chung, bản tính tam nông nói riêng. Chẳng hạn như, cho rằng bản sắc của văn hóa Việt Nam (từ đó suy ra bản tính văn hóa tam nông Việt Nam) là hài hòa thiên về âm tính (Trần Ngọc Thêm, 1996)[12]. Điều đó có nghĩa rằng bản tính của tam nông Việt Nam không quy giản về duy tình, duy cảm, duy nghĩa, cũng không quy giản về thuần nông hoặc về kinh tế đạo đức, mà là hỗn hợp (hỗn dung) hay dung hợp (dung hòa) trọng nông hơn là phi nông, trọng tự cung tự cấp hơn thị trường, trọng tình hơn lý, trọng đạo đức hơn là chính trị (pháp lý)...Như vậy, bản tính của tam nông Việt Nam không đơn giản mà là phức hợp. Đặc trưng cơ bản của tính phức hợp này là bản tính kép: hỗn hợp nông và phi nông, tự túc và thị trường, tình và lý, đạo đức và pháp luật, v.v...

1.1.3. Tiếp cận khinh - trọng

Tiếp cận phức hợp khắc phục được hạn chế của tiếp cận đơn giản hóa (hay trong trường hợp cực đoan là tiếp cận quy giản). Tuy nhiên, tiếp cận phức hợp cũng không thoát khỏi hạn chế. Thứ nhất nó đã làm lu mờ nếu không muốn nói là thủ tiêu hạt nhân hợp lý của tiếp cận quy giản. Thứ hai vô hình trung nó đã xóa bỏ một kiểu "duy cũ" và thay thế bằng một kiểu "duy mới"; bởi vì duy trì mãi thế trọng âm tính, trọng tĩnh, trọng tình, trọng nông, trọng đạo đức, v.v...mà không có đối trọng thì đồng nghĩa với tình trạng thái âm, thuần nông, duy tình, duy nghĩa, v.v...

Tôi đề xuất tiếp cận khinh - trọng[13]nhằm khắc phục hạn chế của tiếp cận quy giản và cả tiếp cận phức hợp nêu trên. Theo quan điểm lý thuyết khinh - trọng thì bản tính của tam nông Việt Nam là phân biệt hoặc/và không phân biệt, điều chỉnh hoặc/và không điều chỉnh, thay đổi hoặc/và không thay đổi khinh - trọng nông/phi nông. Bản tính phân biệt hoặc/và không phân biệt nông/phi nông có ít nhất 5 loại khung mẫu biểu hiện: 1- Hai khung mẫu phân biệt khinh - trọng thái quá, đó là KM1= Khung mẫu thuần nông, và KM2= Khung mẫu phi nông hoàn toàn (chuyên công nghiệp hoặc/và dịch vụ); 2- Hai khung mẫu phân biệt khinh - trọng có mức độ vừa phải, bao gồm KM3= Khung mẫu hỗn hợp trọng nông hơn là phi nông, và KM4= Khung mẫu hỗn hợp trọng phi nông hơn là nông; 3- Một loại khung mẫu không phân biệt khinh - trọng, trong đó có khung mẫu cân bằng khinh - trọng nông/phi nông theo nghĩa 50/50. Lịch sử tam nông là lịch sử phân biệt hoặc/và không phân biệt, điều chỉnh hoặc/và không điều chỉnh, thay đổi hoăc/và không thay đổi khinh - trọng nông/phi nông.

Từ hướng tiếp cận khinh - trọng, ta có thể hóa giải các song đề lý thuyết về bản tính tam nông một cách hợp lý, hợp tình hơn so với các cách tiếp cận khác. Chẳng hạn như về song đề lý thuyết kinh tế đạo đức (Jemes Scott, 1976) hoặc/và lý thuyết kinh tế chính trị (Samuel L. Popkin, 1979)[14]. Theo nhận định của Chovanes A.B (1986)[15]thì cả hai quan điểm lý thuyết nêu trên đều không thích hợp đối với nông dân Việt Nam trong truyền thống lịch sử cũng như trong thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến. Lý do là vì 1- Cộng đồng đạo đức - kinh tế không hoàn toàn quy định hành vi cá nhân, 2- Người nông dân hợp lý - kinh tế thị trường ngay cả ở Nam Bộ chưa định hình rõ nét. Tuy nhiên, Đào Thế Tuấn (1997)[16]lại có nhận định khác hẳn, khi Ông cho rằng cả hai quan điểm lý thuyết nêu trên đều có thể vận dụng vào tam nông Việt Nam, chỉ có điều phải tính đến tình hình cụ thể về không gian, thời gian và loại hình cộng đồng làng - xã để có thể lựa chọn lý thuyết phu hợp. Bởi vì, hai lý thuyết nêu trên không hoàn toàn mâu thuẫn loại trừ nhau mà chỉ là sự phân tích ở hai cấp độ khác nhau. Popkin phân tích sự tính toán chi phí và lãi suất ở cấp độ ra quyết định cá nhân, trong khi đó Scott cho rằng các hành động cá nhân có một hệ thống các giá trị văn hóa hạn chế các động cơ cá nhân và bù lại lợi ích cá nhân thuần túy. Trong xã hội nông thôn cả hai quá trình trên đều song song tồn tại, chẳng hạn như quá trình tư hữu hóa, phân hóa sở hữu ruộng đất và quá trình bảo vệ, phục hồi ruộng công. Quan điểm của Đào Thế Tuấn tuy không có diễn ngôn khinh - trọng, song thực chất theo quan điểm lý thuyết khinh - trọng, vì đã thừa nhận hạt nhân hợp lý của các lý thuyết đối lập, loại trừ lẫn nhau. Tuy nhiên, Ông đã không nhận thấy ra các tiếp cận trung gian giữa hai đối cực cũng có hạt nhân hợp lý. Theo tôi, Lý thuyết kinh tế đạo đức của J. Scott phù hợp với bản tính cổ truyền của tam nông Việt Nam, còn Lý thuyết kinh tế chính trị của S. L. Popkin phù hợp với bản tính truyền thống lịch sử về sau của tam nông Việt Nam. Thực ra, bản tính lịch sử của tam nông Việt Nam không ưa chuộng "duy tình", cũng không ưa chuộng "duy lý" mà ưa chuộng hỗn dung văn hóa - văn minh. Do đó, các quan điểm tổng - tích hợp hạt nhân hợp lý của hai quan điểm lý thuyết kinh tế đạo đức và lý thuyết kinh tế chính trị tỏ ra phù hợp hơn. Như vậy, sẽ có hai quan điểm lý thuyết phù hợp hơn với bản tính tam nông Việt Nam, đó là Lý thuyết kinh tế trọng đạo đức hơn chính trị và Lý thuyết kinh tế trọng chính trị hơn đạo đức. Hai quan điểm lý thuyết này không đối đầu mà chỉ đối trọng với nhau. Ngoài ra, còn một quan điểm lý thuyết nữa không thừa nhận đối đầu và cả đối trọng mà chỉ thừa nhận thế ứng xử không cần phân biệt khinh - trọng đạo đức/chính trị, nghĩa là chấp nhận cả hai. Một thế ứng xử thường được mệnh danh là thế ứng xử nước đôi của con người và xã hội nông thôn. Phan Ngọc (1994)[17]về thực chất đã có quan niệm này khi cho rằng bản sắc văn hóa Việt Nam là ở biệt tài Bricolage (lai ghép) trong tiếp biến văn hóa -văn minh. Điều đó có nghĩa rằng bản tính cổ truyền của tam nông Việt Nam là trọng nông, trọng tình, trọng đạo đức đã lai ghép với một đặc tính mới là trọng công, thương - dịch vụ, trọng lý, trọng chính trị và trở thành một bản tính kép mang tính mâu thuẫn mà thống nhất nông/phi nông, tự túc/thị trường, tình/lý, đạolý/pháp lý...          

1.2. Tác động tích cực hay tiêu cực?

1.2.1. Tiếp cận đơn giản hóa

Các phương tiện thông tin đại chúng ra sức ca ngợi những thành tựu ngoạn mục của thời kỳ đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của ĐCSVN và sự quản lý tài tình của Nhà nước Việt Nam do ĐCSVN cầm quyền. Sự thực thì những đóng góp của tam nông cho công cuộc đổi mới rất đáng được tuyên dương. Tam nông đã đi tiên phong trong công cuộc đổi mới. Nghị quyết 10 (1988) của Bộ chính trị BCHTW ĐCSVN là đột phá khẩu đầu tiên của quá trình đổi mới kinh tế - xã hội nông thôn và cũng là của quá trình đổi mới kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung. Và sau 10 năm đổi mới mức sống trung bình của toàn xã hội đã tăng lên gấp đôi; 10 năm tiếp theo, mức sống trung bình của toàn xã hội cũng tăng lên gấp đôi. Tam nông trong quá trình đổi mới về cơ bản đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, đóng góp đáng kể vào sự gia tăng năng lực xuất - nhập khẩu hàng hóa của đất nước ta khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế. Xã hội tam nông duy trì được truyền thống đạo đức, lành mạnh đã đề kháng tốt đối với sự lây nhiễm tràn lan của các tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng theo đà tăng trưởng nhanh của thị trường, đô thị hóa và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, nếu các quan chức thường ưa thích sự tán dương thành tựu đổi mới do họ lãnh đạo và quản lý thì các nhà nghiên cứu ra sức chỉ ra những hạn chế, những mâu thuẫn, những vấn đề xã hội nảy sinh, bức xúc, nan giải của công cuộc đổi mới. Mặt trái của tấm huân chương không dễ chịu một tí nào. Trong hơn 20 năm đổi mới (1986 - 2007), ngành nông nghiệp luôn tụt hậu so với công nghiệp và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị sản lượng  nông, lâm, ngư nghiệp chỉ đạt 5,8%/năm, trong khi đó GDP lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh hơn với tốc độ bình quân 7%/năn, GDP lĩnh vực công nghiệp tăng nhanh hơn cả với tốc độ bình quân 8,94%/năm[18]. Tình trạng tụt hậu này trong tăng trưởng kinh tế nông nghiệp đã có tác dụng kiềm chế tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân. Thực ra đây là hạn chế cơ bản của kinh tế nông nghiệp nói riêng, của kinh tế nông thôn nói chung. Trong lịch sử kinh tế, chưa bao giờ và cũng chưa thấy ở đâu tốc độ tăng trưởng của kinh tế nông nghiệp có thể đạt bằng (chưa nói là hơn) tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng chung của nước ta bị kiềm chế chủ yếu là do kinh tế nông thôn nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng không thể tăng trưởng nhanh hơn được. Đáng lo ngại là trong những năm gần đây, tăng trưởng nông nghiệp chậm lại rõ rệt. Nếu trong giai đoạn 1995 - 2000, tốc độ tăng GDP nông nghiệp là 4% thì trong giai đoạn tiếp theo 2000 - 2005 giảm xuống còn 3,7%, năm 2006 còn 2,8% và năm 2007 chỉ còn 2,3%[19]. Tình trạng xuống dốc này khó cưỡng lại do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang lây lan tới hang cùng ngõ hẻm của xã hội nông thôn.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tam nông rất chậm: cho đến nay nông nghiệp vẫn chiếm 68% tỷ trọng kinh tế nông thôn, đóng góp 79% cơ cấu kinh tế hộ nông thôn; lúa vẫn chiếm 55% diện tích gieo trồng, cung cấp 75% năng lượng dinh dưỡng, đóng góp 15% cho xuất khẩu và là nguồn sống quan trọng của 80% hộ nông dân; tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ nông thôn chậm, không đáp ứng yêu cầu tăng nhanh việc làm và thu nhập cho nông dân[20].

Đói nghèo tập trung ở khu vực tam nông, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số. Có đến 90% hộ nghèo tập trung ở khu vực tam nông[21]. Đây là gánh nặng to lớn nhất mà nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội phải chịu đựng và phải tìm cách khắc phục trong các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm xóa đói giảm nghèo.

Theo dự báo của tác giả Đặng Kim Sơn, nếu tiếp tục đổi mới tam nông như hiện nay thì tăng trưởng nông nghiệp sẽ tiếp tục giảm, sẽ cản trở công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nông dân sẽ không thoát được nghèo khổ và trong xã hội nông thôn sẽ xuất hiện rất nhiều mâu thuẫn nan giải, đe dọa ổn định xã hội và nước ta sẽ không đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững[22]. Xem các biểu đồ 16, 17, 18  trong sách đã dẫn để sáng tỏ thêm.

Biểu đồ 16: Tương lai nông nghiệp Việt Nam nếu tiếp tục phát triển theo xu hướng hiện nay (tr. 174)

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        

Biểu đồ 17: Tương lai nông thôn và đô thị Việt Nam nếu tiếp tục phát triển theo xu thế hiện nay (tr. 176)

 

Biểu đồ 18: Tương lai nông dân Việt Nam nếu tiếp tục phát triển theo xu thế hiện nay (tr. 177) 

 

 1.2.2. Tiếp cận phức hợp

Nghị quyết 07 (8 - 2008) của BCHTW ĐCSVN khóa X đã có một cách tiếp cận phức hợp trong khi đánh giá toàn diện mặt thành tựu và cả mặt hạn chế của công cuộc đổi mới tam nông và tác động của nó đối với toàn xã hội như sau: "Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc".

Một câu hỏi được đặt ra: Thành tựu là chủ yếu hay hạn chế là chủ yếu? rất khó tìm được câu trả lời duy nhất với sức thuyết phục cao. Một cách tương ứng, rất khó tìm lời giải đáp duy nhất đúng đắn cho câu hỏi: Tác động nào là chủ yếu, tích cực hay là tiêu cực?. Vấn đề là ở chỗ tiến bộ của khu vực tam nông thực chất chỉ là so sánh với chính nó trước thời kỳ đổi mới. Còn nếu đem so sánh với tiến bộ của khu vực công nghiệp và đô thị thì đáng tiếc là càng ngày càng bị tụt hậu xa hơn. Ngay cả đối với tiến bộ của tam nông ở các nước phát triển thì sự tiến bộ của tam nông Việt Nam trong thời kỳ đổi mới vừa qua cũng chưa thể sánh kịp.

Hơn thế nữa, ngay trong thành tựu đổi mới vẫn có nhiều hạn chế và ngay trong tác động tích cực lại có nhiều tiêu cực. Rất đáng tiếc là thành tựu đổi mới của tam nông rơi vào hội chứng thành tích số lượng bất chấp chất lượng, thành tích mở rộng quy mô, phô trương hình thức bất chấp hiệu quả, thực tế. Và những tác động tích cực của tam nông thường có mặt trái của chúng là làm nảy sinh các vấn đề xã hội nan giải. Chẳng hạn như, dòng người di dân và di chuyển lao động từ nông thôn vào thành phố kiếm việc làm, tăng thu nhập có tác dụng tích cực không chỉ đối với khu vực nông thôn là mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao mà cả đối với khu vực đô thị và công nghiệp nơi có nhu cầu sử dụng nguồn lao động mới để phát triển sản xuất và mở mang dịch vụ; tuy nhiên mặt trái của nó quá lớn: nông thôn mất nguồn nhân lực trẻ, khỏe, tinh nhuệ, có thể nói là "chảy máu chất xám"; còn tại đô thị thì hệ thống quản lý trật tự, an ninh xã hội hầu như không thể kiểm soát được các đối tượng "nông dân công" này, do đó tiềm ẩn bất ổn định xã hội rất lớn. Hay như tăng trưởng nông nghiệp góp phần phát triển tam nông, đảm bảo an toàn lương thực cho toàn bộ xã hội, gia tăng năng lực xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản; tuy nhiên, hội chứng tăng năng suất nông nghiệp và bảo quản thực phẩm bằng các hóa chất độc hại đã làm cho tam nông và cả xã hội rơi vào rủi ro, không bảo vệ được sức khỏe con người và cộng đồng. Tương tự như vậy, ô nhiễm môi trường gia tăng là mặt trái không mong muốn một tí nào khi nông dân ra sức phát triển tiểu thủ công nghiệp trong các hộ nghề và làng nghề nhằm gia tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống. Hành động tham gia biểu tình tập thể, vượt cấp của nông dân do bất mãn với tình trạng bất công trong giải tỏa, đền bù giá đất khi giải phóng mặt bằng để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới hoặc là do phản đối tình trạng tham nhũng, cửa quyền, làm mất dân chủ ở các địa phương, cơ sở xã - thôn có tác động tích cực ở chỗ phê phán, chống đối các tệ nạn xã hội và tội phạm nhởn nhơ trước vòng pháp luật. Tuy nhiên, mặt trái của nó là làm gia tăng xung đột xã hội, gây mất ổn định xã hội. 

1.2.3. Tiếp cận khinh - trọng

Tiếp cận khinh - trọng có khả năng khắc phục hạn chế của cách tiếp cận quy giản và cả cách tiếp cận phức hợp nêu trên bằng cách đưa thêm vào nguyên lý tương đối khi quán triệt các nguyên lý như, nguyên lý bổ sung, nguyên lý thống nhất trong đa dạng và nguyên lý phát triển. Tam nông Việt Nam trong truyền thống cũng như ngày nay không ưa chuộng thế ứng xử cực đoan, thái quá (tuy nhiên không cự tuyệt hoàn toàn các quan điểm duy/vị cực đoan) mà ưa chuộng hỗn dung văn hóa - văn minh. Do đó tác động của các yếu tố tam nông đến sư biến đổi của con người và văn hóa cũng mang đặc tính khinh - trọng có mức độ vừa phải: hoặc tích cực là chủ yếu hoặc tiêu cực là chủ yếu. Qua trình điều chỉnh hoặc thay đổi tác động có tính nghiêng lệch này là quá trình điều chỉnh hoặc thay đổi khinh - trọng tích cực/tiêu cực. Đương nhiên không loại trừ thế ứng xử không phân biệt khinh - trọng tích cực/tiêu cực với các mức độ cao - thấp khác nhau, trong đó có thế ứng xử cân bằng nửa nọ nửa kia (50% tích cực/50% tiêu cực).

Vậy thì tóm lại, tác động của tam nông đến sự biến đổi của con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới vừa qua có đặc điểm gì? Theo tôi, trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới tam nông (1988 - 1998), tác động tích cực là chủ yếu vì nói chung nó phù hợp mục tiêu phát triển lành mạnh, bền vững (dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện đại hóa) và nó góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đáng tiếc, trong 10 năm tiếp theo (1999 - 2009), tác đông tiêu cực lại là chủ yếu vì nói chung nó kiềm chế, cản trở tiến bộ xã hội và đi chệch hướng phát triển lành mạnh, bền vững toàn diện kinh tế, xã hội và môi trường. Tình trạng của tam nông Việt Nam hiện nay không đến nỗi bi kịch như tam nông Trung Quốc sau hơn 30 năm cải cách, mở cửa; tuy nhiên đang có nguy cơ sẽ rơi vào tình trạng bi đát đó: "Nông dân thật khổ, Nông thôn thật nghèo, Nông nghiệp thật nguy hiểm" (Lý Xương Bình, 2008)[23]; "Nông nghiệp là ngành nghề yếu thế, Nông thôn là khu vực yếu thế, Nông dân là quần thể yếu thế" (Lục Học Nghệ, 2008)[24].

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC VÀ KHẮC PHỤC MẶT TIÊU CỰC DO NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ TAM NÔNG

2.1. Giải pháp điều chỉnh đổi mới tam nông nhằm giảm trừ tác động  tiêu cực

Bài học kinh nghiệm của giải pháp điều chỉnh cải cách tam nông nhằm giảm trừ tác động tiêu cực của ĐCS, Nhà nước và Nhân dân Trung Quốc hiện nay là "Biến tam nông từ địa vị yếu thế trở nên mạnh hóa"[25]; muốn thế phải tập trung sức giải quyết tốt "vấn đề tam nông" xoay quanh 5 nội dung chính sau: 1- Tiền (tăng thu nhập cho nông dân), 2- Đất (hạn chế chiếm dụng đất canh tác của nông dân), 3- Lương (đảm bảo an ninh lương thực của tam nông nói riêng và của quốc gia nói chung), 4- Người (đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tam nông và cho xã hội nói chung), 5- Quyền (đảm bảo các quyền của nông dân và của công dân nói chung)[26].

Nghị quyết 07 (8- 2008) của BCHTW ĐCSVN khóa X cũng đã nhấn mạnh "Những nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện tới năm 2010" trong lĩnh vực điều chỉnh đổi mới tam nông là:

1- Hoàn thành cơ bản việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, khu công nghiệp và quy hoạch chuyên ngành theo vùng. Triển khai nhanh công tác quy hoạch xây dựng nông thôn gắn với quy hoạch phát triển đô thị.

2- Hoàn thành sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, Luật Ngân sách Nhà nước và các Luật khác có liên quan. Bổ sung, hoàn thiện các chính sách về tăng cường nguồn lực cho nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn.

3- Đảm bảo tiến độ các công trình xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai; thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng; khống chế, dập tắt kịp thời các dịch bệnh nguy hiểm đối với gia súc, gia cầm, thuỷ sản và cây trồng. Tăng cường công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nhân lực ở nông thôn.

4- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn nông thôn, nhất là xoá đói, giảm nghèo ở các huyện, xã có tỉ lệ hộ nghèo trên 50%. Khắc phục nhanh những vấn đề bức xúc ở nông thôn, trước hết là những tồn tại liên quan tới vấn đề thu hồi đất. Triển khai chương trình “xây dựng nông thôn mới”, trong đó thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng đi trước một bước.

5- Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn nông thôn; củng cố bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp.

Theo tôi hiện nay có không dưới 10 vấn đề xã hội nảy sinh, bức xúc, nan giải cần phải tập trung lực lượng của Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân sự hiệp đồng tác nghiệp may ra mới giải quyết tốt đẹp. Những vấn đề đó là: 1- Phân hoá giàu – nghèo và bất bình đẳng xã hội ở khu xã tam nông có chiều hướng gia tăng; 2- Thiếu việc làm và thất nghiệp ở khu xã tam nông có chiều hướng gia tăng; 3- Mất đất canh tác, giải tỏa đền bù không công bằng gây bất bình lớn trong nhân dân nông thôn; 4- Quy mô dân số lớn, tỉ lệ sinh đẻ cao và chất l­ượng dân số thấp kém ở khu xã tam nông; 5- Di dân nông thôn - đô thị, nông nghiệp – công nghiệp và tình trạng suy giảm năng lực tinh nhuệ ở khu xã tam nông; 6- Dịch vụ giáo dục, đào tạo thấp kém ở khu xã tam nông; 7- Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ thấp kém ở khu xã tam nông; 8- Tình trạng mất đoàn kết và xung đột xã hội ở khu xã tam nông có chiều hướng gia tăng; 9- Đời sống văn hoá, đạo đức ở khu xã tam nông có nhiều biểu hiện biến chất, tiêu cực, xuống cấp; 10- Tệ nạn xã hội và tội phạm ở khu xã tam nông có chiều hướng gia tăng; 11- Hệ thống an sinh xã hội yếu kém và không đồng bộ ở khu xã tam nông; 12- Năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội nông thôn yếu kém, nhất là cấp cơ sở xã/thôn rất thấp kém; 13- Kết cấu hạ tầng rất thấp kém ở khu xã tam nông; 14- Ô nhiễm và suy thoái môi trường ở khu xã tam nông có chiều hướng gia tăng mạnh; 15- Tình trạng đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh và thiếu quy hoạch tổng thể tác động rất tiêu cực đến toàn bộ khu xã tam nông.

2.2. Giải pháp xây dựng mẫu hình tam nông kiểu mới nhằm gia tăng tác động tích cực

Nghị quyết 07 (8 - 2008) của BCHTW ĐCSVN khóa X đã đề ra 7 nhiệm vụ và giải pháp xây dựng tam nông mới từ nay đến 2020. Các nhiệm vụ và giải pháp cơ bản, đó là: 1- Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; 2-   Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị; 3- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn; 4- Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn; 5- Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn; 6- Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân; 7- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.

Giải pháp quan trọng nhất là giải pháp xây dựng mẫu hình tam nông kiểu mới,nó sẽ có tác dụng 2 mặt giống như một mũi tên cùng một lúc bắn trúng 2 đích: một mặt sẽ tạo ra trình độ mới của khu vực tam nông phù hợp mục tiêu phát triển lành mạnh, bền vững nghĩa là sẽ gia tăng tác động tích cực của tam nông; và mặt khác sẽ đủ sức khắc phục những vấn đề xã hội nảy sinh, bức xúc nghĩa là làm giảm tác động tiêu cực của các yếu tố tam nông đến sự phát triển của con người và văn hóa Việt Nam hướng tới tương lai tốt đẹp.

Tác giả Đặng Kim Sơn[27]cho rằng nếu nước ta biết cách học tập kinh nghiệm thế giới thì tương lai của tam nông Việt Nam sẽ rất tốt đẹp và đương nhiên sẽ gia tăng đóng góp tích cực cho tiến trình phát triển lành mạnh, bền vững của Xã hội Việt Nam. Các biểu đồ 20, 21, 22 sẽ làm sáng tỏ thêm nhận định đó.

Biểu đồ 20: Tương lai nông nghiệp Việt Nam nếu học tập được kinh nghiệm  thế giới (tr. 181)

 

Phá bẫy "quy mô sản xuất nhỏ"

 

Chấm dứt "coi nhẹ nông nghiệp"

 

Phát triển

Khoa học kỹ thuật

 

Biểu đồ 21: Tương lai nông dân Việt Nam nếu học tập được kinh nghiệm thế giới (tr. 184)

Chuyên môn hóa lao động

 

Tổ chức nông dân

 

Chuyên môn hóa nông dân

 

Biểu đồ 22: Tương lai nông thôn, đô thị Việt Nam nếu học tập được kinh nghiệm thế giới (tr. 187)

Đưa thành phố về nông thôn

 

Đưa công nghiệp về nông thôn

 

Phát triển cộng đồng nông thôn

Trong dự báo mô hình phát triển tam nông Việt Nam kiểu mới nêu trên của tác giả Đặng Kim Sơn có nhiều hạt nhân hợp lý, quán triệt được phần nào những tính quy luật chung của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như chuyển đổi kép, mô hình chữ U[28]. Tuy nhiên, thế nào là "được tổ chức tốt"? thì đây là vấn đề còn bỏ ngỏ! Vấn đề này liên quan chặt chẽ với xu hướng đổi mới quản lý phát triển xã hội nói chung, quản lý xã hội nông thôn nói riêng. Ngoài ra, thiếu sót lớn của mô hình dự báo nêu trên là chỉ tính đến tình trạng đối/hợp nông dân hoặc/và phi nông dân, nông nghiệp hoặc/và phi nông nghiệp trong nội bộ hệ thống tam nông; do đó, đã bỏ qua tình trạng đối/hợp nông thôn hoặc/và phi nông thôn nghĩa là thiếu hụt quan điểm liên - xuyên hệ thống giữa tam nông (nông dân, nông nghiệp, nông thôn) và phi tam nông (công nhân/thị dân, công nghiệp/dịch vụ, khu công nghiệp/vùng đô thị). Bằng chứng là trong các biểu đồ nêu trên tác giả đã chủ trương một chiều "đưa thành phố về nông thôn", "đưa công nghiệp về nông thôn", nghĩa là đã bỏ qua sự tương tác qua lại giữa nông thôn và đô thị, giữa nông nghiệp và công nghiệp trong hệ thống xã hội tổng thể chứ không phải chỉ trong hệ thống tam nông; vai trò rất quan trọng nếu không muốn nói là có tính quyết định của Nhà nước đã không được tính đến và sự hỗ trợ quốc tế (mà thiếu sự trợ giúp quốc tế này thì Nhà nước không đủ nguồn lực để hỗ trợ tam nông) cũng đã bị bỏ qua. Bài toán phát triển tam nông lành mạnh, bền vững không thể giải quyết thành công nếu thiếu quan điểm liên - xuyên hệ thống đối/hợp tam nông hoặc/và phi tam nông. Bởi lẽ, tam nông trong bản tính của nó cùng lắm chỉ đảm bảo sinh kế bền vững, chưa bao giờ tự lực phát triển nếu thiếu hỗ trợ từ phía Nhà nước, thiếu liên thông liên kết với khu vực công nghiệp và đô thị, thiếu tài trợ quốc tế.

Nghị quyết 07 (8 - 2008) của BCHTW ĐCSVN khóa X về thực chất đã có quan điểm liên - xuyên hệ thống đối/hợp tam nông/phi tam nông khá rõ nét khi xác định các quan điểm phát triển tam nông từ nay đến 2020 như sau: "1- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước; 2- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt; 3- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân; 4- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân".

Tuy nhiên thế nào là "Tam nông mới" vẫn còn là vấn đề cần được tiếp tục bàn luận để sáng tỏ. Các văn kiện chính thức của ĐCSTQ và ĐCSVN về cơ bản nhất trí với nhau ở chủ trương "xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa" là phương hướng cơ bản giải quyết "vấn đề tam nông"[29]. Theo Tôi, phải nói chính xác hơn là "xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa kiểu mới"; bởi vì mô hình nông thôn xã hội chủ nghĩa kiểu cũ trong thời kỳ bao cấp xã hội chủ nghĩa đã thất bại trước khi TQ bước vào công cuộc cải cách, mở cửa và Việt Nam bước và quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Thách thức rất lớn. Bởi vì, mẫu hình nông thôn tư bản chủ nghĩa kiểu mới đã được xây dựng thành công trong đời sống hiện thực ở các nước phát triển; còn mẫu hình nông thôn định hướng cân bằng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng khá thành công ở một số nước đang phát triển (chẳng hạn như ở các nước NICS), trong khi mẫu hình nông thôn xã hội chủ nghĩa kiểu mới vẫn chưa được hoàn thiện trong tư duy mới của các ĐCS cầm quyền. Tuy nhiên, cơ hội cũng rất lớn. Mẫu hình nông thôn XHCN kiểu mới sẽ là mẫu hình đối trọng với mẫu hình nông thôn TBCN kiểu mới. Một khả năng hợp lý (phù hợp quy luật phát triển theo hướng đa dạng hóa văn hóa - văn minh) và hợp tình (phù hợp nguyện vọng của ĐCS đang cầm quyền và của những người dân đang ủng hộ đường lối xây dựng CNXH kiểu mới do ĐCS cầm quyền đề xướng).

Theo quan điểm lý thuyết khinh - trọng thì cả 3 mẫu hình nêu trên đều có hạt nhân hợp lý, hợp tình; chúng có thể cùng tồn tại và cạnh tranh lành mạnh với nhau vì mục tiêu phát triển lành mạnh, bền vững. Ngoài ra, 2 mẫu hình cổ điển (mẫu hình nông thôn định hướng TBCN kiểu cũ và mẫu hình nông thôn định hướng XHCN kiểu cũ) do khinh - trọng thái quá nên đã từng đối kháng với nhau, không bị từ bỏ hoàn toàn mà vẫn có thể tiếp tục đi vào tương lai với những quy mô nhỏ lẻ và kém bền vững hơn so với 3 mẫu hình phi cổ điển nêu trên.

Từ đó suy ra rằng mẫu hình tam nông XHCN kiểu mới sẽ không phải là phương án duy nhất của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam; bởi vì đó chỉ là sự lựa chọn chiến lược phát triển tam nông của ĐCSVN với tư cách là Đảng cầm quyền nhà nước Việt Nam đương đại chứ không phải là sự lựa chọn của toàn dân. Các mẫu hình tam nông TBCN kiểu mới, mẫu hình tam nông định hướng cân bằng CNTB và XHCN sẽ được du nhập vào Việt Nam; mẫu hình tam nông định hướng TBCN kiểu cũ đang được du nhập vào Việt Nam một cách bất hợp pháp và mẫu hình tam nông định hướng XHCN kiểu cũ vẫn còn tồn tại dai dẳng ở khu vực tam nông, nhất là ở vùng nông thôn nghèo đói, dễ bị tổn thương.

KẾT LUẬN

Bản tính của tam nông Việt Nam là ưa chuộng hỗn dung văn hóa - văn minh, tuy nhiên nó không loại trừ hoàn toàn các khả năng lựa chọn khác như có lúc, có nơi, có những khuynh hướng tỏ ra cực đoan, thái quá. Tác động của các nhân tố tam nông đến sự biến đổi của con người, văn hóa Việt Nam trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (1988 - 1998) nhìn chung là tích cực; song đáng tiếc trong 10 năm tiếp theo (1999 - 2009) chủ yếu là tiêu cực, do có nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, bức xúc, nan giải. Từ đó nảy sinh yêu cầu cấp bách là phải xây dựng mẫu hình tam nông kiểu mới để có thể một mặt khắc phục các vấn đề xã hội bức xúc nghĩa là hạn chế tác động tiêu cực, đồng thời mặt khác tạo ra trình độ phát triển mới của tam nông phù hợp mục tiêu phát triển lành mạnh, bền vững nghĩa là phát huy tác động tích cực của các nhân tố tam nông đến sự biến đổi tiến bộ của con người, văn hóa Việt Nam trong tương lai gần và xa.                                                                                                                         

PHÁC THẢO MẪU HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ SỰ PHÁT TRIỂN TAM NÔNG KIỂU MỚI CHO VIỆT NAM (TẦM NHÌN 2020 VÀ XA HƠN NỮA).

1. Các quan điểm chỉ đạo

  • Quan điểm biện chứng, toàn thể, hệ thống
  • Quan điểm con người là gốc, dân là gốc
  • Quan điểm phát triển lành mạnh, bền vững
  •  Khinh - Trọng với tư cách là siêu quan điểm

2. Mẫu hình hệ thống xã hội kiểu mới toàn diện

2.1. Năm lĩnh vực cơ bản

  • Kinh tế thị trường cạnh tranh lành mạnh
  • Chính trị dân chủ tham gia
  • Văn hóa đa dạng, dung hòa
  • Xã hội công bằng, hòa thuận
  • Môi trường bền vững

ØTrật tự ưu tiên: 1- Tăng trưởng kinh tế, 2- Phát triển xã hội, 3- Bảo vệ môi trường

ØChiến lược sinh kế và phát triển lành mạnh, bền vững  lấy con người (= nhân dân) làm trung tâm, mục tiêu, động lực cơ bản của phát triển; với nguyên tắc: con người tự do mưu sinh và phát triển toàn diện

2.2. Ba cột trụ chính

  • Nhà nước pháp quyền dân chủ, quản trị tốt
  • Thị trường hiện đại, cạnh tranh lành mạnh
  • Xã hội dân sự đoàn kết, tự quản tốt

ØVị trí, vai trò: Nhà nước là "bàn tay pháp lý", Thị trường là "bàn tay vô hình", Xã hội dân sự là "bàn tay liên đới"

ØTrọng tâm đổi mới tiếp tục: 1- Giảm mạnh độc quyền nhà nước, tăng mạnh năng lực hỗ trợ của Nhà nước cho xã hội, 2- Thúc đẩy cổ phần hóa và tư nhân hóa, gia tăng năng lực cạnh tranh lành mạnh, 3- Phát huy truyền thống xã hội dân sự, phát triển hệ thống xã hội dân sự hiện đại, đoàn kết, tự quản tốt.

3. Mẫu hình tam nông kiểu mới toàn diện

3.1. Mục tiêu kép

  •  Sinh kế bền vững

* Xóa đói, giảm nghèo nhanh, bền vững

* Đảm bảo an sinh cơ bản

ØTrọng tâm đổi mới tiếp tục:

Củng cố, hoàn thiện hệ thống an sinh cơ bản, thiết yếu

  • Phát triển lành mạnh, bền vững

* Phát triển kinh tế tam nông lành mạnh, bền vững

* Phát triển xã hội tam nông lành mạnh, bền vững

* Bảo vệ môi trường tam nông bền vững

ØTrọng tâm đổi mới tiếp tục: Giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh, bức xúc; đặc biệt là các vấn đề nan giải sau: 1- Tình trạng gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm, giai tầng xã hội; giữa đô thị và nông thôn; giữa các vùng miền trong cả nước; 2- Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp của cư dân nông thôn, đặc biệt là của giới trẻ ở nông thôn; 3- Tình trạng thiếu đất, mất đất, bỏ đất ở nông thôn như là hậu quả của những sai lầm hoặc phạm pháp trong quá trình đẩy nhanh CNH, ĐTH, HĐH đất nước

3.2. Ba thành phần cơ bản

  • Giới nông dân giàu sang
  • Ngành nông nghiệp hiện đại, chất lượng cao
  • Khu xã nông thôn phát triển lành mạnh, bền vững

ØTrọng tâm đổi mới tiếp tục: 1- Nâng cao năng lực sinh kế và phát triển của giới nông dân; 2- Đầu tư phát triển nông nghiệp hiện đại, đủ sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế; 3- Nâng cao năng lực quản trị địa phương của Nhà nước và tự quản cộng đồng cơ sở xóm làng ở nông thôn.  



1Tổng cục Thống kê, 2008.

[2]Tổng cục Thống kê, 2008.

[3]Tổng cục Thống kê, 2008.

[4]Tổng cục Thống kê, 2008.

[5]Tổng cục Thống kê, 2008.

[6]Xem, chẳng hạn, Trần Từ, 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Nxb KHXH. Hà nội.

[7]Xem, Trần Đình Hượu, 1995. Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hóa. Hà nội.

[8]Xem, Đặng Kim Sơn, 2008. Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau. Nxb CTQG. Hà nôi.

[9]Xem, James C. Scott, 1976. The moral Economy of the Peasant. Rebellion and Subsistance in Southeast Asia. Yale University Press. London.

[10]Xem, Trần Quốc Vượng chủ biên, 1997. Cơ sở Văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục. Hà nội.

[11]Xem, Jan Breman, 1995. Hình ảnh tan vỡ: Xây dựng và phá vỡ hình tượng về làng - xã tại châu Á thời thuộc địa. Trong sách: Mạc Đường chủ biên. Làng - xã ở châu Á và ở Việt Nam. Nxb TP. Hồ Chí Minh.

[12]Xem, Trần Ngọc Thêm, 1996. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb TP. Hồ Chí Minh.

[13]Xem, chẳng hạn, Tô Duy Hợp, 2007. Khinh - Trọng, một quan điểm lý thuyết trong nghiên cứu triết học và xã hội học. Nxb Thế giới. Hà nội.

[14]Xem, Samuel L. Popkin, 1979. The Rational Peasant. The political Economy of rural Society in Vietnam. University of California Press.

[15]Xem, Chovanies A. B, 1986. On Vietnamese and Other Peasants. Trong J. of southeast Asia Studies. Singapore. Volum 17, N 22, p. 203 - 235.

[16]Xem, Đào Thế Tuấn, 1997. Giới thiệu một số vấn đề về nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc. Tạp chí Xã hội học, số 4/1997.

[17]Xem, Phan Ngọc, 1994. Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb VH - TT. Hà nội.

[18]Xem, Đặng Kim Sơn, 2008. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và Mai sau. Nxb CTQG. Hà nội. Tr.21.

[19]Xem, Đặng Kim Sơn, 2008. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và Mai sau. Nxb CTQG. Hà nội. Tr.23.

20 Xem, Đặng Kim Sơn, 2008. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và Mai sau. Nxb CTQG. Hà nội. Tr.47.

21 Xem, chẳng hạn, Báo cáo phát triển Việt Nam 2004. Nghèo. Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại hội nghị tư vấn của các nhà tài trợ cho Việt Nam. Hà nội. 2 - 3/12/2003.

22 Xem, Đặng Kim Sơn, 2008. kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình CNH. Nxb CTQG. Hà nội. Tr.147 - 177.

[23]Xem, Đỗ Tiến Sâm chủ biên, 2008. Vấn đề tam nông ở Trung Quốc - Thực trạng và Giải pháp. Nxb Từ điển bách khoa. Hà nội. 

[24]Xem, Đỗ Tiến Sâm chủ biên, 2008. Vấn đề tam nông ở Trung Quốc - Thực trạng và Giải pháp. Nxb Từ điển bách khoa. Hà nội. 

[25]Xem, Đỗ Tiến Sâm chủ biên, 2008. Vấn đề tam nông ở Trung Quốc. Thực trạng và Giải pháp. Nxb Từ điển bách khoa. Hà nội.

26 Xem, Đỗ Tiến Sâm chủ biên, 2008. Vấn đề tam nông ở Trung Quốc. Thực trạng và Giải pháp. Nxb Từ điển bách khoa. Hà nội.

[27]Xem, Đặng Kim Sơn, 2008. Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình CNH. Nxb CTQG. Hà nội. Tr.181 - 187.

[28]Đặng Kim Sơn, 2008.  Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình CNH. Nxb CTQG. Hà nội.

"Vượt qua thời gia tích lũy lâu dài, hầu hết các nước phát triển trước đây đều theo "mô hình chữ U": ban đầu, cả kinh tế nông nghiệp, xã hội nông thôn, môi trường nông thôn đều suy giảm qua 3 mốc chuyển đổi ... mới đi lên trở lại (tr. 128)". "Ở đa số các quốc gia đi trước, cần phải có hàng trăm năm để tiến hành các giải pháp rất phức tạp .... Thời gian dài đó cho phép các nước tích lũy đủ sức đi qua 3 mốc chuyển đổi về kinh tế, chính trị và môi trường: Thứ nhất, khi tỷ lệ nông nghiệp trong GDP của cả nền kinh tế xuống ngưỡng 15%, đó là khi sản xuất nông nghiệp kém dần khả năng cạnh tranh (giá đất, lao động tăng,...) và cũng là khi ngân sách Nhà nước đủ sức để miễn thuế và các khoản thu từ nông nghiệp, có tiền bảo vệ, trợ cấp, đầu tư cho kinh tế nông thôn. Thứ hai, khi tỷ lệ cư dân nông thôn giảm xuống chiếm khoảng 7-10% dân số, là lúc chỉ nông dân giỏi ở lại nông thôn, người sản xuất lớn tổ chức lại trong nghiệp đoàn, hiệp hội tương đương chất lượng tổ chức xã hội đô thị, cũng là lúc Nhà nước phát triển cao bắt đầu phân cấp cho các tổ chức của người sản xuất, kinh doanh. Nông dân trở nên quan trọng trên chính trường. Thứ ba, khi thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 7.000-8.000 USD/năm, nhân dân yêu cầu cuộc sống chất lượng cao, hài hòa với tự nhiên, quốc gia đủ tiềm lực xử lý vấn đề ô nhiễm, khôi phục cân bằng sinh thái. Phát triển môi trường trở thành ngành kinh doanh có lợi, bảo vệ môi trường thành tâm lý xã hội (tr. 127 - 128)".

[29]Xem, Đỗ Tiến Sâm chủ biên, 2008. Vấn đề tam nông ở Trung Quốc - Thực trạng và Giải pháp. Nxb Từ điển bách khoa. Hà nội.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114575173

Hôm nay

2191

Hôm qua

2295

Tuần này

2486

Tháng này

222230

Tháng qua

130677

Tất cả

114575173