Những góc nhìn Văn hoá

Từ thế kỷ XXI nhìn lại Xô Viết Nghệ Tĩnh

Liền sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào cách mạng 1930-1931diễn ra rầm rộ trên quy mô cả nước mà đỉnh điểm là Xô viết Nghệ Tĩnh. Nhiều công trình nhỏ, to của các học giả trong và ngoài đã đề cập đến sự kiện này dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với độ lùi trên 80 năm, chúng ta bình tĩnh, khách quan nhìn lại sự kiện trọng đại đó.

Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh diễn ra trong bầu không khí cách mạng đã được hâm nóng từ phong trào chống thuế Trung Kỳ năm 1908 và cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học tháng 2 năm 1930. Nếu như phong trào chống thuế diễn ra ở các tỉnh miền Trung, hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng diễn ra rời rạc với thời gian tồn tại vài ba tháng ở các tỉnh châu thổ sông Hồng và trung du Bắc Kỳ, thì cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên một năm với cường độ mạnh ở 25 tỉnh thành khắp trên cả nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh bằng việc thiết lập chính quyền của những người bị áp bức, bóc lột, khác xa với các loại chính quyền hiện thời và trước đó, để lại những ký ức khó phai mờ trong lòng người dân đất Việt và hơn thế nữa để lại một hình mẫu chính quyền mà dân ta muốn hướng tới.

Một vấn đề đặt ra là một mô hình chính quyền hợp lòng dân đó sao lại chỉ có thể đứng vững trong một thời gian ngắn? Đó là một câu hỏi khó mà xưa nay các nhà khảo cứu đã tìm cách giải mã, nhưng đều chưa thỏa đáng. Theo tôi, chỉ có thể làm thỏa mãn câu hỏi đặt ra đó khi ta tiếp cận từ nhiều khía cạnh, đặc biệt từ hai khía cạnh quan trọng nhất: lực lượng nào dẫn dắt nó và môi trường sinh ra nó.

Nghiên cứu tiến trình phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ta có một nhận xét khái quát: những biểu hiện căn bệnh ấu trĩ tả khuynh chỉ xuất hiện vào lúc phong trào đang đứng trước sự tấn công điên cuồng của thực dân Pháp và bề lũ tay sai. Trong sự quyết đấu đó, để tiếp tục đưa phong trào tiến lên, những người cộng sản cần phải tỉnh táo đề ra những giải pháp uyển chuyển, thì trái lại, đưa ra giải pháp quá cứng rắn, không phải đối với kẻ thù, mà đối với chính những người lãnh đạo phong trào: “ Trí, Phú, Địa, Hào; Đào tận gốc, trốc tận rễ”, từ đó dẫn tới Chỉ thị “ Thanh Đảng”, tức làm trong sạch nội bộ Đảng trước bước ngoặt của phong trào. Ta bắt gặp những trang hồi ký đẫm nước mắt của những người trong cuộc như bà Tôn Thị Quế khi đón nhận Chỉ thị đó. Hoặc lời khai của Phan Sĩ Liêm: “ Vào cuối năm 1930, thiếu úy Trưởng đồn Thanh Quả đến nhà bắt tôi…Tôi trốn trong núi trước Võ Liệt…Tôi ở đấy đến đầu năm…thì Bí thư Chi bộ Yên Trường đến nói với tôi rằng có lệnh của Đảng cấm những người giàu và trí thức không được hoạt động và do đó tôi không còn thuộc chi bộ anh ta nữa” (1) Sự thái quá trong  lý luận và thực tiễn thời Xô viết Nghệ Tĩnh không phải xa lạ, mà thuộc một căn bệnh thường gặp trong phong trào cộng sản quốc tế, căn bệnh “tổ tông”, đã được V.I. Lênin cảnh báo trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản xuất bản vào tháng 6 năm 1920. Trong tác phẩm đó, Người đã từng căn dặn những người cộng sản : “ Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỷ mỷ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù…cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù nhỏ bé nhất để có được một bạn đồng minh tạm thời bấp bênh, có điều kiện, ít chắc chắn và đáng tin cậy” (2) Căn bệnh đó xuất phát từ sự nhận thức không đến nơi đến chốn lý luận mác xít về chuyên chính vô sản và việc vận dụng máy móc nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước. Sự nhận thức không thấu đáo đó đã dẫn tới hai dạng tả khuynh khác nhau trên hai vùng của thế giới. Ở các nước phát triển lúc đầu xuất hiện khuynh hướng “tả”, rồi dần dần tới “cực tả”, được biểu hiện trọn vẹn trong chủ nghĩa Trốt xki, đề cao thái quá vai trò của giai cấp vô sản trong tiến trình cách mạng vô sản, điều đó dẫn tới chủ nghĩa biệt lập. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, như chúng ta, xuất hiện một khuynh hướng quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp, hạ thấp yếu tố dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta căn bệnh đó được biểu hiện sớm nhất trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Vậy phong trào này về tư tưởng chịu ảnh hưởng của lực lượng chính trị nào, của chính đảng nào? Từ trước tới nay trong các công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng 1930-1931 chỉ thấy nói một cách chung chung là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói như thế có lẽ không hoàn toàn chính xác. Theo tôi, cao trào cách mạng này trước tiên chịu ảnh hưởng tư tưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng  ở Bắc Kỳ. Cao trào này khởi phát từ cuộc đấu tranh của 3000 công nhân ở đồn điền Phú Riềng dưới sự lãnh đạo của Trần Tử Bình, một trong những đảng viên thuộc chi bộ cộng sản đầu tiên ở Nam Kỳ, được Ngô Gia Tự, phái viên của Đông Dương Công sản Đảng , tổ chức. Tiếp đó là cuộc đấu tranh cuả công nhân Nam Định và Vinh-Bến Thủy là hai trung tâm công nghiệp ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, địa bàn hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng. Những phái viên của Đông Dương Cộng sản Đảng có mặt đầu tiên ở Vinh-Bến Thủy là Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, tiếp đó là Nguyễn Đức Cảnh. Họ chính là những người sáng lập Chi bộ cộng sản đầu tiên trong nước và là trụ cột của Đông Dương Cộng sản Đảng. Như vậy, cao trào cách mạng 1930-1931- quy mô toàn quốc và phong trào Xô viết- quy mô địa phương, đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của ĐDCSĐ[…]. Như chúng ta điều biết, thời Việt Nam cách mạng Thanh niên, Kỳ bộ thanh niên Bắc Kỳ là mạnh nhất, không chỉ đông hội viên hơn, mà mạnh về chất lượng và hoạt động thực tiễn. Đây là nơi sản sinh ra phong trào “vô sản hóa” góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân. Vì thế, trên mảnh đất này những người lãnh đạo sau khi tiếp nhận các Nghị quyết của Đại hội VI Quốc tế Cộng sảng năm 1928, đã sớm nhận ra sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản. Họ đã thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên làm hạt nhân cho cuộc vận động đó. Khi vấn đề thành lập ĐCS mà họ nêu lên tại Đại hội I Thanh niên không được chấp nhận, họ bỏ đại hội ra về và công bố Tuyên ngôn giải thích cho hội viên lý do không tiếp tục dự đại hội. Nửa tháng sau, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập và thông qua những văn kiện nền tảng như Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ. Tuyên ngôn xác định tính chất của Đảng là: “Đảng cách mệnh đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức là thợ thuyền) ở Đông Dương…Đảng CS là Đảng bênh vực cho toàn giới vô sản giai cấp, dân cày nghèo và tất cả những người làm lụng bi bóc lột và đè nén”.

Những vấn đề lý luận nêu lên trong các văn kiện có tính cương lĩnh của ĐDCS Đảng về căn bản là đúng, nhưng có nhiều điểm quá đơn giản và chưa chính xác, đặc biệt không nhận thức được yếu tố dân tộc, mà quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp theo nhận thức không thấu đáo loại hình cách mạng ở các nước thuộc địa như chúng ta. Sự thiên lệch đó đã dẫn tới những biểu hiện tả khuynh và biệt lập trong đường lối và hành động thực tiễn. Điều này được biểu hiện rõ trong thái độ của Đảng đối với các giai cấp khác ngoài công nông. Chẳng hạn, đối với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản không có sự phân biệt rạch ròi giữa địa chủ yêu nước và địa chủ phản động, giữa tư sản dân tộc và tư sản mại bản để có thái độ đúng nhằm phân hóa, lôi kéo họ về phia cách mạng hoặc đối với trí thức có những nhận định không đúng khi cho rằng “ cách mạng càng tiến lên, thì tụi đó cứ dần dần lui về”. Với những tư tưởng chỉ đạo đó, ĐDCSĐ giỏi lắm chỉ xây dựng được khối liên minh công nông, chứ không thể xây dựng được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn. Chúng ta hoàn toàn hiểu và thông cảm với họ, bởi lẽ ĐDCSĐ vừa mới thoát thai từ Thanh niên cần phải tỏ ra là cộng sản, lấy tính giai cấp làm tiêu chí phân biệt giữa cộng sản và quốc gia, mà không thấy được vấn đề cốt tử là những người cộng sản ở các nước thuộc địa đang lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì thế yêu tố dân tộc ở đây là trên hết, trước hết, lợi ích dân tộc phải được đặt trên lợi ích giai cấp. Sự thiên lệch đó hay nói cách khác mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đã được giải quyết thỏa đáng khi Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ đó chúng ta mới có Mặt trận Việt Minh và dẫn tới thắng lợi trong cách mạng tháng Tám. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi chúng ta lại phạm phải tả khuynh trong cải cách ruộng đất, cải tạo tư bản tư doanh và chống nhóm Nhân văn giai phẩm. Những sai lầm tả khuynh đó tạo ra một sự sinh hoạt chính trị mới chưa từng có trước đó, theo nghĩa xấu, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Chẳng hạn, trong cải cách ruộng đất, những người cố nông, bần nông là những người không biết chữ lên nắm chính quyền làng xã. Và chúng ta biết xã hội vận động như thế nào khi những người không biết chữ nắm giử chính quyền. Vấn đề ở đây là chính quyền đứng trên lập trường của giai cấp nào chứ không phải là giai cấp nào nắm chính quyền. Sự đảo lộn các giá trị xã hội bắt đầu từ sự nhận thức thô thiển đó. Từ đó, theo thời gian, trên bình diện tư tưởng, lại xuất hiện một biến thái khác của khuynh hướng tả – duy ý chí, đề cao quá đáng yếu tố con người. Duy ý chí xuất hiện trong bối cảnh khi ta đang đứng trên “ đỉnh cao muôn trượng” sau thắng Mỹ, tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội và hâu quả như thế nào chúng ta đã từng nếm trải.

Khía cạnh quan trọng thứ hai là môi trường sinh ra tư tưởng tả khuynh và duy ý chí, đó là xứ Nghệ. Như trên đã thưa, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả nước, nhưng đến xứ Nghệ nó đâm hoa kết trái bằng sự thành lập chính quyền Xô viết. Đó là điều chúng ta phải suy ngẫm, xem xét, trước hết là hai yếu tố: Địa và Nhân.

Nhìn lên bản đồ nước Việt chúng ta, Nghệ Tĩnh là giải đất hẹp nằm kẹp giữa một bên là dãy Trường Sơn và một bên là biển Đông. Đây là mãnh đất không được thiên nhiên ưu đãi, nắng lắm, bão tố, lụt lội nhiều. Yếu tố địa quy định tính cách con người quần tụ nơi đây. Họ muốn trụ được và tồn tại trên mãnh đất này trước hết là họ phải cố kết thành những cộng đồng người để chinh phục thiên nhiên. Dần dà trong cộng đồng người đó hình thành một tính cách căn bản – bất khuất trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nét đặc trưng đó của người xứ Nghệ trở thành một tài sản tinh thần vô giá- bất khuất trước cường quyền, bất công trong xã hội. Xem trong lịch sử xứ Nghệ, chỉ thời kỳ lịch sử cận hiện đại thôi, cũng đầy những bằng chứng về sự bất khuất trước sự xâm lược của ngoại bang và trước cường quyền.  Khi ở đây chưa có thực dân Pháp, Trần Tấn và Đặng Như Mại đã dựng cờ nghĩa với lời thề chém đá: “ Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”. Và khi kẻ thù xuất hiện, người Nghệ Tĩnh đã hội tụ, chiến đấu dưới lá cờ nghĩa của Phan Đình Phùng trong phong trào Cần Vương từ đầu chí cuối. Trong phong trào chống thuế Trung Kỳ 1908, phong trào chống thuế khi vượt qua Đèo Ngang đã nhuốm màu bạo động. Rồi người xứ Nghệ xốc tới cao trào cách mạng năm 1930 như ta đã thấy. Có lẽ, con người trên mãnh đất này không thích thỏa hiệp, chỉ thích quyết đấu. Nó là sản phẩm của lịch sử hàng nghìn năm. Nó như con dao hai lưỡi, tốt ở hoàn cảnh này, nhưng không tốt trong trạng huống kia. Những biểu hiện hướng tả trong cải cách ruộng đất, trong duy ý chí thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội qua câu nói nổi tiếng gần xa của Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu Nguyễn Văn Đợi: “ Mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản”

Từ những điều sau nhiều năm suy ngẫm đã được trình bày ở trên có thể rút ra một nhận định khái quát là: Những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh thuộc một căn bệnh thường gặp ở thời kỳ đầu của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới, nhưng đồng thời phản ánh một cá tính đặc thù của cư dân bản địa. Những người lãnh đạo ở địa phương này cần phải tính đến cái đặc sản tinh thần đó khi phát động một phong trào.

 

Chú thích.

1. Dẫn theo, Lê Thị Hạnh Phúc, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học 65 năm Xô việt Nghệ Tĩnh, Vinh, 1996, tr.,304.

2. V.I. Lênin. Toàn Tập, tập 41. Nxb Tiến bộ, M,1977, tr, 69.

 

 

 

 

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114575194

Hôm nay

2212

Hôm qua

2295

Tuần này

2507

Tháng này

222251

Tháng qua

130677

Tất cả

114575194